Chương 3
Có tiếng chân bước mạnh trong hành lang và một giọng ồ ề vui vẻ báo hiệu ông Sprigg đã về. Hai mẹ con thu dọn đồ thêu để sắp đặt bữa ăn tối. Trong lúc mẹ cô dọn bàn, như thường lệ, cô bé chạy ra hành lang ôm hôn cha nuôi.
Dáng người vạm vỡ cao lớn, trên 60 tuổi, tuy nhiên suốt nửa thế kỷ lao tác ông Sprigg vẫn còn cường tráng ; đôi vai hơi cong một chút, khuôn mặt sạm nắng dưới mớ tóc mầu hung rất dày. Cặp mắt xanh mở rộng phía trước, tóc rũ xuống che lấp cái trán hói, đôi mắt xanh lơ làm ta liên tưởng đến hai cánh cửa sổ mở rộng dưới đôi mày dài rậm như mái hiên một ngôi nhà tranh. Răng trắng bóng, ông ăn rất khỏe. Tính nóng như lửa thật xứng với bộ tóc mầu hung. Gần ông người ta nhận ra ở ông một sự kiên nhẫn vô biên và lòng dũng cảm đáng phục. Trong cơn hoạn nạn lời nói của ông có thể làm ta lo ngại, song cách cư xử của ông thì đúng là một thánh nhân.
Ông Sprigg yêu đất đai, nông trại như chính bản thân. Khi kế nghiệp cha, trang trại Week đang hồi suy sụp, mà rồi chỉ sau thời gian mười năm canh tác, ông biến nó thành một nông trại trù phú nhất vùng này. Sprigg giống như vợ: tuy không để ý đến thời trang song ông giữ được một bề ngoài khá chỉnh: áo quần của ông, bộ cho ngày lễ, bộ đi săn, bộ quân phục dân binh, bộ đi chợ, tất cả đều bằng thứ vải tốt, cắt khéo. Trừ bộ quân phục, mấy bộ kia trước vốn của cha ông, may dễ trên 20 năm, song với tài giặt ủi kỹ lưỡng của má Sprigg nó vẫn còn hoàn hảo lắm.
Người cha kêu lên khi ôm con gái vào lòng. Cô bé nhỏ nhắn như con chim sẻ:
- Từ từ chứ! Con gái của ba! Con làm ba ngã bây giờ đấy!
Stella cười ròn rã, rúc vào ngực cha. Áo lông thơm mùi khói rừng (một mùi hương đặc biệt của mùa thu). Và cô bé chồm ra sau lưng cha, đưa tay, kêu khẽ:
-Hodge! Lại đây!
Con chó dúi cái mõm lạnh ngắt vào bàn tay tiểu chủ, lè lưỡi liếm tay cô một cách âu yếm. Stella cảm thấy mình thật đầy đủ, sung sướng khi bên cạnh có cha yêu quí và con vật trung thành.
Mùi súp thơm ngát xông tận cửa, cả ba vội vàng vào bếp trong lúc mẹ cô bé đang múc súp ra những cái chén mầu nâu bằng sành. Con mèo Séraphine vươn vai chỗi dậy, cùng một lúc, chị Madge (người tớ gái) từ nơi trữ sữa mang vào nào bơ, nào phô ma và kèm một bình kem.
Solomon-Dod, một bác giúp việc nữa, già khụ, cùng về một lượt với chủ nhân đang ngồi chỗ thường lệ của ông ta cạnh lò sưởi, miệng ngậm ống điếu bằng đất, đôi tay chai cứng đặt lên đầu gối. Trang trại có nhiều người giúp việc, song chỉ có Madge và già Solomon ở lại trong gia đình ông Sprigg mà thôi.
Vợ chồng chủ nhân cùng con gái, hai người làm công, với chó Hodge và mèo Séraphine tạo nên một cộng đồng mà sự hòa hợp không diễn tả nên lời được, tuy nhiên mỗi người đều thông cảm sức mạnh của cộng đồng này. Solomon già đến nỗi ông ta quên cả ngày sinh và cũng quên tuốt cả việc mình có được rửa tội hay không? Ông chỉ biết có một điều chính xác nhất: ông đã sinh tại đây, làm việc, ăn uống, vui vẻ, hòa thuận với chủ nhân và cũng chính tại trại Week này, ông sẽ nằm xuống. Ngoài ra, ông còn nhớ rằng khi ông Sprigg ra đời, ông không còn trẻ lắm vì đã mang chứng phong thấp mấy năm rồi. Chứng bệnh quái quỉ này đè nặng trên lưng ông, đến nỗi mỗi khi thấy ông chống gậy khập khiễng bước lúc trời trở gió, Stella đã ví ông như cây dâu già cỗi ngoài vườn. Thực vậy, nom già Solomon giống một cây khô hơn một con người: chân tay khẳng khiu, da mặt nhăn nheo đen sạm như vỏ cây, bộ râu thì xám bạc tựa đám rong bám trên mấy cây bom.
Giọng nói của già Solomon mòn mỏi với thời gian, lại vì răng rụng hết nên khàn khàn tựa tiếng quạ kêu, song đôi mắt vẫn sáng quắc và tính còn thích khôi hài. Một điều buồn cười và khó tin là già vẫn còn đủ sức để cày một luống đất và hát, bằng cái giọng khao khao ấy cùng với tên phụ việc một bài hát, mà tất cả nông dân miền Devon đều thuộc lòng để khuyến khích lũ bò. Lũ bò ở trại Week, chỉ chịu bước đều khi có tiếng hát của Sol. Nếu già Sol. ngừng lại thì lập tức, chúng cũng ngừng lại giống như bầy hải âu bay lượn phía sau. Tiếng hát quen thuộc của người nông dân già sai khiến được lũ bò kéo cày cũng như người ta nói rằng tiếng thì thầm của các vì sao tạo nên sự nhịp nhàng cho sự tuần hoàn của vũ trụ.
Riêng chị Madge, chẳng có gì bí mật về tông tích chị. Chị thuộc một gia đình nghèo và đông con, cha mẹ chị mất vào lúc chị lên 10 và vào tuổi đó chị phải ở trong một viện mồ côi. Ông bà Sprigg là người đầu tiên đối xử tử tế với chị. Từ 20 năm qua, chị Madge giúp việc tại đây, một người giúp việc tận tâm. Dáng người thô, khỏe mạnh, mũi hơi hếch, mặt đầy tàn nhang ; ít nói nhưng vui tính, lúc nào như cũng sẵn sàng để cười với bất cứ ai. Madge không biết đọc, không biết viết, không biết bốn phép tính thông thường – tóm lại, nói một cách văn vẻ thì chị... mù chữ – song khắp vùng này, khó có một người đảm đang, nhanh nhẹn hơn chị.
Cô mèo Séraphine và chú chó Hodge cũng là một trong thành phần của gia đình.
Bữa ăn trôi qua trong im lặng, vì ai nấy đều mệt nhoài sau một ngày làm việc từ sáng tinh mơ. Chỉ có ông Sprigg kể chuyện một tên lạ mặt đến xin việc.
- Chao ôi! Trong đời tôi, tôi thề là chưa thấy đứa con trai mà gầy guộc, ốm yếu kiểu đó. Bộ tướng gió thổi cũng xiêu. Theo tôi, chắc là một tên vô lại...
- Ba không cho hắn làm việc sao, ba?
Giọng cô con gái tràn thương cảm, cô buồn rầu khi nghĩ đến cảnh khốn đốn của gã thiếu niên ốm yếu gầy còm... Người cha đáp:
- Thật ra, cha không đuổi gã này vì thấy gã ốm yếu, mà vì... vì hắn có vẻ tù vượt ngục quá. Ta không muốn dây vào với nhà chức trách. Chấp chứa tù vượt ngục con biết tội gì không?
- Hodge cũng đồng ý với ba sao?
Stella ngây thơ hỏi. Ông Sprigg nhìn con gái, gằn giọng:
- Hodge không có mặt lúc đó, nó đang giúp già Sol. đuổi bò về, nhưng sao mày lại hỏi như vậy? Dễ mày cho là ba mày không bằng con chó Hodge ư?
- Con tin tài quan sát của nó...
- Thôi! Stella! Đừng cãi lời ba. Hãy ăn súp đi kẻo nguội.
Món súp hành ngon tuyệt: có hành tây, lúa mạch, thịt bằm, đinh hương, sữa tươi và lá quế, tất cả quyện vào nhau, tạo thành một chất sóng sánh, thơm ngát mũi.
Ba, má, Stella, và Madge ngồi ăn quanh bàn, hai con vật nằm hai bên ghế của cô tiểu chủ (có món gì ngon, Stella lén tiếp tế cho chúng), già Sol. luôn luôn ngồi chỗ cố hữu của ông: một góc gần lò sưởi, bát súp đặt trên gối ; tuy thích ăn riêng như thế, ông vẫn góp chuyện với cả nhà. Đó cũng là một đặc điểm của trại Week, như tiếng hát nho nhỏ của Madge, tiếng sủa của Hodge, tiếng đồng hồ gõ, tiếng kim may của má Sprigg chạm sần sật vào đê, tiếng giày nặng nề của ông Sprigg kéo trên sàn gạch và tiếng gió xào xạc ngoài vườn. Stella nghĩ là sau này, dù có đi đâu xa, cô chả bao giờ quên được những âm thanh quen thuộc ấy. Nó cũng thân thiết, gần gũi cô như bàn tay, giọng ru và ánh mắt dịu hiền của mẹ cô.
Dưới ánh nến tỏa rộng ấm cúng, Stella ăn bánh, bom và kem, trông cô bé rạng rỡ như đóa hồng trong nắng sớm.
Bữa ăn chấm dứt, cô bé phụ với mẹ và chị Madge dọn bàn. Cha cô thư thả dạo tới, dạo lui một lúc rồi đến kệ tủ rút cuốn Thánh kinh. Ông đặt sách lên bàn một cách trân trọng, ngồi xuống, dùng một góc khăn quàng cổ lau kính, đoạn ông thấm nước bọt vào đầu ngón tay và bắt đầu lật từng trang sách... cử chỉ ông chững chạc, trang trọng. Cho đến khi lật đến trang sách có đóa hoa cẩm chướng khô, ép vào sách đánh dấu...
Mẹ con bà Sprigg trở về chỗ ngồi ở bàn, chắp hai tay trên gối. Già Sol. vẫn ngồi chỗ cũ nhưng dùng tay làm như một cái loa để nghe. Tại trại Week, Kinh và Kinh Thánh là những cuốn sách độc nhất hiện có. Theo truyền thống, gia chủ phải đọc một đoạn Kinh Thánh trước khi đi ngủ cho cả nhà nghe. Thói quen đó được xem như một phận sự và được thi hành một cách nghiêm chỉnh. Khó mà phân tách sự ích lợi của những buổi đọc Kinh Thánh. Có thể cả nhà đều ngầm xem thói quen này như một liều thuốc ngủ trước khi lên giường.
Nhiều bận, hai phụ nữ ngủ gục trong khi Stella sáng ngời mắt, theo dõi từng câu. Nhiều chữ làm cô bé hân hoan, phấn khởi. Tối hôm ấy, ông Sprigg đọc đến chương II.
"... Đó là một vùng đồi và thung lũng, thấm ướt nhờ nước từ trời. Chúa che chở đất này... luôn luôn Ngài hướng về đây..."
Những dòng chữ ấy gợi cho cô bé hình ảnh quê hương cô: trên những đồi non rải rác vài đàn súc vật, có suối chảy, thung lũng trồng cây ăn trái, những cánh đồng cỏ đất đỏ, những nông trại, những thánh đường cổ với tường đá xám. Stella thấy thời tiết đổi thay, luân phiên mưa nắng, lúa mọc lên cao đầy đồng, vườn cây đầy trái... Hương hoa và tiếng chim hót lanh lảnh mỗi sáng khác nào cũng dâng lên lời ca ngợi Chúa Toàn Năng! Chao! Nếu Chúa quay mặt đi, ắt nơi này chỉ còn ngập tràn bóng tối và hỗn độn. May thay, chẳng bao giờ xảy ra điều bất hạnh này...
Ông Sprigg vừa gập sách lại. Mọi người cúi đầu trong lúc ông đọc kinh cám ơn và chấm dứt bằng tiếng "Amen" thật lớn. Sau cùng, thở phào nhẹ nhõm, tuồng như ngầm hãnh diện đã chu toàn xong bổn phận khó khăn, ông đứng lên, vươn vai, ưỡn ngực.
Má Sprigg đưa tay dụi mắt. Madge có vẻ linh động trở lại, vội vàng lo đặt bàn cho bữa ăn sáng hôm sau.
Stella nhảy phóc xuống ghế, kêu to:
- Hodge! Séraphine! Ra đây!
Hai con vật được phép ngủ trong nhà, nhưng mỗi tối sau khi đọc kinh, Stella cho chúng ra ngoài giây lát. Cô bé ôm con mèo nhỏ nhắn trong tay, chạy bay ra ngoài, Hodge theo bén gót. Men theo hành lang, họ đến nơi trữ sữa, cô bé vứt mạnh con mèo xuống, đá con chó một cái (hai con vật biết tiểu chủ đùa nên không hề giận dữ) rồi với tay vào tủ chén bát lấy một cái dĩa và một cái chén. Cô vặn sữa ở bình vào chén, dĩa rồi trở lại tủ đựng thức ăn, lấy mỗi món một ít cho thêm vào chén dĩa, sau, đặt cả hai xuống thềm.
Nghe tiếng ho khàn khàn và mùi thuốc lá, cô biết là già Sol. đang đợi để khóa cửa. Đi ngang già, cô bé tinh nghịch đưa tay bẹo má già và không quên chúc già ngủ ngon. Hai con vật cũng theo sau cô bé, vô nhà.
Vô đến gian bếp, cô bé thấy cha đang lên dây đồng hồ, chị Madge còn bận đặt bàn và mẹ thì lo thắp nến. Và xong việc, họ vẫn chưa đi ngủ, già Sol. và hai ông bà bàn tính về công việc nông trại, đất đai. Cô gái bé hôn từng người, đoạn cầm nến của mình lên lầu. Theo sau cô là chó Hodge – hai ông bà không bằng lòng cho Hodge ngủ trong phòng con gái, nhưng Stella nài nỉ mãi nên họ xiêu lòng. Với cô bé, rời nhà dưới sau một ngày làm việc, nói cười, lo lắng, đụng chạm để lên lầu đi ngủ vào đêm thật không khác nào một thiên thần lên trời. Và cô bước nhè lên các bực thang, lòng lâng lâng với cái cảm giác mình là một thiên thần đang lên cao dần, cao dần. Trước mặt cô, chỗ thang lầu rẽ đôi, có một cửa sổ khá lớn nhìn xuyên qua khung kính, cô bé thấy vòm trời lấp lánh đầy sao, đêm thật lặng lẽ, yên tĩnh, cô bé dừng lại trước cửa sổ, không nghĩ ngợi gì, cô tận hưởng sự êm đẹp của ánh sáng và sự huyền diệu của đêm sao.
Hình như con chó cũng cùng tâm trạng chủ: nó nghếch mõm lên khung cửa sổ, và đến khi Stella quay vào phòng, nó còn nán lại hít một hơi dài trước khi chạy theo cô.
____________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG 4