Thứ Sáu, 31 tháng 7, 2015

Những Tác Phẩm Đầu Tay


Em là chị cả trong gia đình. Em nói thế cho oai ý mà, chứ thật ra, sau em chỉ có một đứa em trai, cu Tún, kém em gần hai tuổi thôi. Em hơi lấy làm lạ vì bạn em đứa nào cũng có ít nhất hai đứa em, rồi có đứa còn anh, còn chị nữa. Chứ như em thì vào ra… vẫn hai. Muốn chơi trò cô giáo ư? Eo ơi! Cô giáo gì mà chỉ có mỗi một học trò, trong khi đó cô em phải trông coi lũ chúng em gần ba chục đứa, ấy thế mà cô thật tài, coi như không ấy thôi. Còn em, dậy một đứa học trò thật chật vật. Hơn nữa, cu Tún không thích làm học trò em đâu, “chị Tu dậy chẳng đúng cách gì cả”, lại còn chê đấy! Chơi đồ hàng cũng vậy nữa, quanh đi quẩn lại chỉ có một người khách, chóng chán nên cu Tún bèn oa xịt em ra dù em có đem kẹo bánh ra dụ cũng không “lay chuyển” nổi hắn.

- Thôi, chơi với chị Tu chán lắm. Tiệm gì mà có mỗi một người khách, vắng hoe à. Em đi chơi bắn súng thích hơn.

Em tức quá cố trả đũa, nhái hắn:

- Cao bồi “gì mà có mỗi một” mạng!

Thì nó cãi lại ngay:

- Vậy chứ chị có thấy hiệp sĩ nào mà cần người theo hầu không?

Em thua, em đành vào tủ lấy sách hình ra xem, lấy giấy ra vẽ vậy. Em bắt chước bố em đấy, và bố thường mắng yêu em:

- Chó con, mới có chút xíu mà cũng vẽ vẽ, tô tô rồi!

Bố nói vậy chứ em biết vẽ từ lâu rồi, vẽ giun ấy mà, từ dạo em biết cầm cây bút cho khỏi rơi cơ. Như vậy em có phải là “thần đồng” không? Em học chữ đó được, nhờ hôm trước em chợt nghe bố mẹ nói chuyện cô bé gì ấy, biết làm thơ từ năm 8 tuổi và mẹ khen : “Thật là một thần đồng!” Vì vậy, em quyết định cho mẹ biết tài con gái mẹ.

Nhân một hôm mẹ bàn với bố:

- Có lẽ em tập cho con Tu viết là vừa (dạo ấy em chưa vào mẫu giáo nữa).

Và mẹ làm ngay hôm sau : Mẹ đưa em một cuốn tập. Mẹ gạch lên đó một gạch đứng đầu tiên mầu đỏ, những gạch tiếp theo bằng viết chì nhạt và mẹ đưa em cây bút bảo em đồ theo. Mẹ ngồi bên cạnh xem em làm. Em chẳng thích cái trò ấy chút nào cả, gì mà toàn những đường thẳng giống nhau, “chẳng nghệ sĩ tí nào”. (Bố em nói đấy). Nhưng không theo không được, mẹ ngồi kè kè bên cạnh nhắc chừng em hoài:

- Kéo từ từ thôi! Con làm gì mà cong queo thế này.

Em thấy buồn buồn. Cứ như vậy mãi, đến bao giờ mẹ mới biết tài em. Thì may sao, ngồi được một lát, mẹ bảo:

- Ngồi viết nốt đi con, mẹ vào trong rửa tay một chút.

Dịp may ngàn năm của em đã đến. Và thoáng sau mẹ ra, em đưa mẹ tất cả công trình của em. Nhưng sao trán mẹ cau lại và mẹ kêu lên:

- Trời ơi, con gái! Chắc mẹ em ngạc nhiên, không ngờ em tài đến thế vì sau đó mẹ kêu bố.

- Bố ơi! Vào em cho coi cái này.

- Gì vậy?

- Bố xem “tác phẩm” của con gái này.

Giọng mẹ giận giận làm sao ấy. (Em quên không nói là đối với việc học, mẹ nghiêm ghê lắm). Bố vào, cầm quyển vở mẹ đưa, nhưng bố chỉ xoa đầu em cười rồi quay sang pha trò với mẹ:

- Con gái bố tính làm quà cho mẹ bằng cách viết nhanh cho mẹ vui đấy mà.

- Nhưng quà gì mà toàn những giun, lại dài ngoằng từ đầu trang đến cuối trang thế này. Mẹ bảo con gạch đứng cho mẹ, chứ mẹ đâu có bảo con vẽ giun?

Mẹ giận thật rồi, bố vội dàn hòa:

- Thôi thôi! Mai con gái sẽ làm y như mẹ dậy.

Và quay sang em:

- Phải không con? Bây giờ mẹ con vào sửa soạn, tối nay không ăn cơm nhà. Bố đưa mẹ con đi ăn mì rồi đi chơi một vòng.

Em quên ngay “nỗi buồn”, vỗ tay reo lên:

- Mì Chợ Lớn phải không bố?

Mẹ phì cười, mắng em:

- Con chó, chỉ ăn là rành miệng.

*

Đấy là dạo em chưa đi học. Bây giờ thì em đã biết viết cho ngay ngắn, làm toán, lại còn vẽ nữa. Em không còn vẽ giun, bây giờ em vẽ nhà, chung quanh là cây xanh, điểm đầy quả tròn đỏ, em còn thêm trước cửa một con chó nâu, như con Mi Nô nhà em vậy. Cô giáo em khen em có khiếu vẽ, và cho em bẩy điểm. Cả lớp, chả đứa nào được như em, làm em hãnh diện ghê đi. Nhưng điều làm em thích hơn nữa là khi em trình vở, kể lại cho bố nghe lời cô giáo em, bố ôm em vào lòng, hôn lên má em và giọng bố chợt trầm hơn:

- Con gái bố! Để rồi bố sẽ dậy con vẽ.


HỒNG HẠNH    

Gia đình Vi Vi - 1973 (Nguồn : Trung Võ)

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số196, ra ngày 1-3-1973)

Thứ Năm, 30 tháng 7, 2015

CHƯƠNG XVII_TIẾNG CHUÔNG DƯỚI ĐÁY BIỂN


CHƯƠNG XVII


Con đường dốc mà Lan và Khôi Việt đi xuống đưa tới một dãy phố đổ nát khác xanh rờn và nhầy nhụa rong rêu. Ba người lo tìm cây thánh giá đổ nghiêng, nơi mà thầy Phong hẹn đứng chờ. Thầy đã cho họ biết chỗ đó là nơi an toàn nhất, và đủ xa để khỏi bị chấn động khi mìn nổ.

Việt vừa nhác thấy cây thánh giá, toan nói cho các bạn biết thì chợt khựng người lại vì hoảng sợ. Không phải đây là một con giải, hay một con cá mập đang tiến về phía ba người mà là một đoàn đốm sáng di động đến chỗ họ đứng. Việt lạc giọng kêu :

- Bọn thủ hạ của tên chỉ huy Tổ chức! Chắc họ đang lùng tụi mình.

- Trốn mau!

Khôi kéo các bạn vào một khuôn cửa, ẩn sau vách tường nứt rạn. Lan run run nói :

- Hình như họ định vây mình, có nên lánh đi nơi khác không?

Khôi đáp :

- Cứ đứng yên ở đây. Họ không thấy mình đâu.

Những đốm sáng tản mát như chia nhau tìm kiếm rồi lại tập trung vào một chỗ. Việt nghe được tiếng họ hỏi nhau :

- Phải chỗ này không?

- Chắc phải... Anh Minh đã dặn là...

Chợt có tiếng nổ vang rền dưới nước. Lan hoảng hốt nắm lấy vai Việt. Anh nghe thêm tiếng nói của bọn người kia :

- Chắc chúng mình không thoát được!

Nghe giọng nói đó, Lan buông Việt ra :

- Thằng em họ của tui. Đúng tiếng nó rồi!

Và Lan toan chạy đến. Nhưng Khôi, Việt đã kịp ngăn nàng lại.

Ba người rời chỗ nấp. Tiếng nổ vừa rồi, làm bọn người kia hoảng hốt bỏ chạy.

Lan nói :

- Bọn họ là dân đảo, đang tìm đường trốn! Phải đón gặp họ chứ?

- Sợ họ không nhận ra mình và dám tấn công mình luôn.

- Cứ để kệ họ. Thầy Phong đã hẹn mình chờ ở đây, thì cứ chờ thầy ấy đã.

Mấy phút sau thầy Phong trở lại. Giọng thầy vui vẻ truyền qua ống phóng thanh :

- Xong cả rồi. Kết quả mỹ mãn! Bây giờ chúng ta chỉ còn tìm đường đến chân ngọn hải đăng để "lên bộ" nữa thôi.

Khôi, Việt cho thầy biết về đám dân đảo, và hướng của họ đang đi.

Thầy nói :

- Họ cũng như mình, đang tìm lối lên mặt đất! Xem nào, chỗ mình đang đứng có lẽ là cuối dải đất của thị trấn tân lập bị sụp xuống lòng biển vì một trận động đất... Nếu đúng vị trí đó, chúng ta có thể lên được rồi.

Thầy lấy địa bàn ra coi, rồi dặn :

- Tôi có thể tính nhầm, nhưng chắc không xa mục tiêu bao nhiêu. Bây giờ chúng mình lên, nhưng phải cẩn thận kẻo nhỡ đụng đầu vào ghềnh đá... Tới mặt biển rồi hãy bơi vào bờ và nên thận trọng như thường vì chưa chắc gì bên đất liền đã đến ứng cứu kịp. Nào, một... hai... ba... kéo nút bấm xuống dưới!

Khôi phóng lên trước, tiếp đến Lan. Việt nghe tiếng thầy Phong nói :

- Từ từ! Từ từ thôi!

Anh hãm bớt nút bấm, và người thong thả nổi lên. Thật lâu, Việt thấy nước biển dần dần trong sáng và rồi anh nhô đầu khỏi mặt nước như chiếc phao bập bềnh trên làn sóng long lanh dưới ánh trăng khuya.

Việt sải tay bơi về phía trước, miệng gọi tên Lan và Khôi.

Đúng lúc ấy Việt cảm thấy như bị nắm giữ rồi có ai sốc nách kéo lên, đồng thời anh nghe tiếng nói :

- Tóm được một tên rồi!

Việt bị quẳng lên sạp một chiếc xuồng máy. Còn đang ngơ ngác, Việt lại nghe nói :

- Thêm hai mạng nữa!

Việt nhổm lên, toan tháo chiếc mũ lặn ra vì giọng nói vừa rồi anh nghe thật quen. Nhưng anh bị xô mạnh xuống và cũng giọng đó quát :

- Nằm im không tao bắn nát óc bây giờ!

Việt phá lên cười, vì anh đã nhận ra người nói câu đó là chú Triều Dương. Chú chĩa họng súng tiểu liên vào người Việt, và khi nhận ra thằng cháu "yêu quí" chú cũng ôm bụng cười ngất.

Lúc ấy, mặt biển, từ đất liền đến đảo Chàm vang rền tiếng động cơ của những chiếc xuồng máy. Trên trời lượn vòng vòng một chiếc phóng pháo, và ngoài khơi - sau này Việt mới được biết - còn có mấy chiếc thủy đĩnh của hải quân vây bọc.

Hành động của thầy Phong - đặt mìn nổ sập cửa hang - đã giúp các nhà chức trách bắt được chiếc tàu ngầm và trọn ổ một cách dễ dàng, nhưng cũng nhờ Minh đứng trên ngọn hải đăng hướng dẫn mà cuộc hành quân tầm nã sớm có kết quả.

*

Khi Việt kể xong chi tiết cuối cùng, anh ngồi yên nhìn mọi người.

Bạch Liên cất tiếng cười tinh quái :

- Truyện của Việt kể có thật không đấy?

Việt phản ứng bằng một cái nhún vai và quay lại nhìn Khôi. Anh chàng Khôi đỏ mặt sừng sộ :

- Sao lại không thật? Kể truyện này ra tôi biết ít có ai tin là thực. Song thầy Phong và chị Lan còn đó. Khôi vừa nhận được hồng thiếp của họ báo tin sẽ ra đảo Chàm dự tuần trăng mật mí nhau. Bộ Liên tưởng chúng tôi "phịa" ra sao được?

Bạch Liên nheo mũi :

- Chắc cũng có "phịa" thêm độ 50 phần trăm là ít!

Anh Thư ký Tòa soạn cười xòa :

- Nhưng còn 50 phần trăm tin được. Mà truyện cũng khá ly kỳ đấy chứ?

Tuấn gật đầu :

- Cũng khá hấp dẫn, đáng được đăng lên Tuổi Hoa, để các bạn đọc... nhàn lãm!

Anh Thư ký Tòa soạn tươi tỉnh :

- Đồng ý! Nhưng còn Bạch Liên và Tuấn, sau truyện của Khôi và Việt hai em sẽ kể cho các bạn Tuổi Hoa nghe truyện gì?

Bạch Liên thu gọn người trong chiếc ghế bành đáp :

- Thưa anh, THUNG LŨNG RẮN!

Đến lượt Khôi dẩu mỏ :

- Xí! Thung Lũng Rắn là cái quái gì!

Việt chỉ mỉm cười không nói như sẵn sàng lắng nghe truyện của Bạch Liên... 
 


Nguyễn Trường Sơn  

CHƯƠNG XVI_TIẾNG CHUÔNG DƯỚI ĐÁY BIỂN


CHƯƠNG XVI


Khi mực nước dâng cao tới ngực Việt phải vịn vào Khôi mới đứng vững. Nước ùa vào trong phòng, reo như thác đổ át cả tiếng nói của ba người. Việt thấy miệng Khôi lắp bắp mà không nghe được bạn muốn nói gì.

Nước ngập đến cổ, Việt đưa mắt nhìn Lan, thấy Lan đã hụp thấp người xuống. Việt thầm hiểu sự khôn ngoan của nàng, tiếng nói của Lan vang lên trong ống nghe :

- Hai người hãy ngồi xuống. Đừng vùng vẫy chi cho mệt., ở hẳn dưới mực nước dễ chịu hơn.

Khôi hầu như mất bình tĩnh. Trông anh như một chú cá bị nhốt trong chậu đang quẫy mình tức giận. Tiếng nước réo bỗng nhiên ngừng bặt.

Căn phòng hẹp đã đầy nước. Việt chới với vì người nhẹ bổng, đầu cứ đụng lên trần. Lan phải nhắc :

- Phải điều chỉnh lại nút bấm trước ngực cho nặng người xuống, kéo nhẹ nút sang trái đi.

Việt đưa tay lên ngực làm theo lời Lan. Người anh mới chìm xuống, đứng vững dưới nước.

Thầy Phong đã quay lại nhìn ba người qua vách kính. Thầy nở nụ cười thỏa mãn và chỉ tay vào chiếc cửa mở ra biển. Lan hiểu ngay. Nàng ấn chốt cửa, cánh cửa từ từ mở.

Khôi, Việt theo Lan đi ra, và đóng cửa lại cẩn thận. Bên ngoài là một vùng rộng, có hàng dẫy đèn chiếu sáng. Ba người quay lại ra dấu cho thầy Phong, tỏ ý báo cho thầy biết. Bên trong thầy Phong cũng vui vẻ đưa tay vẫy.

Nhưng đúng lúc ấy Khôi bỗng hoảng hốt vẫy gọi thầy Phong :

- Kìa! Có người đang xuống thang!

Lan cũng bật kêu, kinh hãi :

- Chết rồi!

Ba người đồng thanh hét :

- Quay lại, nhìn về phía sau!

Nhưng thầy Phong vẫn chưa hiểu gì cả. Hình như thầy tưởng ba người múa may vì chưa quen với bộ đồ lặn dưới đáy nước sâu. Thầy mỉm cười phác một cử chỉ khuyến khích.

Sau lưng thầy một bóng người cao lớn vừa xuất hiện dưới chân cầu thang. Hắn đưa mắt nhìn quanh phòng.

Khôi nảy ý kiến;

- Chúng mình chạy tìm chỗ nấp, mau! Như vậy thầy Phong sẽ hiểu!

Cả ba hấp tấp, chạy nấp sau các mô đá. Thầy Phong cau mày ngạc nhiên. Rồi thầy quay lại, và đụng đầu với tên chỉ huy.

Việt có cảm tưởng như đang xem một tấn tuồng câm, mà diễn viên là thầy Phong nặng nề trong bộ đồ lặn với tên chỉ huy, dáng điệu hung hăng, tay lăm lăm khẩu súng. Thoáng nhìn, hắn thấy ngay những máy móc đã bị thầy Phong phá hoại. Hắn mở miệng như nguyền rủa. Rồi thầy Phong xông lại, và hắn nổ súng.

Việt đã tưởng thầy Phong bị trúng đạn, vì thấy thầy loạng choạng chúi đầu về phía trước. Nhưng không, thầy phản công lại, đá tên chỉ huy ngã xuống đất.

Hai người ôm nhau vật lộn, tay vẫn không rời súng. Đột nhiên nhiều tiếng nổ liên tiếp vang lên. Khôi kêu :

- Ồ, vách kính vỡ rồi!

Liền đó một thác nước ùa vào quét văng hai người ra giữa phòng. Thầy Phong nhổm dậy, đặt tay lên nút bấm trước ngực và nhảy hai bước đến cánh cửa mở ra biển.

Đầu này, tên chỉ huy cũng chồm lên đứng giữa xoáy nước ngầu bọt, giơ súng nhắm bắn. Vách kính vỡ tung. Hắn nhắm bắn lần nữa, nhưng nước tràn vào càng mạnh làm hắn phải bỏ chạy về phía cầu thang.

Lan và Khôi, Việt chạy đến đón thầy Phong, nhưng thầy cản ba người lại. Thầy còn muốn thực hành nốt kế hoạch đã định. Nhưng mực nước trong phòng dâng lên rất nhanh do những lỗ đạn bắn vỡ vách kính.

Tới cầu thang, tên chỉ huy còn quay lại bắn thêm lần nữa trước khi hấp tấp mất hút lên cầu thang.

Lúc ấy thầy Phong mới chịu mở cửa bước ra, nói :

- Khỏi cần cho bom nổ nữa. Biển sẽ làm công việc ấy thay chúng ta rồi. Nhìn kìa!

Quả nhiên sức phá hoại của nước mãnh liệt ghê gớm. Chỉ trong nháy mắt, phòng Trung ương bị chìm ngập, các ngọn đèn phụt tắt trước những thác lũ sôi réo.

Thầy Phong nói :

- Tên chỉ huy chỉ còn nước thoát thân bằng cách leo nhanh lên cầu thang, nhưng khó mà thoát được!

Lan hỏi :

- Còn anh Minh?

- Minh chắc thoát rồi. Vì thế nên tên chỉ huy mới giận dữ xuống phòng Trung ương tìm tôi. Nhưng hắn thua cuộc rồi. Tuy nhiên với tổ chức của hắn mình chưa nên lạc quan vội. Hãy rời khỏi nơi đây ngay khi chúng ta còn đủ ánh sáng.

Những ngọn đèn ngoài mỏ do hệ thống phát điện ở tầng trên chưa bị nước phá hoại. Thầy Phong ngoắc tay bảo ba người theo.

Cả bọn thận trong tiến bước, băng qua một khoảng rộng hình vòng cung. Đây đó, những cần trục vươn dài dưới bóng nước nom như những quái vật khổng lồ.

Qua một vòm lá, Việt bỗng cảm thấy tóc gáy dựng đứng. Cảnh tượng hiện ra trước mắt anh không khác gì trong một cơn huyễn mộng. Đây đó lung linh những bóng nhà đen xám màu rêu, có cái trụt mái còn trơ bốn bức vách, có cái cửa ngõ toang hoang, rong rêu lấp kín bậc thềm.

Trên ngọn đồi, phía cuối phố sừng sững ngôi Thánh đường xây bằng đá ong, tháp chuông vươn cao khỏi mặt nước, và trên ngọn tháp có quả chuông đã gióng lên những hồi chuông vang vọng vào trong các đường hầm dưới mỏ.

Việt sởn gai ốc nghĩ đến số dân cư trước kia cư ngụ ở thị trấn chìm ngập này. Và anh liên tưởng đến đống xương trắng hếu trong xó ngục thất mà anh vừa thấy.

Không, ngoài những người thợ mỏ làm việc cho Tổ chức, không còn ai trong cái thị trấn hoang tàn chìm sâu dưới đáy nước này. Nhưng dưới biển sâu, sau các bức vách nứt rạn kia hẳn có nhiều hồn ma ẩn náu.

Thầy Phong tỏ ra rất thành thạo. Thầy dẫn mọi người qua các đường phố chật hẹp và đổ vỡ ngổn ngang. Thầy cũng chỉ dẫn cách điều khiển nút bấm trước ngực để chân bước nhẹ nhàng, vượt qua các gò nổi hầm sâu một cách nhanh nhẹn.

Tới một mô đất thầy Phong đứng lại.

Lan tò mò hỏi :

- Không biết trên đầu chúng ta có những gì?

- Dĩ nhiên là đất và hang động. Chúng ta chưa ra khỏi dải đất sụp của Phố Hội cổ đâu.

Việt thấy run trong bộ áo lặn. Không phải run vì lạnh mà vì sự hoang tịch ghê rợn của thế giới huyễn mộng dưới biển sâu. Thầy Phong mở tấm bản đồ, thứ không thấm nước, và địa bàn ra coi.

Khôi hỏi :

- Bọn mình sẽ đổ bộ lên đâu đây?

Lan cũng lo lắng :

- Thầy có chắc mình đi đúng đường không, thầy Phong?

- Tôi biết chỗ mình đang đứng là nơi nào trên mặt đất, và biết cả lối lên bến nổi trên hang. Anh Minh đã chỉ cho tôi một ngách đá dẫn tới chỗ đó.

- Nếu đã biết đường lối, sao thầy không trốn đi bằng bộ áo lặn này còn trì hoãn làm chi tới nay vậy?

Thầy Phong ngồi lên một mô đá, chậm rãi đáp :

- Trốn được không phải là chuyện dễ. Vì bất cứ ai cũng đều bị kiểm soát chặt chẽ. Chỉ hơi bị nghi ngờ cũng đủ toi mạng rồi.

Thầy ra hiệu cho ba người ngồi nghỉ mệt quanh thầy và tiếp :

- Không những thế, khi di chuyển hay làm việc gì đều do mệnh lệnh truyền đến cho mỗi người, hoặc phải báo trước cho đài kiểm soát biết. Chiếc máy nói và nghe trên bộ áo chúng ta đang mặc đây, đều liên lạc được bằng vô tuyến, khiến những cử động của mỗi người dưới mỏ đều hiện rõ trên tấm bảng lớn, mà tôi vừa phá hủy hồi nãy. Bị canh phòng như thế làm sao trốn cho được!

Lan lo lắng :

- Nếu vậy, anh Minh e khó mà thoát được.

- Chúng ta còn phải trải qua nhiều nguy hiểm, nhưng đừng vội nản chí. Kế hoạch chúng ta dự tính tới nay đã có phần nào kết quả. Ngay hôm gặp hai cậu Khôi, Việt ở dãy nhà ngang trong trại, tôi đã tìm được một máy phát thanh và thử truyền tin đi, hy vọng người bên đất liền nhận được. Chính lúc đó, ông Chế Bảo cậu của Lan bắt gặp. Tôi đã tưởng nguy. Nhưng không ngờ Minh lại thuyết phục được cả gia đình theo anh. Bởi vậy, sau khi làm xong phận sự, Minh trốn vào phòng kiểm soát chờ tôi. Anh định hợp lực cùng tôi hạ tên chỉ huy trong khi ông Chế Bảo phá hoại bến bốc hàng. Các cửa hầm sẽ được sập xuống ngăn lối không cho tên chỉ huy thoát xuống tầu ngầm, hoặc bằng lối đi lên ngọn hải đăng. Còn dân đảo bị bó buộc xuống làm dưới mỏ, sẽ theo một đường hầm khác thoát lên mặt đất.

Khôi hỏi :

- Dự định này bị lộ rối phải không thầy? Vì anh Minh đã bị tên chỉ huy áp giải?

- Không hẳn thế, nhưng tên chỉ huy nắm giữ chìa khóa cửa lên ngọn hải đăng, nên anh Minh tuy thuộc đường song không có cách nào lên đó được để báo tin về đất liền xin tìm cách ngăn cản chiếc tầu ngầm rời bến. Chỉ có tên chỉ huy từ phòng Trung Ương truyền lệnh cho phòng Kiểm soát xong mới đích thân mở cửa lên ngọn hải đăng. Vì thế tôi không dám can thiệp khi hắn áp đảo Minh. Phần Minh anh đã khéo vờ để hắn dẫn đi. Nhưng khi lên khỏi cầu thang máy là anh sẽ hạ hắn, đoạt lấy chìa khóa, và lên hải đăng đánh tin về đất liền.

Lan nói :

- Nhưng, như chúng ta đều biết, anh Minh chưa hạ gục tên chỉ huy nên hắn mới quay lại phòng Trung ương, - chắc để truyền lệnh - và gặp thầy. Chẳng biết anh Minh bây giờ ra sao?

- Chắc chắn anh đang đánh tin về đất liền. Còn các thợ mỏ cũng theo ông Chế Bảo bằng lối đã định.

Bây giờ chỉ còn chiếc tàu ngầm. Nếu chờ bên đất liền can thiệp e không kịp. Tôi phải ngăn nó bằng cách cho nổ sập cửa hang mới được.

Khôi hăng hái :

- Thầy để tôi giúp một tay...

- Khỏi cần! Cậu hãy đưa Lan và Việt qua dãy phố này đến một khu đổ nát khác có cây thánh giá nằm nghiêng và chờ tôi ở đó. Tôi cũng đi tìm ngách đá mà anh Minh đã nói và nếu không bị lạc đường, tôi sẽ đặt mìn nổ chậm ngăn lối ra của chiếc tàu ngầm rồi quay lại với ba người sau. Trong khi chờ đợi, nhớ đừng rời nhau và phải canh chừng nhỡ gặp bọn thủ hạ của tên chỉ huy đấy nhé.

_______________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG XVII

Thứ Tư, 29 tháng 7, 2015

CHƯƠNG XV_TIẾNG CHUÔNG DƯỚI ĐÁY BIỂN


CHƯƠNG XV


Trạm Kiểm Soát mà thầy Phong nói, không phải dễ tìm. Tuy đã được chỉ dẫn tỉ mỉ, bọn Lan và Khôi Việt cũng chật vật lắm mới thấy nó ở phía đầu ga. Lối vào chật hẹp, tròn hình ống, và tối đen.

Lan rùng mình :

- Thầy Phong có nói là bọn mình sẽ không gặp ai cả. Tui cũng vái trời như vậy. Chớ rủi mà gặp ai trong đường này chắc nguy quá.

Khôi nói :

- Chúng mình tay không, Chẳng có khí giới gì để tự vệ cả. Nhưng thầy Phong đã dặn như thế, mình cứ nên mạnh dạn tiến vào.

Lan tranh trước :

- Để tui dẫn đầu cho. Nói vậy chớ chắc không có gì đáng ngại mô.

Việt đưa Lan cây đèn bấm, và dặn nàng nên hạn chế vì pin điện đã gần hết.

Khôi tiếp :

- Và nếu có gặp ai, chị nhớ đưa ngay cho tôi, vì tuy nó chỉ là cây đèn, nhưng khi lâm nguy mình cũng có thể dùng nó tạm thời như một món khí giới được. Dù sao, mình cũng cứ nên đi sát nhau là hơn.

Thực ra con đường ống dẫn vào trạm Kiểm Soát không quá chật hẹp như ba người lầm tưởng lúc đầu, vì có thể đứng thẳng người mà không bị đụng đầu. Đường hầm này đưa đến một cầu thang có những bậc đều đặn.

Lan bấm đèn :

- Chúng mình bắt đầu xuống thang đấy.

Ba người vừa đặt chân vào nấc thang thứ nhất, bỗng nghe tiếng động cơ chuyển động, và đèn trong hầm bật sáng, khiến họ vội vàng nhảy lui lại. Định thần, mới biết đây là một thứ thang máy tự động.

Khôi Việt ở Saigon đã từng đi thứ thang này nên không bỡ ngỡ lắm.

Khôi chỉ lẩm bẩm :

- Đi thứ thang này dễ bị lộ quá.

Việt nói :

- Bảo chị Lan ngồi xuống!

Vừa nói Việt nhảy vội theo vì thang bắt đầu chuyển nhanh. Ba người có cảm tưởng như đang tụt xuống trong ống sắt cắm sâu xuống lòng biển. Ngồi xổm kẻ trước người sau, ba người không nhìn thấy gì ngoài ánh điện chói lòa từ phía dưới hắt lên.

Thang từ từ hãm lại khi xuống một sàn phẳng. Lan chưa từng đi thang máy bao giờ nên hốt hoảng co cả hai chân nhảy xuống mặt sàn và ngã sóng xoài. Khôi, Việt kinh nghiệm rồi, nên bước xuống vững vàng hơn. Khôi vội đỡ Lan dậy, rồi ba người đưa mắt nhìn quanh.

Ba người đang đứng trong một căn phòng rộng hình tròn, vách bằng kính. Phía ngoài, tối mờ như bóng hoàng hôn.

Khi những nấc thang dừng lại thì các ngọn đèn cũng lần lượt tắt hết. Ba người chưa kịp nhận rõ địa thế, vội mò mẫm nắm lấy tay nhau.

Khôi nói :

- Căn phòng này bao bằng kính, nên chắc có thể nhìn ra ngoài được.

- Và ở ngoài cũng có thể nhìn vào trong...

- Nếu ở đây có người, chưa chắc họ đã thấy gì, vì tối quá. Đèn bấm đâu?

Lan nói :

- Pin đèn sắp hết rồi. Chỉ còn yếu ớt như ánh nến thôi.

Việt đỡ cây đèn trên tay Lan :

- Phải hạn chế, chỉ dùng đèn khi thật cần thiết. Bây giờ cứ nắm tay nhau cho khỏi lạc.

Khôi kéo tay các bạn :

- Lại đây coi. Nhất định vách kính này dùng để nhìn ra ngoài...

Mắt ba người quen dần với bóng tối, nhìn quanh vách đã thấy rõ hơn và bóng Khôi hiện lờ mờ sát vách.

Ánh sáng mập mờ bên ngoài là do nước biển bao phủ quanh vách kính. Khôi Việt và Lan biết rằng mình đang ở dưới đáy biển, và có lẽ rất sâu nếu căn cứ theo tốc độ và thời gian của thang máy khi tuột xuống. Nhìn ra, ba người nhận thấy có những đốm sáng mập mờ dưới nước như những bóng cá. Đến gần một đốm sáng đang di chuyển Việt có cảm tưởng như vừa gặp một thứ người nhái, trên đầu có treo một ngọn đèn. Rồi nước bị khuấy động xóa nhòa hình bóng đó đi.

Để ý nhận xét các bóng khác, Việt nói :

- Những hình thù ngoài kia, nom giống như người, vì thân họ đứng theo chiều thẳng. Và dĩ nhiên họ mặc đồ lặn như chúng ta đã thấy.

Dán mũi vào vách kính, ba người mải mê quan sát. Những hình thù giống người đó đứng nguyên chỗ, chỉ có ngọn đèn trên đầu họ thỉnh thoảng lay động theo cử động của họ. Hình như họ đang sử dụng đồ nghề vào một công việc nào đó.

Khôi không khỏi sửng sốt.

- Quái lạ thật! Chẳng hiểu họ đang làm gì dưới nước?

Lan nói :

- Coi tề, họ cũng khá đông chứ không ít mô!

Nhận xét của Lan rất đúng. Theo hướng chỉ của Lan, Việt thấy họ đứng một hàng như những con nòng nọc khổng lồ, cử động nhịp nhàng với những đốm sáng trên đầu. Phải chăng cái phòng kính tròn ngay dưới chân thang máy này đặc biệt dùng để kiểm soát các dân phu kỳ quái kia lúc họ làm việc dưới lòng biển?

Việt đưa tay lần theo vách kính, mong tìm được một nút bật đèn. Khôi và Lan cũng bắt chước theo. Mò mẫm một hồi, chợt nghe tiếng Lan reo :

- Đây có cái cần bẫy đặt dưới chân vách. Có nên kéo thử không?

- Khoan! Nhỡ không phải cái mở điện thì sao?

- Biết đâu nó chẳng mở một cánh cửa nào đó cho nước ùa vào?

- Hay là bộ máy kéo cho chuông kêu?

Ba người bối rối hỏi nhau. Hơn nữa, thời giờ khẩn cấp không thể cứ đứng đây mãi mà còn phải gấp rút tìm tới chỗ ẩn núp theo lời thầy Phong căn dặn. Kéo chiếc cần bẫy Lan vừa tìm ra là điều điên dại, nhưng cả ba người đều nôn nao muốn thử, xem nó dùng vào việc gì. Họ chụm đầu lại bàn tán.

- Tụi mình đã gặp khá nhiều rủi ro ngày hôm nay rồi và sẽ còn nữa. Bởi vậy, mình cứ thử tất cả những máy móc nào mình thấy.

Khôi tặc lưỡi :

- Nếu vậy kéo đại đi coi.

Lan dục :

- Ừ, kéo đi. Tụi mình biết bơi hết, sợ gì. Cùng lắm thì mình đến trồi lên mặt nước là cùng chớ gì!

Việt nắm lấy cái cần bẫy và từ từ kéo. Lập tức bên ngoài vách kính bừng sáng như hừng đông ló rạng. Cần bẫy càng nhích thêm, ánh sáng càng tỏ, nhìn qua vách kính như nhìn vào một bồn cá vĩ đại.

Những hình thù mang đèn hiện rõ hình người hơn. Tất cả đều mặc đồ lặn bằng cao su. Họ quay lưng lại phía ba người đứng trong phòng kính và đang làm việc dài theo một vách đá có nổi rõ mạch quặng lóng lánh như ánh bạc. Mạch quặng chạy dài theo vách đá, nhưng bề ngoài chỉ độ một gang tay. Mỏ Quassium đang ở trước mắt ba người.

Việt hiểu ngay bí mật của đảo Chàm là đó. Dưới lòng biển, chìm theo với Phố Hội cổ xưa có cả những hầm mỏ, và chắc chắn thầy Phong đã khám phá ra chất quặng hiếm có kia. Nhưng thầy sớm bị cầm tù do bọn người mà thầy gọi là "Tổ chức" bí mật. Chú Triều Dương trong công cuộc nghiên cứu ở căn cứ X hẳn cũng hiểu được tầm quan trọng của thứ quặng thầy Phong tìm được. Dĩ nhiên, chú lẳng lặng đến Phố Hội tìm kiếm thầy Phong - hay thiết thực hơn là quặng Quassium.

Nhưng thầy Phong không trở về đất liền để tường trình công việc của thầy được và đến lượt Khôi Việt, biết đâu chẳng cũng chịu chung một số phận như thầy?

Việt vừa thầm nghĩ đến đấy thì đèn trong phòng kính bỗng nhiên bật sáng, tiếp theo là tiếng chuyển động ở cầu thang.

- Chết cha! Trốn đâu bây giờ? Có người tới!

- Nhưng thang máy không thấy chuyển.

- Đồ ngốc! Không phải thang máy này mà là thang khác. Còn một cái ở dưới lên. Không nghe tiếng chân bước đó sao? Bậy quá, tụi mình chưa kịp để ý đến cái thang này!

Chiếc thang ở dưới lên khuất sau một cột lớn. Nhờ đèn sáng, Việt nhận ra ở đó có một cửa xuống. Chắc hẳn phía dưới còn một phần nữa và là nơi chứa đồ lặn mà thầy Phong đã dặn mấy anh em vào ẩn chờ thầy. Hiện giờ có người đang ở dưới ấy lên. Ba người chỉ còn cách nấp sau thân cột.

Khôi nói :

- Canh chừng cửa thang lên. Hễ thấy hắn nhô lên mình sẽ xoay theo chiều cột cho hắn khỏi thấy. Nhưng nếu họ đông người e lộ mất.

Lan :

- May ra họ chỉ đi qua mà không để ý đến mình.

Việt thắc mắc :

- Nhưng còn những người đang làm việc dưới biển, liệu họ có thấy mình không nhỉ?

Khôi gắt :

- Phải tớ đang làm ngoài kia, ngâm mình dưới nước chắc tớ không mất thì giờ ngắm cậu như ngắm con cá vàng trong chậu.

Trong những trường hợp gay cấn, Khôi thường tỏ vẻ độc đoán và gay gắt. Việt toan cãi lại, chợt thấy nét mặt Khôi biến đổi. Anh vội nhìn ra cửa cầu thang, và thoáng thấy một bóng đàn ông nhô lên. Hắn mặc bộ đồ lặn như đồng bọn, đầu cúi thấp nên không rõ mặt. Tới mặt sàn hắn loạng choạng vài bước rồi ngã lăn ra đất. Ánh điện trong phòng chiếu loáng trên bộ đồ của hắn.

Hắn làm sao thế? Kiệt sức hay bị thương?

Bàn tay của Lan bấu chặt trên vai Việt. Gã đàn ông vẫn nằm bất động. Việt đưa mắt nhìn Khôi. Nếp nhăn trên trán anh cau lại. Dường như Khôi toan dợm bước tiến lại phía hắn. Nhưng Lan đã lẹ tay níu lại :

- Coi chừng có người lên theo nữa!

Khôi và Việt từng gặp nhiều phen kinh sợ trong các cuộc mạo hiểm, nhưng chưa bao giờ thấy lạnh gáy như lần nầy, trước thân xác gã đàn ông vừa từ dưới thang bước lên đã ngã bất tỉnh nằm cách chỗ nấp của ba người có mấy bước chân.

Việt hỏi :

- Làm gì bây giờ?

Việt không tự trả lời được câu hỏi của mình, vì không thể đoán được người nằm kia là bạn hay thù. Anh đứng yên nghe ngóng và chợt thấy một cái đầu nhô lên. Khi thân hình hắn hiện dưới ánh đèn, Việt nhìn rõ được nét mặt hiểm ác của hắn. Gã đàn ông này có đeo một khẩu súng lục ngang sườn, lừ lừ tiến lại đá vào thân hình nằm bất động dưới đất. Người nằm dưới đất ú ớ rên. Chiếc mũ lặn vẫn che khuất mặt hắn. Tên đeo súng nắm vai hắn dựng dậy. Việt nhận thấy tay hắn bị trói quặt ra sau lưng.

Như để cho nạn nhân có đủ thì giờ lấy lại sức, gã kia chống tay trên sườn, đứng đợi. Bỗng hắn quay ngoắt người lại tiến thẳng về chỗ ba người đang nấp.

Cả ba vội lui lại. Nhưng gã đàn ông không để ý đến cái cột, tiến thẳng lại vách kính, cau mày đứng nhìn những người thợ làm ngoài mỏ. Chắc gã là người chỉ huy ở đây, nên dáng điệu gã có vẻ quan trọng. Gã đi qua đi lại trước vách, bật các đèn rọi cho dễ nhìn. Nhờ ánh điện chiếu sáng Việt đếm được 8 người thợ mỏ đang làm việc dưới nước.

Đứng nhìn một lát, gã chỉ huy quay lại chỗ nạn nhân của hắn, và chừng như cho thế là đủ để người kia có sức đi thêm quãng đường nữa, gã đẩy người đó đến cầu thang máy. Người này loạng choạng vài bước rồi đứng yên như kiệt lực không thể tiến thêm hơn nữa. Hắn khụy xuống, nhưng tên chỉ huy nhất định lôi hắn trở dậy, kéo đến cầu thang và đưa tay bấm nút.

Cuộc xô đẩy làm chiếc mũ người đàn ông tuột nghiêng xuống vai. Mặt hắn lộ ra, và Việt giật mình nhận ra Minh.

Lan cũng kịp thấy anh trai của nàng. Miệng Lan há rộng, và toan nhào lại chiếc thang máy đang bắt đầu chuyển động. Việt không kịp nghĩ ngợi gì hơn, móc vội chiếc khăn tay ấn vào miệng Lan để nàng khỏi bật tiếng kêu.

Khôi cũng nắm chặt tay Lan. Hai anh em đều hiểu rõ nỗi nguy hiểm nếu để Lan nhào ra với anh nàng. Giữ Lan lại, Khôi và Việt đều phân vân không biết nên theo lên thang để tìm cách cứu Minh, hay cứ tiếp tục chương trình thầy Phong đã hoạch định rồi báo tin cho thầy biết tình hình sau.

Lan vùng vằng, gỡ được chiếc khăn ra khỏi miệng, nói :

- Được rồi! Tui hứa với các cậu, tui không kêu mô. Cứ bỏ tui ra! Nhưng dù sao mình cũng phải làm gì cho anh Minh chứ?

- Nhưng tụi mình làm gì được? Trừ phi thầy Phong...

Lan mếu máo :

- Tui không đành lòng thấy anh ấy bị trói như thế và còn bị đưa đi đâu nữa không biết? Sợ họ thủ tiêu anh mất!

Khôi an ủi :

- Chị đừng vội hoảng hốt. Thầy Phong biết cách thoát khỏi đây. Chị thương anh Minh nhưng cũng không muốn làm hại thầy Phong phải không nào? Chúng ta hãy tìm gặp thầy ấy đã, rồi sẽ có kế hoạch...

Việt chợt kêu :

- Coi chừng! Có người nữa lên!

Khôi kéo các bạn lủi sau cột. Nhưng không kịp. Người vừa lên tay có cầm vũ khí hất hàm nói :

- Lại đây! Lại đây mau lên.

Người đó là thầy Phong.

Lan chạy ngay đến :

- Thầy Phong! Thầy phải cứu anh Minh, kẻo họ giết ảnh mất. Họ mới đem anh ấy đi, hai tay bị trói...

Thầy Phong cứng cỏi đáp :

- Không phải lo cho anh Minh. Anh ấy sẽ tự liệu lấy!

Lan rầu rĩ :

- Trời ơi, thầy để người ta đem anh ấy đi êm như vậy sao chứ?

Việt phụ họa thêm :

- Có lẽ mình cũng nên tính cách nào cứu anh ấy...

Khôi nhìn thầy Phong :

- Thầy có súng, hay chúng ta theo lên?

Đúng lúc ấy chiếc thang máy ngừng lại và các ngọn đèn lần lượt tắt. Việt hiểu ngay như vậy là tân chỉ huy đã đưa Minh lên tới từng trên. Thầy Phong gạt nhẹ Lan ra và nhét khẩu súng vào túi nói :

- Minh là đồng chí của tôi, lẽ nào tôi lại để anh ấy lọt vào tay họ mà không cứu? Trông anh ấy như người chết dở, nhưng đó chỉ là giả vờ thôi. Minh ở trong tổ chức phản gián của ta. Anh làm việc cho quốc gia, cũng như chúng ta vậy!

Lan vẫn khăng khăng :

- Nhưng cả hai tay anh ấy đều bị trói!

Thầy Phong gật đầu :

- Tên chỉ huy cũng yên chí Minh bị trói, nên mới đá vào người anh ấy. Nhưng hãy đợi lúc Minh cởi dây trói và hành động... Bây giờ, tất cả hãy theo tôi và làm theo lời tôi dặn.

Việt hỏi :

- Thầy có thấy đài vô tuyến chưa?

- Rồi, tôi có thử đánh tin đi nữa. Chúng mình cứ chờ xem.

Thầy Phong đưa ba người xuống thang. Tầng dưới này giống như một phòng máy trong lồng kính nằm dưới đáy biển.

Thầy Phong cho biết :

- Đây là phòng Trung Ương.

Và chỉ vào một điểm trên tấm bản đồ đặt dưới ánh đèn sáng chói, thầy tiếp :

- Tôi bị họ bắt ở chỗ này. Tôi là người duy nhất ở phố Hội tìm tòi khảo cứu những di tích cổ xưa bị chìm ngập dưới đáy biển. Tổ chức của bọn họ cũng có những người tìm tòi như tôi, nhưng với mục đích khác. Họ cần những hiểu biết của tôi, nên dùng kế lừa tôi sang đảo, rồi bắt luôn ở đây, buộc làm việc cho họ.

Thầy nhìn Lan :

- Dân trên đảo tuyệt nhiên không hiểu biết gì về vụ này. Từ bao thế kỷ nay các gia đình cố cựu ở đây đều giữ kín những điều bí ẩn họ biết được dưới lòng đất. Họ coi những đường hầm những hang động ngầm dưới đáy biển này, như những di tích cổ bị chôn từ đời các tiền nhân của họ, nên không muốn ai đến khuấy động. Nhưng rồi tổ chức của bọn kia phái người đến dùng nhiều biện pháp lung lạc, khủng bố buộc họ trở thành những tay sai bất đắc dĩ của tên đầu sỏ chỉ huy Tổ chức.

Trầm giọng lại, thầy Phong tiếp :

- Tôi phải nói rõ điều đó cho cô Lan và hai cậu biết để phòng khi kế hoạch của tôi bị thất bại, và vì thế mà chúng ta có thể không còn gặp được nhau.

Khôi hỏi :

- Kế hoạch của thầy thế nào?

- Tôi không chỉ dự tính cho việc trốn thoát, mà còn phải thi hành một sứ mạng nguy hiểm hơn.

Lan nóng nảy :

- Còn anh Minh thì sao?

- Anh Minh, cô khỏi lo cho anh ấy. Lan còn có thể tự hào được là em gái một chiến sĩ dũng cảm. Thoạt đầu bị cầm giữ ở đây, tôi cũng tưởng Minh là người của Tổ chức, vì anh đối xử với tôi rất cứng cỏi. Hôm tôi thấy Lan và các cậu vào trong hang, chính Minh đã uy hiếp tôi nhưng anh chỉ vờ thi hành mệnh lệnh để che mắt tên chỉ huy thôi.

Hiện thời Tổ chức của bọn họ tập trung tất cả nhân công để chuyển số quặng Quassium cho chuyến chở đầu tiên. Chính vì thế mà chúng ta phải kịp thời hành động. Chúng ta phải làm sao ngăn chặn được số quặng đó không cho rời khỏi đảo. Chỉ lát nữa đây mọi người sẽ có mặt trên bến nổi ngoài hang để bốc quặng xuống chiếc tàu ngầm đợi sẵn. Chúng ta hãy chờ Minh báo hiệu cho biết đúng vào lúc đó để thi hành kế hoạch của mình.

Nói đoạn, thầy Phong đưa bọn Lan và Khôi Việt tiến sang một phòng khác chứa những vật liệu hóa học và phía góc phòng xếp đầy một đống quần áo lặn.

Thầy nói :

- Chúng mình có thể yên trí chờ ở đây, đợi đến khi anh Minh báo hiệu bằng cách đánh chuông và bật các ngọn đèn đỏ. Bây giờ các cậu hãy giúp tôi làm việc này.

Việc thầy Phong nói là chế tạo gấp rút một quả bom nổ. Hình như thầy rất thành thạo trong việc này khiến cả Lan lẫn Khôi, Việt đều phải ngạc nhiên. Thầy cho biết là trái bom sẽ được đưa lên trên bằng chiếc thang máy khi có hiệu của Minh. Tạm thời nó được thận trọng đặt bên chân cột.

Sau đó thầy Phong bảo mỗi người chọn mặc một bộ áo lặn :

- Những bộ áo này dược chế tạo ra bằng các hợp chất hóa học. Hãy chọn bộ nào vừa với người mà mặc.

Khôi thắc mắc :

- Có phải chúng mình mặc sẵn áo lặn để khi bom nổ thì mình sẽ bơi ra biển?

- Không. Chúng mình không bơi mà sẽ đi dưới đáy biển. Dưới này có một đường ngầm đưa ra ngoài hang. Hễ thủy triều xuống thấp mình có thể lên bằng một cửa hang thông ra mặt ghềnh đá gần ngọn hải đăng được. Tới ngoài cửa hang tôi sẽ đặt chất nổ, cho hang sập xuống, bít lối ra của chiếc tàu ngầm.

Việt băn khoăn :

- Nhưng làm sao có thể đi dưới nước được?

Lan nói :

- Thì mình bơi... Tui bơi cũng được...

Nhưng thầy Phong giải thích thêm :

- Đừng lo, ba người nên biết là bộ áo lặn này được đặt biệt chế tạo để đi lại dưới biển sâu. Chỉ cần biết cách sử dụng là mình điều khiển cách đi đứng thật dễ dàng. Đây này, Lan và Khôi, Việt chú ý cho khỏi lúng túng: Cái vòi này khi xuống nước hãy ngậm nó vào miệng để thở. Trước ngực có cái nút. Nếu kéo nút qua bên trái hai chân sẽ nặng chĩu giúp mình đứng vững dưới nước. Ngược lại, kéo sang phải, chân sẽ nhẹ đi để dễ xê dịch. Còn kéo xuống phía dưới thì tức khắc toàn thân nhẹ bổng như chiếc nút bấc và trồi lên mặt nước. Vậy phải cẩn thận khi sử dụng đấy nhé.

Lan mặc bộ áo lặn xong, than :

- Ôi chao, áo quần chi mà nặng rứa?

Thầy Phong ân cần :

- Dưới nước, Lan mới thấy nhẹ nhàng và ngạc nhiên về công dụng của nó. Lan không thấy những người làm việc ngoài mỏ mặc áo này và ngâm mình dưới nước hàng giờ đó sao?

- Dân đảo cũng có người dùng bộ áo lặn này chứ?

Thầy Phong gật đầu :

- Phải. Trong số đó có anh Minh và cả cha con ông Chế Bảo, cậu của Lan nữa. Như tôi đã nói, thiểu số dân đảo bị cưỡng bách phải làm việc cho Tổ chức nọ. Mới đầu họ không chịu nhưng bị khủng bố, họ cam chịu mặc bộ áo đó và rồi quen đi. Họ thành thạo không kém gì bọn kia.

- Mà bọn kia là những ai?

- Là những đảng viên trong Tổ chức bí mật quốc tế. Tôi đã có dịp tiếp xúc với họ, nhất là tên chỉ huy có toàn quyền quyết định ở đây. Có lần tôi đã lựa lời hỏi hắn xem Tổ chức của hắn mưu tính chuyện gì thì hắn cười tuyên bố: Khi nào Đảng có đủ số quặng Quassium cần thiết, cả thế giới tự do sẽ phải khốn đốn.

Khôi vùng nói :

- Nhưng nếu chúng ta làm sập được cửa hang bít lối ra của chiếc tàu ngầm, tất chúng không còn được số quặng đó nữa.

- Phải, còn nếu chiếc tàu ngầm ấy đi thoát thì chầy kíp thế giới sẽ trải qua một cuộc chiến tranh khủng khiếp.

Việt là người mặc xong áo lặn sau cùng. Thầy Phong giúp Việt đội mũ úp chụp kín đầu. Hai bên mũ có ống thu thanh để nghe những tiếng động bên ngoài. Đóng bộ xong, Việt muốn đi thử vài bước. Anh có cảm tưởng như đeo cả tạ chì ở dưới chân, liền kéo thử nút bấm trước ngực áo sang bên phải, và bước lại phía Khôi.

Tội nghiệp anh chàng Khôi! Hắn bị Việt đạp ngã ngửa xuống đất: vì một bước của Việt bằng một bước "hia bảy dặm".

Thầy Phong vội nói :

- Điều chỉnh lại nút bấm đi. Không phải lúc đùa giỡn đâu nghe! Nếu ở dưới nước mà các cậu làm như vậy, các cậu sẽ nổi thẳng lên mà không biết chỗ ấy là nơi nào, và có thể va đầu vào đá nếu gặp trần hang.

Thực tình nếu không đang trong hoàn cảnh cấp bách, Việt còn muốn thử chơi bộ áo kỳ lạ đó một lúc nữa.

Nhưng Minh đã nổi hiệu: Các ngọn đèn đỏ bật sáng, đồng thời tiếng chuông đổ hồi vang vọng.

Thầy Phong hét :

- Tới lúc hành động rồi! Theo tôi mau!

Lần này đến lượt Lan bước vọt lên gần đụng trần phòng. Cũng may nàng kịp thời điều chỉnh nút bấm và rơi xuống đứng trước mặt thầy Phong.

Thầy nói :

- Mọi việc xảy ra đúng như kế hoạch đã định. Hiệu của Minh vừa báo chứng tỏ anh đã thoát khỏi tay tên chỉ huy và kịp thời đóng kín các cửa hầm ăn thông từ mỏ quặng ra tới bến nổi ngoài hang. Sau khi kéo sập các cửa rồi, Minh còn 30 giây đề thoát ra con đường tới chân ngọn hải đăng và sẽ nổi hiệu cầu cứu. Sứ mạng của Minh rất nguy hiểm, Lan đã thấy anh ấy xứng đáng và tự hào về anh ấy chưa?

- Anh Minh là người gan dạ, nhưng Lan không ngờ anh lại dám đương đầu trong vụ này. Liệu anh ấy có thoát nổi không?

Thầy Phong cương quyết :

- Chúng mình cũng có những phận sự nguy hiểm không kém. Mọi người trong mỏ đều đã nghe tiếng chuông và đèn đỏ bật sáng báo hiệu các cửa hầm đóng kín. Họ vẫn sẽ tiếp tục công việc của họ và chờ lệnh viên chỉ huy, cho đến khi không thấy hắn họ mới biết có điều gì trắc trở xảy ra.

Bây giờ lợi dụng cơ hội ấy, ba người hãy triệt để nghe theo lời dặn của tôi - Vừa nói thầy Phong vừa chỉ quả bom bên chân cột - Khi quả bom này phát nổ trên đầu cầu thang, các đèn dưới này sẽ tắt hết. Chúng ta hãy nắm tay nhau vì phải đi mò trong tối...

Thầy đưa tay nắm lấy tay Lan rồi dẫn cả bọn chui vào một phòng kín hẹp.

- Ba người hãy ở đây. Tôi sẽ mở cho nước tràn vào trong này. Khi nào nước dâng đầy phòng hãy kéo cái chốt mở cửa rồi dắt nhau ra ngoài biển. Nhớ điều khiển cho khéo nút bấm ở trước ngực để khỏi phóng lên mặt nước và luôn luôn bám sát lấy nhau. Khi ra ngoài rồi nhớ đóng cửa lại. Tôi sẽ bơm hết nước ra rồi đi đặt bom ở cầu thang máy. Ba người cứ đứng yên chờ tôi bên ngoài. Xong việc tôi sẽ theo ra bằng lối này. Hiểu rõ chưa?

Bọn Khôi Việt đứng thẳng như những phỗng đá, câm lặng vì quá xúc động hồi hộp. Thầy Phong sập cửa và nước từ một lỗ "van" dưới chân bắt đầu vọt vào.

Nước lên tới đầu gối, Việt mới hoàn hồn nhìn lại. Qua vách kính, Việt thấy thầy Phong đang đập phá những máy móc trong phòng Trung ương.

______________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG XVI

CHƯƠNG XIV_TIẾNG CHUÔNG DƯỚI ĐÁY BIỂN


CHƯƠNG XIV


Vừa lẩn vào chỗ nấp, Lan đã bưng mặt khóc. Nàng tấm tức :

- Từ nãy tới giờ đứng gần anh Minh mà nỏ biết! Thiệt uổng thì giờ vô ích. Ai ngờ chính anh ấy lái chuyến xe đó. Giờ biết đến khi mô mới gặp được ảnh!

Khôi an ủi :

- Không may thật. Nhưng mình cũng vừa thoát khỏi tay bọn người kia. Biết đâu, nếu gặp anh ấy, mình lại đụng đầu với họ thì còn "hố" cả lũ. Bọn họ đâu có hiền gì!

Lan lau nước mắt :

- Thiệt tui cũng dễ khóc quá! Tại thấy anh Minh rồi cầm lòng không được...

Khôi Việt hiểu rõ xúc động của Lan. Giá lúc nãy Minh quay mặt lại các anh đã nhận ra Minh sớm hơn. Dầu sao trong cái rủi vẫn có cái may: bọn người vừa ra sân ga, vướng trong bộ y phục có mũ chụp kín đầu nên chưa kịp thấy gì hết.

Nơi ba người đang ẩn núp lại là một chỗ rất kín. Ngách hầm này cũng có một cầu thang, rêu mốc hôi hám chứng tỏ nó ít khi được dùng đến. Đứng trong nhìn ra có thể quan sát sân ga dễ dàng mà không sợ bị lộ.

Tiếng chuông đồng vẫn tiếp tục vang lên, trong lúc đó bọn người ngoài kia bận kiểm soát lại những móc nối của các toa goòng. Sau đó họ đi vào ngách hầm mà hồi nãy bọn Khôi Việt đã nấp. Bộ y phục của họ còn ướt nước, loáng bóng dưới ánh đèn.

Tiếng chuông bỗng ngưng. Rồi có tiếng ầm ầm rung động mặt đất. Tiếp đó tiếng ồn ào nổi lên ở chỗ có tấm biển đề chữ "nguy hiểm" và bọn người vừa vào nối đuôi nhau khuân những thùng nặng ra, chất lên các toa xe.

Khôi lẩm bẩm :

- Họ đưa quặng tới bằng một máy trục. Cũng may là tụi mình không đứng lại bên đó.

Đoàn người im lặng, hùng hục làm việc. Hình như họ cố tranh thủ thời gian, cho công việc chóng xong. Nhưng việc họ làm, phải cả giờ nữa mới hết.

Khôi bực bội nói :

- Mình lại đứng chôn chân ở đây mãi sao? Chờ cho họ xong việc thì biết đến bao giờ!

Việt thận trọng :

- Có lẽ mình nên rán đợi xem xong việc ở đây rồi bọn họ đi đâu? Chắc có lối lên mặt đất được.

Lan đề nghị :

- Hay mình cứ thăm thú thử coi? Chiếc cầu thang này tuy có vẻ ít được dùng song biết đâu nó chẳng đưa ta đến một lối thoát nào khác?...

Lúc còn ở ngoài hang, ba người đã hí hửng tìm được chỗ giấu xuồng kín đáo, phòng lúc trở về. Nhưng bây giờ, ý định ấy thật hết còn hy vọng. Cánh cửa sắt đậy đường hầm đã sập xuống. Và chiếc tiểu thủy đĩnh còn nằm án ngữ ngoài hang.

Thật không ngờ cuộc mạo hiểm này lại đưa ba người xuống sâu một hầm mỏ bí mật, khai thác quặng Quassium. Ngoài số người đang làm việc dưới mỏ, bọn Khôi Việt là những kẻ duy nhất được biết đến nó.

Vì biết quá nhiều, nên họ đâm ra lo ngại. Nếu bị lộ diện tất họ không thoát khỏi một sự trừng phạt ghê gớm và không mong gì được yên ổn trở lên mặt đất.

Cả ba người đều có chung ý nghĩ: Phải làm sao tìm gặp được Minh hoặc thầy Phong, nhờ họ liệu cách cho mình trốn thoát. Bằng không gặp được hai người ấy, cũng phải liều xông xáo tìm cách thoát hiểm chứ không thể đứng nấp mãi đây được.

Suy tính một hồi, Lan tình nguyện đứng gác ở cửa hầm, để Khôi Việt trèo lên thang thăm thú. Đề nghị của Lan không được chấp thuận vì cả Khôi lẫn Việt đều ngại rằng: nếu để Lan đứng đó, nhỡ thấy Minh nàng sẽ không ngần ngại nhào ra, và bị lộ cả đám.

Khôi nói :

- Tôi mất một chân giầy, đi lại hơi khó vậy để tôi đứng gác cho.

Lan và Việt nối đuôi nhau lên thang. Cầu thang chật hẹp, xoáy hình ốc nhiều chỗ mục nát, hầu như đã có từ lâu đời và giống lối lên một vọng lâu. Hết bực thang, Lan, Việt thấy mình đứng dưới một vòm đá, xây bằng những phiến đá lớn. Đá đã mọc rêu như trải qua nhiều thế kỷ.

Lan bấm đèn soi vách đá :

- Coi tề, hình như có một niên hiệu.

Việt nhìn theo ánh đèn, thấy có máy chữ Hán khắc chìm trên mặt đá.

- Sao chị biết đó là một niên hiệu?

- Đọc thì biết!

- Giỏi quá. Chị đọc được cả Hán tự. Chữ gì thế chị?

- Kỷ Hợi!

Việt vỗ tay lên trán :

- Xem nào, năm Kỷ Hợi tức là năm chúa Hiển Tôn tuần du Phố Hội. Không lẽ cái mỏ này có từ đời ấy? Vô lý, vì thời ấy đã ai biết đến chất Quassium?

Lan hơi bực mình :

- Ai biết đâu nà! Có thể vào thời đó người ta cũng đào mỏ nhưng chỉ khai thác các chất khác như đồng, thiếc... thôi.

Việt trạnh nghĩ đến phố Hội cổ xưa. Anh lẩm bẩm :

- Vô lý thực! Không hiểu cầu thang ngầm dưới lòng đất này có liên quan gì tới thị trấn bị chìm ngập như lời hoang truyền kể lại? Ừ, biết đâu được?

Lan càu nhàu :

- Câu chuyện hoang đường ấy, có hay không cũng chẳng ăn nhằm gì tới mình.

- Phải... Dù sao thì tụi mình leo lên đây là để tìm một lối thoát thân, chứ không thể để bàn cãi về lịch sử. Nhưng niên hiệu kia, chứng tỏ cái cầu thang đưa đến vọng lâu này đã có từ lâu đời. Mà thôi, tụi mình qua hành lang kia xem sao đã.

Dọc hành lang có mấy hốc hẹp cao vừa đầu người, bên ngoài có song sắt gắn liền vào đá trông giống như những cái cũi nhốt.

Lan nói :

- Chẳng biết hành lang này dùng làm gì. Nhưng chắc không phải là cửa hầm mỏ rồi.

- Khoan đã, phía tay phải còn một đường quẹo nữa... Hay tụi mình cứ xem thử?

- Có cần thiết không?

- Không cần lắm. Nhưng đã thấy nó cũng nên tò mò cho biết...

Việt chiếu ánh đèn vào hốc đá tối om. Ánh đèn của Việt chiếu qua song sắt soi rõ vách đá sù sì bên trong và ở góc khuất nhất Lan, Việt rùng mình thấy một đống xương màu xám mốc.

Lan kéo Việt lại :

- Hình như đây là một ngục tối. Đống xương tàn của những kẻ bị giam cầm kia chắc đã bị bỏ quên và chết rũ tù...

Việt xoay ánh đèn đi chỗ khác :

- Tụi mình đi thôi. Đứng đây ngán quá. Ngách này còn một cầu thang nữa. Ta lên xem rồi quay xuống với Khôi là vừa, kẻo hắn nóng ruột.

*

Đợt thang sau cao hơn đợt trước,Việt nhẩm đếm được sáu mươi lăm bậc, trước khi tới một chặng nghỉ, để leo tiếp đợt thang khác xoáy theo vòng ốc.

Lan nói :

- Thang cứ ngược lên mãi, may ra chúng mình lên tới mặt đất được. Cứ tiếp tục nữa coi!

Tuy đã mỏi gối hai người vẫn tiếp tục bước và thay nhau đếm những nấc thang mà chắc hàng bao nhiêu năm qua không ai in dấu chân lên mặt gỗ đã rêu xanh mục nát.

Lên được hai trăm bậc, hai người tự hỏi không biết còn phải tiếp tục tới bao lâu nữa. Tuy vậy cả hai đều đồng ý gắng leo thêm một trăm bậc nữa.

Đến nấc thứ hai trăm sáu chục, Việt vừa bắt đầu thối chí thì Lan chợt dừng lại :

- Có một cái cửa, cậu Việt ạ!

Chỗ Lan đứng là nấc nghỉ của chặng thứ hai nằm ngang với một cửa song sắt rỉ sét. Hai người hợp sức cố đẩy, nhưng cánh cửa không lay chuyển.

Bên trong mạng nhện chăng đầy và trên nền đá có một đống khoai lang.

Lan nói :

- Đống khoai kia, tất phải có người đem xuống. Như vậy, vị trí chỗ này chắc không xa trại bao nhiêu và cũng gần mặt đất rồi.

Việt chắc lưỡi :

- Khổ quá, giá không vướng hàng song sắt này tụi mình có hy vọng ra khỏi đây được.

Lan gật đầu :

- Đúng thế. Đây là lối thoát duy nhất của tụi mình. Cậu nên nhớ là Khôi đã đánh chìm những thuyền ngoài bến còn bọn mình thì đang bị lùng kiếm ngoài hang.

- Xuỵt! Hình như có người!... Tắt đèn đi.

Có tiếng chân bước. Thoạt nghe, Việt hoảng hốt tưởng có người đến phía sau lưng. Nhưng sau anh nhận ra tiếng động chân ở bên trên, trong một phòng cao hơn hầm đựng khoai. Tiếng chân lui tới ngang dọc quanh phòng và thỉnh thoảng ngừng hẳn lại.

Việt ghé sát tai Lan trấn tĩnh :

- Không sao đâu. Mình còn một hàng song sắt chắn lối và chắc không ai xuống mở nó ra làm gì. Nhưng không hiểu người nào ở trên đó?

Thực tình, nếu Việt chỉ có một mình, anh đã trở xuống ngay. Nhưng có Lan, nếu cả hai người cùng hấp tấp chạy xuống sẽ vấp ngã và gây tiếng động.

Chợt tiếng chân bước đổi hướng. Hình như người ở trên tiến gần về chỗ Lan, Việt. Tiếp đến ánh lửa vàng vọt chập chờn trên các bậc thang, soi rõ cả đống khoai.

Việt vội đẩy Lan :

- Mau, nấp sang một bên.

Ánh lửa chiếu sáng mỗi lúc một rõ. Lan và Việt đứng dán người bên vách đá nên không sợ bị lộ, nếu người bên trong không mở song sắt để ra ngoài.

Hai người nín thở, theo dõi ánh sáng di chuyển trên các nấc thang. Việt thầm mong những bước chân là của người chủ trại nào đó xuống hầm lấy khoai. Nhưng không, người vừa xuống chẳng để ý gì đến đống khoai cả, chỉ lướt qua và hầu như đang quan sát quanh hầm. Hắn cầm một ngọn nến cháy: lúc giơ lên cao quá đầu, lúc lại đưa soi sát mặt đất.

Hắn tìm gì? Việt thầm hỏi, và anh nhích sát lại gần song sắt. Bên kia Lan cũng có cử chỉ tương tự.

Gã đàn ông cử động một cách thận trọng gần như dè dặt. Hắn bước những bước nhẹ tiến lại hàng song sắt.

Việt hồi hộp chờ đợi, anh nghe tiếng thở của hắn rất gần... tay hắn bám vào những gióng sắt. Hình như hắn đang tìm cách mở cửa và cứ theo cử chỉ mà đoán thì rõ ràng là hắn chưa quen lối.

Sớm muộn gì hắn cũng thất vọng, như Lan, Việt vừa rồi. Tuy nhiên hắn chưa nản, vẫn cố đưa tay sờ soạng ra ngoài hàng song sắt. Ngọn nến của hắn run rẩy chao động. Hắn đặt mẩu nến xuống đất, dùng cả người đẩy vào gióng sắt.Việt liếc nhìn, hoảng hốt thấy cánh tay hắn thò hẳn ra ngoài tìm ổ khóa, và chợt nắm nhằm khuỷu tay của Lan. Giật mình, Lan kêu lên kinh hãi. Việt hét :

- Giữ chặt lấy tay hắn!

Rồi Việt nhào ra phụ với Lan. Sau hàng song sắt, anh đối diện với một khuôn mặt kinh hoàng tái nhợt. Nhưng Việt không để ý. Anh phải cấp tốc gỡ Lan ra khỏi bàn tay của hắn.

Nhưng hắn càng nắm chặt hơn. Trong lúc co kéo, gã đàn ông đạp nhằm ngọn nến. Ánh lửa tắt ngóm, tối om. Hắn bỗng cất tiếng nói, giọng xúc động :

- Lan! Phải Lan không? Cô đến đây làm gì?

- Thầy Phong!

Lan run rẩy bấm đèn. Bên kia hàng song sắt đúng là thầy Phong... Ba người chụm đầu lại hỏi han bàn bạc một hồi. Thầy nói :

- Mình gặp được nhau đây thật may. Chỉ tiếc ta không nhập bọn được vì cái hàng song sắt ác hại này. Thì giờ cấp bách, chúng ta nên hoạch định ngay một chương trình hành động trước khi chia tay.

Lan và Việt nói cho thầy rõ hai người từ ga xe ngầm lên và hiện Khôi đang còn đứng canh chừng bên dưới trong lúc các thợ mỏ đang chuyển các thùng quặng Quassium lên các toa goòng. Thầy Phong căm phẫn :

- Nếu chỗ quặng Quassium này được chuyển tới nơi, cả thế giới dám biến thành biển lửa... Tôi lần mò xuống đây, cốt tìm phòng truyền tin bí mật của bọn họ, và cũng tìm các cậu luôn, vì nghe nói các cậu đang ẩn nấp đâu đó với cô Lan.

- À, ra họ cũng biết như thế!

Thầy Phong tiếp :

- Mình nên thông cảm cho họ, dân trên đảo chỉ có một ít người, lại xa với đất liền, nên họ rất dễ bị khủng bố. Họ biết thân phận của họ sẽ ra sao nếu họ dám cưỡng lại mệnh lệnh của Tổ chức. Họ cũng không dám trốn hoặc báo cho nhà chức trách vì sợ cả gia đình bị tàn sát. Tên đầu sỏ của tổ chức bí mật này không cho phép ai rời đảo. Bởi vậy, nên họ cũng rất lo cho các cậu.

Việt nói :

- Họ đều biết là hai anh em tôi sang cắm trại trên đảo bằng một chiếc xuồng nhỏ.

- Hiện thời, dân đảo vẫn cố tránh tiếp xúc với các du khách. Còn với hai cậu, họ cho là các chú học trò thơ ngây nên không quan tâm lắm.

Việt cười :

- Mới đầu thì thế thật. Nhưng khi hai anh em tôi nghe được tiếng chuông kêu dưới đáy biển, thì lại khác.

Thầy Phong gật đầu :

- Tôi thành thực khen các cậu đã làm một việc hữu ích. Nếu tôi còn sống, tôi sẽ công khai nói điều ấy với mọi người. Nhưng thôi, bây giờ tôi phải trở về trại để khi họ về không nghi ngờ gì cả. Xuồng các cậu giấu đâu?

Lan Việt thuật lại khi giấu xuồng ngoài hang và nhờ đó khám phá ra chiếc tàu ngầm.

Thầy Phong nói :

- Như vậy càng tiện. Tôi đã lén lấy chiếc lều vải của các cậu để làm một cánh buồm. Tôi cũng làm sẵn một cái mảng và cũng giấu sẵn trong hang đó chờ nước triều lên thì dong buồm trốn đi.

- Nếu vậy, thầy có thể đi cùng với chúng tôi.

- Dĩ nhiên rồi. Nhưng trước khi rút lui chúng mình phải hành động đã. Các cậu hãy theo đúng chỉ dẫn của tôi. Mục đích của chúng ta là ngăn cản đừng để chiếc tàu ngầm kia trở ra khơi. Bây giờ đã quá chậm để báo cho nhà chức trách ở đất liền biết.

Việt hăng hái :

- Chúng tôi sẵn sàng. Và chắc Khôi cũng đồng ý...

- Được! Vậy, việc trước hết là cậu đưa cô Lan trở xuống hầm mỏ, cứ theo lối cũ đã lên, chứ đừng qua ngã khác mà lạc lối. Các cậu nhớ chứ?

- Dạ nhớ. Chúng tôi sẽ gặp Khôi ở một cửa hầm trước sân ga.

- Khá lắm! Song phải hết sức cẩn thận. Những hầm mỏ này đã được khai thác từ thời trung cổ. Tôi là người duy nhất đã khám phá ra nhưng chưa thuộc đủ đường lối thì bị người của tổ chức này cầm chân trên đảo. Thôi, hai người trở xuống liền đi, và chờ cho họ bốc hàng xong hãy ra. Rồi tìm trong các hành lang xem có chỗ nào để trạm kiểm soát, và nhớ tránh ngã nào để biển Nguy hiểm.

- Chúng tôi đã gặp một biển có đề Nguy hiểm.

- Từ giờ hễ gặp biển ấy thì phải tránh, vì đấy là chỗ họ nổ mìn khai quặng. Còn nếu tìm được trạm kiểm soát thì cứ mạnh dạn mà vào. Lúc tàu chạy rồi sẽ không còn ai trong đó nữa. Trong một góc phòng, các cậu sẽ thấy một đống quần áo lặn. Hãy vào nấp kín ở đó và chờ tôi, đừng làm gì cả nếu chưa thấy tôi ra dấu. Bây giờ, chuồn lẹ đi. Tôi nghe có tiếng chân bên trên. Nếu tìm được đài truyền tin tôi sẽ đánh điện đi. Cần phải nhớ đây là vấn đề sinh tử của chúng mình. Nếu hành động sai lầm là chết, vì không còn ai giúp mình được cả.

Thầy Phong thò tay ra ngoài song nắm tay Lan. Đoạn thầy quay đi bước những bước dài với cây nến cầm tay.

Việt kéo Lan đi :

- Thế là tụi mình có cơ hội thoát thân rồi.

Lúc hai người xuống tới chân cầu thang Khôi cau có gắt :

- Làm gì mà lâu thế? Bọn họ bốc hàng xong đã leo lên đi cả rồi; đèn ngoài sân ga cũng tắt hết, nên đành phải chờ vậy.

Khôi hăng hái trở lại khi được biết những điều do Lan và Việt thuật lại. Sau đó cả ba lần ra ngoài sân ga vắng lặng và tối om để thăm thú từng ngách hầm một. Mỗi lần gặp ngách hầm có đề Nguy hiểm ba người vội lui ngay. Mò mẫm một lúc khá lâu, họ gặp một lối đi khá rộng dẫn đến một hang động lởm chởm đá nhọn, khe vực. Khá sâu phía dưới chân có nước biển sóng sánh.

Hang động này không giống như cái hang ba người đã giấu xuồng. Nó rộng hơn, trông hoang vu dễ sợ, với những hòn đảo nhỏ bằng đá rải rác nhô lên. Động không tối lắm, vì nước hình như phát quang.

Khôi lia ánh đèn quét một vòng, bắt gặp một ngọn tháp trồi lên mặt nước.

- Hình như kia là một ngọn tháp!

Lan nói :

- Đúng rồi, trên tháp có một cái chuông!

Việt bỗng thấy trống ngực đập mạnh. Anh thấp giọng bảo :

- Cái chuông ngân vang dưới đáy biển!

Khôi không kém xúc động, lẩm bẩm :

- Đây đúng là tháp chuông thánh đường của phố Hội cổ xưa đã bị chìm sâu dưới nước!

Như vậy tiếng chuông kêu dưới biển đã được khám phá và Khôi Việt đều biết nó được đánh lên để làm gì trong hầm mỏ.

______________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG XV

Thứ Ba, 28 tháng 7, 2015

CHƯƠNG XIII_TIẾNG CHUÔNG DƯỚI ĐÁY BIỂN


CHƯƠNG XIII


Ánh sáng vụt chiếu làm ba người lóa mắt. Họ đứng ngây người vì kinh sợ.

Khôi càng luống cuống thêm. Không ai biết đoàn tàu do ngả hầm nào tới, nhưng tình thế của Khôi thì thực là nguy hiểm. Chân anh vướng đúng ngay vào chỗ đường ghi phát đi các ngả.

Lan vùng nảy một ý kiến :

- Chỉ còn cách này thôi!

Nàng ngồi thụp xuống, hấp tấp cởi dây giày của Khôi. Chỉ một thoáng Lan đã tháo xong sợi dây, nhưng chân Khôi vẫn chưa rút ra được.

Lan hét :

- Đưa tui con dao!

Việt lục túi lấy con dao, trong khi tiếng chuyển động ầm ầm của đoàn tàu càng tiến lại gần. Khôi vẫn không ngớt vùng vẫy một cách tuyệt vọng.

Lan bật lưỡi dao, cứa rách cổ giầy của Khôi và xé toạc xuống tận gót, hắn mới nhắc được chân ra.

Việt để ý đến cửa hầm kế cận, nơi chia đường ghi sang ngả khác. Anh lôi các bạn đến đấy :

- Mau, tránh vào ngách hầm này!

Khôi ngoái nhìn chiếc giầy còn kẹt giữa ghi, lẩm bẩm :

- May quá. Tí nữa thì toi mạng. Nhưng giá đợi thêm vài phút nữa, chắc chắn mình sẽ khám phá thêm được cái gì.

Vừa kịp lánh vào đường hầm bên cạnh, đoàn tàu đã ầm ầm kéo đến, khua động rung chuyển cả mặt đất. Đây là một loại xe điện chạy trên đường rầy. Việt còn đang thắc mắc, không biết nó được điều khiển bằng nút bấm, hay có người trực tiếp ngồi trên đầu máy, thì đoàn tàu bé nhỏ đã tiến vào ghi. Nó bỗng chao mạnh, và các toa goòng trượt khỏi đường rầy, nghiêng đổ lổng chổng. Ba người nghẹn thở đứng nhìn. Giọng Khôi lạc hẳn đi :

- Tại chiếc giầy...

Việt lắc đầu :

- Chưa chắc! Chiếc giầy của cậu không đủ sức làm đổ một đoàn tàu!

- Thì cậu không thấy đó sao! Chiếc giầy của tớ làm kẹt ghi nên các toa tàu mới trật đường...

Các toa goòng văng đổ tứ tung. Có toa rớt ngay cửa hầm ba người đang nấp, vung vãi những thùng nặng trên mặt đất. Như vậy...nhờ chiếc giầy của Khôi mà điều bí mật được khám phá :

Cả ba nhào đến những chiếc thùng, và thấy trên nắp gỗ có đề chữ: QUASSIUM.

Lan lẩm bẩm :

- Quassium là cái chi rứa?

Khôi, Việt nhìn nhau. Đôi bạn đã từng nghe hoặc cũng như phần đông thiên hạ được biết cái tên ấy trên sách báo, nhưng chưa thấy bao giờ. Và cũng chẳng ai hiểu nó là cái gì, ngoài một số nhà bác học... Khôi, Việt cũng đã tìm đọc các sách báo hy vọng tìm hiểu thêm, song chỉ được biết rằng thứ đó đang được người ta tìm kiếm khắp nơi. Việt cũng lại đánh bạo hỏi chú Triều Dương về điều ấy, nhưng chú chỉ cau mày và không nói gì cả.


Cái thứ ấy hiện ở ngay trước mắt Khôi, Việt được đựng trong các thùng nhỏ, là một thứ quặng hiếm hơn vàng, và ghê gớm kinh khủng vì khi nó vào tay các nhà bác học nó trở nên một mãnh lực có thể hủy diệt hoàn cầu.

Khôi nói :

- Tụi mình nhặt lấy ít miếng làm mẫu, rồi chuồn khỏi đây thôi.

Lan tiếp :

- Phải đi cho mau, kẻo có người tới bây giờ.

Cả ba thoát ra khỏi ngách hầm, chạy lui về con đường cũ lối họ vừa lên.

Khôi lo lắng :

- Nếu cứ theo đường rầy mà đi, nhỡ lại gặp một đoàn tàu khác xông đến thì sao?

- Trường hợp ấy chúng mình có thể nằm ép giữa đường sắt cho nó chạy qua!

Nói câu ấy mà Việt cảm thấy sởn da gà. Khôi càu nhàu :

- Nghe cậu nói cũng đủ ớn rồi, liều mạng cách ấy không được! Theo tớ thì tụi mình nên đi xuống là hơn. Chày kíp mình cũng trở lại hang, ẩn một chỗ chờ nước rút. Chỉ khổ cho tớ là chân giầy chân đất, làm sao đi nhanh được!

Khôi vừa nói xong,thì điều cả ba lo ngại đã đến. Tiếng chuyển động trên đường sắt lại vang lên. Làm cách nào bây giờ? Nằm ép mình giữa đường sắt, hay tìm một hốc lõm nép mình vào đó chờ đoàn tầu đi qua?

Ba người phóng mình bỏ chạy, vừa lo ngại nếu đoàn xe này cùng một tốc độ như chuyến vừa rồi thì không sao thoát khỏi bị nghiền nát.

Cũng may, chạy đến một khúc quẹo, ba người chợt thấy có nhiều sợi dây cáp treo một ống sắt lớn xuyên qua hầm dọc theo vòm đá. Bám được lên đó hy vọng đoàn xe chạy bên dưới mới không đụng phải.

Việt tìm được mốc đá bên vách, trèo lên và đu mình bám vào ống sắt đoạn thòng tay kéo Lan. Tiếp đến Khôi, vừa bám được người vào ống thì đoàn tầu cũng kéo đến. Việt cảm thấy ớn xương sống và hoa cả mắt khi nó rùng rùng chuyển động bên dưới.

Đoàn tầu chắc từ ngoài bến nổi trở vào nên kéo toàn toa trống và chạy chậm hơn chuyến trước.

Bỗng có tiếng hét thất thanh của Lan. Khúc ống Lan đang bám nứt rạn rồi gãy cong xuống. Lan quơ tay cố nắm lấy Việt nhưng chới với Lan ngã vào một chiếc goòng.

Việt kêu :

- Khôi! Coi kìa! Chị Lan nguy rồi!

Nhưng Khôi đã thấy, anh hét :

- Nhảy xuống nốt đi thôi!

Dứt lời Khôi thả luôn mình xuống toa goòng vừa tới. Việt hoảng quá nhưng cũng đành liều bắt chước bạn. Anh rơi vào một toa kế tiếp và rất may cũng là toa cuối cùng.

*

Việt tự hỏi đoàn xe kỳ quái này sẽ đưa bọn anh tới đâu? Và liệu có tên ngu xuẩn nào kẹt giày trên đường ghi nữa hay không? Anh rởn người khi nghĩ đến điều đó, và tìm cách bám chắc vào thành xe.

Đoàn xe tăng dần tốc lực. Thoạt đầu Việt có cảm tưởng như nó đang đi xuống, nhưng ý nghĩ ấy không lấy gì làm chắc lắm vì xe qua nhiều khúc quẹo, bánh sắt rít lên ken két và lắc lư khua động ghê người.

Việt muốn tìm cách trèo sang toa goòng của Khôi để được gần bạn. Nhưng hầm mỗi lúc một thấp có chỗ gần sát thành toa.

Việt đành phải ngồi xổm xuống và không ngớt nhìn lên vòm đá. Con đường toàn những khúc quẹo, hầu như đoàn xe đang chạy vòng trôn ốc.

Đột nhiên đoàn xe tiến vào một khoảng tối mịt mù. Việt không hiểu những bóng điện soi sáng đường hầm vụt tắt, hay con tàu đã ra khỏi đường hầm? Anh vẫn ngồi xổm, tay vịn chắc vào hai bên thành toa, đầu dướn về phía trước. Lần này Việt có cảm tưởng rõ ràng là đoàn xe đang đi xuống.

Việt đâm ra hối tiếc đã nghe theo lời Lan, dấn mình vào cuộc mạo hiểm này, một cuộc mạo hiểm dưới lòng đất âm u, trong những đường hầm mà không ai biết đâu là đầu đâu là cuối

Đoàn xe chợt dừng lại như bị thắng gấp, khiến Việt chúi nhủi về đằng trước. Điều kỳ lạ hơn nữa, là hai bên thành toa đang tự động vươn lên, ập vào nhau, thành một nắp đậy kín mít, giam Việt ngồi trong như một chiếc quan tài bằng sắt.

Đoàn xe lại bắt đầu chuyển bánh nhưng chậm chạp một cách thận trọng Việt hiểu ngay nguyên nhân. Thay vì tiếng bánh xe khua vang trên đường sắt, anh nghe tiếng nước sủi tăm, róc rách ở trên đầu.

Việt sờ vào thành toa. Mặt thép ẩm lạnh; phía trên đầu nắp đậy thật kín, chỉ rỉ vào đôi ba giọt nước. Ngửi mùi nước tanh mặn, Việt biết anh đang đi dưới lòng biển.

Nằm trong toa xe bít bùng, tai nghe tiếng nước róc rách chung quanh Việt kinh hoàng không biết số phận mình ra sao nữa. Không khí hạn chế trong toa khiến Việt tức thở. Anh thầm mong cho Lan và Khôi không đến nỗi chết ngột, và cầu cho đoàn xe đi đúng đường của nó.

*

Quãng đường đi dưới nước dài ngắn ra sao và khoảng thời gian là bao lâu, Việt không kịp có một ý niệm nào cả.

Nhưng sau đó, đoàn xe lại lên khỏi mặt nước và nắp toa đậy kín khi xuống nước tự động hạ xuống.

Việt ngửng đầu lên nhìn. Đoàn xe đang từ từ quẹo vào một sân ga vắng lặng. Khi nó vừa ngừng, Việt nhỏm người lên quan sát. Phía cuối, sát ngay toa anh ngồi có một đầu máy bao kín đằng trước. Bên trong có một người ngồi, song rất may hắn quay lưng về phía Việt và đang chăm chú vào công việc điều khiển máy móc.

- Xuống mau!

Khôi và Lan lần lượt nhảy xuống sân. Khôi chưa biết có người đàn ông trên đầu máy. Việt nhảy xuống theo. Anh vẫn thấy người đàn ông còn ngồi yên chỗ cũ. Ba người lẩn vào một cửa hầm gần nhất.

Khôi nhăn nhó :

- Đau người quá. Xe cộ gì mà lắc kinh khủng!

Việt chỉ người đàn ông trên đầu máy :

- Ra bảo hắn lần sau nhớ lót nệm cho mà ngồi!

Lúc ấy Khôi và Lan mới giật mình lùi lại. Khôi cười gượng :

- Suýt nữa thì chết. Cũng may hắn chưa thấy tụi mình.

Hoàn cảnh không phải là lúc đùa giỡn. Cả ba người đều hiểu rõ họ đang ở giữa một hầm mỏ nên không ai còn thắc mắc gì nữa. Mọi sự đã phơi bày ra một cách thật là kỳ lạ. Hầm mỏ này đang đuợc khai thác. Chất quặng Quassium được gửi đến một nơi hết sức bí mật, bằng tàu ngầm. Tất cả những điều ấy đủ cung cấp tài liệu cho các nhà chức trách rồi. Nhưng Việt và các bạn đều băn khoăn thầm nghĩ: Làm cách nào trở về xuồng ở ngoài hang được?

Việt nói :

- Đợi họ chất hàng xong, tụi mình sẽ lẻn lên xe...

Khôi đáp :

- Để rồi lúc lên trên ấy bị tóm trọn cả ba đứa? Không! Tớ không muốn lọt vào tay họ một cách... lãng nhách như vậy!

Lan đề nghị :

- Tốt hơn hết mình cứ nên ẩn ở ga xe này, quan sát xem sao, rồi hãy quyết định sau.

Cuối đường hầm chỗ ba người đang nấp có một cầu thang. Một tấm biển đề chữ NGUY HIỂM gắn ngay tại đó.

- Quay ra thôi. Ngoài sân ga còn nhiều lối khác nữa.

Việt đưa mắt dò xét. Người đàn ông đã xuống khỏi đầu máy, thản nhiên vừa huýt sáo vừa lau tay bằng một mảnh giẻ. Hắn mặc bộ đồ cao su giống hệt như mấy người mà Việt đã thấy, và vì hắn vẫn quay lưng lại nên Việt chưa thấy được mặt mũi hắn ra sao. Việt ngoắc các bạn lại, bàn tính :

- Tụi mình chạy sang phía bên kia được không? Hắn đang quay lại nên chưa biết có tụi mình.

Khôi nói :

- Không nên, nhỡ hắn quay lại đúng lúc mình nhô ra thì lộ hết.Tuy hắn đứng xa, không đuổi được mình, nhưng hắn có thể báo động cho đồng bọn biết.

Lan đồng ý :

- Điều cần nhất là đừng để bọn họ biết mình đang ở đây. Chắc chắn bọn họ tưởng các cậu đã về bên Phố Hội, và khi không thấy tui, họ cũng tưởng đâu tui theo các cậu rồi.

- Nhưng còn gã đàn ông đạp nhằm cái ba lô của Việt?

- Hắn đâu biết cái sắc đó của ai. Vả theo giọng nói, hắn không phải là người trên đảo.

Lan chỉ vào người đàn ông đứng trên đầu máy tiếp :

- Sợ gã kia tề!

Việt nhận xét :

- Hình như hắn đang chờ gì đó. Chắc đợi bốc hàng.

Khôi thắc mắc :

- Liệu hắn có lại đây không nhỉ? Mình cứ đứng mãi đây, ngay chân cầu thang này nếu không đụng phải hắn, cũng gặp người khác.

- Hay tụi mình đi chỗ khác?

- Cũng nguy hiểm lắm!

- ...Còn hơn cứ đứng mãi ở đây!

Ba người nhìn nhau: Không ai muốn đứng mãi một chỗ nhưng cũng không ai dám xông xáo trước miệng cọp.

Khôi nói :

- Trước hết phải coi xem hắn có khí giới không đã. Chứ nhỡ tụi mình ló mặt ra mà...

Chợt một âm thanh nặng nề vang lên ở cuối đường hầm, nghe như tiếng động cơ xoay chuyển.

Cả ba giật mình, biết không thể nào nán lại lâu hơn nữa. Lan nói :

- Nếu gã kia có mang súng, cứ để tui đi đầu cho. Hắn sẽ ngạc nhiên khi thấy một cô gái và không dám bắn mô. Để tui men ra trước, rồi các cậu theo sau.

Không đợi trả lời, Lan hăng hái thực hành ngay. Ý kiến của Lan tuy hay, nhưng Khôi, Việt không thể để nàng liều mạng như thế được. Đôi bạn vội ngăn Lan lại, tranh vượt lên trước.

Nhưng Lan chợt khựng người, thốt kêu :

- Ủa, anh Minh!

Đúng lúc ấy tiếng chuông đồng hồ bỗng đổ hồi, vang vọng chói tai.

Vừa nghe tiếng chuông, Minh - vì chính anh ta - quay lại rồi hấp tấp bước đi. Tiếng chuông vẫn vang vang tiếp tục, âm thanh dội vào các vách đá tưởng như rung chuyển cả mặt đất. Cả ba cùng cất tiếng gọi :

- Anh Minh!

Quên mọi bất trắc, Lan bổ nhào ra. Khôi việt hấp tấp theo sau mong bắt kịp Minh để nhờ anh chỉ dẫn, giúp đỡ. Nhưng họ bỗng thất sắc dừng lại.

Một bọn người tiến ra sân ga, đến bên đoàn xe. Trong bọn có một người leo lên đầu máy thế vào chỗ của Minh.

Khôi việt xô vội Lan vào một ngách đá thấp, tối om, vừa kịp không ai nhìn thấy.

Còn Minh, anh đã mất hút vào ngã khác!

______________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG XIV

CHƯƠNG XII_TIẾNG CHUÔNG DƯỚI ĐÁY BIỂN


CHƯƠNG XII


Các đường rầy Khôi vừa thấy giống như đường rầy ở mỏ than Nông Sơn. Đó là những đường sắt song hàng, hẹp bề ngang đặt sơ sài trên mặt đất. Các ngách hang nằm bên ngoài cửa hầm có thể là các bến nổi khi nước triều dâng cao. Nhưng các thuyền lớn không thể cặp vào bến này được, vì lòng hang tuy khá rộng, song không đủ cho những thân thuyền dài xoay chuyển.

Khôi đặt câu hỏi :

- Phải chăng đây là một thứ bến để bốc hàng bằng các xuồng nhẹ?

Lan nói :

- Tui sinh trưởng ở đây, và sống trên đảo này suốt thời thơ ấu, mà tui có thấy ai bốc hàng, dỡ hàng chi mô? Thổ sản ở đây, ngoài cá mú, và dầu chàm ra không còn có gì để phải chuyên chở bằng những chiếc goòng trên đường này!

Khôi quả quyết :

- Chắc ở đây phải có một cái mỏ. Đúng rồi. Tiếng chuông mà chúng ta nghe âm u dưới lòng đất là tiếng chuông báo hiệu giờ làm dưới mỏ.

Việt vỗ tay lên trán :

- Nếu thế, năm người mà Việt thấy sáng nay là năm thợ mỏ!

Lan trầm ngâm nhắc lại :

- Một cái mỏ! Có thiệt những người trong trại đã xuống làm việc dưới hầm mỏ chăng? Tại sao không ai nói chi tới cái mỏ đó bao giờ cả?

Giả thuyết có một hầm mỏ giải thích được nhiều điểm nghi ngờ, ví dụ như năm người sáng nay đã chui cửa hầm để xuống chỗ làm việc. Nhưng Việt vẫn không thể hiểu được tại sao họ xuống hầm mỏ mà lại phải lặn dưới biển, với bộ đồ thợ lặn. Hơn nữa, còn thầy Phong, nguyên nhân nào đưa thầy đến đây và hầu như bị cầm giữ trên đảo?

Đứng trên đường rầy, Khôi, Việt và Lan thì thầm bàn tán. Tiếng sóng vỗ ngoài ghềnh lấn át tiếng nói của họ. Khôi nói :

- Không hiểu họ đang khai thác mỏ gì ở đây nhỉ?

Lan tiếp :

- Và những ai đang làm việc ở đây? Ngoài ít dân trên đảo, tui chắc còn có nhiều người khác nữa mà anh Minh phải e dè. Còn thầy Phong, Chẳng hiểu thầy ấy ra sao?

Khôi đưa tay lên gãi sau gáy, một thói quen của Khôi khi gặp điều bối rối, và ngắt ngang lời Lan:

- Tụi mình cứ đứng đây bàn tán mãi chẳng được tích sự gì cả. Tốt hơn hết ta nên tìm xem những cửa hầm này đưa tới đâu. Chỉ ngại là không biết có kịp không, vì nước triều đang lên và mực nước còn dâng cao hơn nửa.

Lan gật đầu :

- Đúng thế! Có thể lúc tụi mình đang mò mẫm trong đường hầm mà nước dâng lên thì tụi mình chẳng khác gì một lũ chuột mắc kẹt trong ống cống!

Khôi chỉ ngấn nước của mức thủy triều hôm trước còn để dấu lại gần sát nóc hang :

- Nếu vậy chúng ta rút lui chứ? Rõ ràng là mực nước sẽ ngập quá nửa hầm rồi.

Giọng Lan có vẻ gay gắt :

- Muốn thoái thì cũng đành vậy chứ biết răng chừ! Nhưng tính sao đây? Xuống xuồng ngồi đó chờ nước rút rồi ra hả?

Thực tình Khôi Việt không có ý định bỏ cuộc sớm như thế. Lời nói gay gắt của Lan làm hai anh em ái ngại. Mạo hiểm vào hang trong lúc gặp điều kiện thuận lợi đã là can trường rồi. Nhưng nếu đi sâu vào các hầm mỏ trong hang đầy rẫy nguy hiểm rình rập thì quả là liều mạng. Trong những trường hợp tương tự, nếu phải chú Triều Dương, chú sẽ khuyên: nên khôn ngoan chứ đừng liều lĩnh. Việt quay sang Lan phân trần :

- Chị cũng nhận thấy là nếu tụi mình tiến sâu hơn có thể bị mắc kẹt lắm chứ? Bởi vậy đã tới đây mà có phải thoái lui thì cũng kể như bất đắc dĩ...

Lan cướp lời :

- Theo tui thì cần phải khám phá ra những bí ẩn ở trong hang nầy và tìm cách cứu thầy Phong còn hơn là...

- Là sao chị?

Lan đổi giọng. Nàng ôn tồn nói :

- Các cậu đừng tưởng là tui mạnh bạo chi mô. Tui cũng run lắm chớ.

Nhưng tui tin chắc tụi mình chẳng đạt được kết quả nào hết nếu không tranh thủ thời gian, hành động kịp thời trước khi nước triều xuống. Trong trường hợp phải rút lui, chắc chắn chúng ta có thể tìm được chỗ ẩn náu để chờ nước rút. Chiếc xuồng của tụi mình đã được giấu vào một chỗ kín đáo nên không sợ gì hết.

Khôi gật đầu. Hình như không còn cách nào hơn là tán thành ý kiến của Lan khi nàng bày tỏ ý kiến ấy một cách hết sức điềm tĩnh. Lan tiếp :

- Còn điều này nữa là không ai có thể vô đây vào giờ nước lớn, vì cửa hang đã bị ngập kín rồi. Muốn vô trong ni phải lợi dụng đúng lúc nước triều lên, như hồi chúng ta chèo vô mới được. Thường thường mực nước chỉ dâng tới ngách hang này thôi. Ngách trên ít khi bị ngập.

Khôi nói :

- Chị nói cũng có lý. Cửa hang ngoài một khi đã ngập kín rồi thì chẳng ai vào đây được nữa. Còn chúng mình đã vào đây, đã thấy cái đường rầy này ăn thông vào trong hầm mà không xem xét cho tỏ tường, kể cũng uổng công lắm.

Khôi gãi gáy tiếp :

-Theo tôi, ta nên leo lên ngách trên thì hơn, vì đứng dưới này dầm chân dưới nước khó chịu quá.

Ba người quay lại chỗ giấu xuồng kiểm soát lần nữa cho chắc, rồi tìm cách leo lên. Điều cả ba người đều quan tâm là tìm kiếm tỉ mỉ xem hai ngách hang này được dùng làm thứ bến bí mật để bốc dỡ món hàng gì? Nhưng muốn lên ngách trên không thể bám vách hang leo lên được; nên sau một hồi bàn tán, ba người quyết định chui vào đường hầm vì chắc hai ngách phải có lối ăn thông với nhau. Ánh nắng bên ngoài lọt qua các kẽ hở trên nóc hang lóe lên thứ ánh sáng mập mờ, đủ cho ba người nhìn được lối đi.

Tiến sâu thêm chút nữa, khoảng đường rầy có vẻ ít rỉ sét hơn. Đoán chừng chỗ này là nơi bốc dỡ hàng, ba người khom lưng tìm kiếm, nhưng thấy toàn sỏi đá, tuyệt nhiên không có một cục than hay miếng quặng nào.

Việt nói :

- Họ chuyên chở thứ gì mà tuyệt nhiên không thấy vương vãi một dấu vết nào. Bí mật thật!

Lan nhún vai :

- Có thể là họ chẳng chuyên chở chi hết. Biết đâu khúc đường sắt này đã có sẵn từ lâu vậy thôi.

Khôi thúc dục :

- Mình cứ tiến vào xem sao. đường hầm này dốc trở lên trên chắc ăn thông lên ngách trên được.

Lan gật đầu :

- Đúng thế. Tui đã thấy thầy Phong và anh Minh xuất hiện trên đó.

Hầm tối om, nên phải chờ Khôi sửa soạn đèn bấm. Trước khi chui vào, ba người còn thận trọng nhìn về chỗ giấu xuồng.

Lan chỉ tay nói :

- Coi kìa, chỗ chúng mình vừa đứng ngập nước rồi.

Quả nhiên, mực nước dâng lên rất chóng đã vít kín hẳn cửa hang. Ba người lặng lẽ nhìn nhau, hồi hộp. Giờ phút này kể như họ đã bị nước triều nhốt kín trong động. Trước hoàn cảnh đó cả ba đều cảm thấy hoảng sợ, nhưng cảnh tượng trước mắt, từng đợt nước sôi réo, cuồn cuộn từ ngoài tràn vào, làm họ sững sờ đứng ngắm không chán mắt.

Khôi bật đèn :

- Chúng mình chui vào hầm thôi chứ?

Đúng lúc ấy, Việt chợt thấy ở cửa hang nổi lên một vật đen ngòm, loáng ướt. Anh chỉ tay kêu :

- Kìa! Một con cá ông!

Con vật kỳ dị mà ba người chưa hề thấy, nổi lưng trên mặt nước xoáy động nom giống như một con kình ngư của biển cả.

Nó lừ lừ tiến về phía ba người đang đứng, và khi tới gần, nó lặn xuống. Lúc ấy ba người mới kịp nhận ra con vật đó chỉ là một chiếc tầu ngầm.

Người nhận ra điều ấy trước tiên là Khôi. Anh kêu :

- Không phải cá ông! Nó là một chiếc tầu! Một tiềm thủy đĩnh!

Việt nói :

- Chắc nó đến lấy hàng!

Lan tiếp :

- Ừ hí, nó chờ đúng lúc nước triều lên cao, lẻn vô đây để khỏi ai trông thấy.

- Ồ. Có một nắp tàu vừa mở!

- Nguy rồi, tụi mình trốn mau!

Cả ba phóng mình vào trong hầm, xô đẩy chệnh choạng trên đường sắt. Qua cơn hốt hoảng, ba người dừng lại. Khôi bật đèn, phía trước mặt, khúc đường rầy quẹo sang một ngách hầm khác và bên tay mặt có một khe hẹp mà Khôi đoán là lối lên tầng trên.

Khôi nói :

- Chúng mình tạm ngừng đây xem tình hình ra sao đã.

Lan phụ họa :

- Phải đấy. Đứng thở một chút cho đỡ mệt.

Việt băn khoăn :

- Sợ nước triều còn dâng lên tới đây nữa thì sao?

Việt vừa nói xong thì một tiếng động chát chúa vang lên phía sau lưng. Khôi quay phắt lại, rọi ánh đèn, kịp cho mọi người thấy một cánh cửa sắt nặng nề sập xuống.

Việt bàng hoàng kêu :

- Chêt cha! Tụi mình bị kẹt trong này rồi!

*

Lan lẩm bẩm :

- Cánh cửa này ngăn cho nước triều khỏi tràn vô trong hầm. Như vậy tụi mình cũng đỡ lo được phần nào!

- Nhưng nó cũng bít luôn lối rút lui của bọn mình!

Khôi cố giữ vẻ bình tĩnh.

- Mình sẽ tìm lối khác!

- Biết có lối nào khác không? Lớ ngớ nhỡ họ tóm được thì nguy!

Lan thản nhiên đáp :

- Rủi có lọt vào tay họ tui cũng bất cần. Thầy Phong cũng đang ở trường hợp đó.

Từ lúc cánh cửa sắt nặng nề sập xuống bít kín cửa hầm, bọn Khôi, Việt và Lan không dám bàn tán mạnh dạn nữa. Ba người chỉ thì thào trao đổi ít lời để trấn tĩnh nhau: vì ai cũng hiểu rằng họ đã bị kẹt trong hầm, và phân vân không biết nên đi theo con đường sắt, hay vào khe hẹp để lên từng trên?

Chiếc tầu hiện ra giữa lòng hang đúng là một tiềm thủy đĩnh rồi. Nhưng nó khác hẳn các loại tầu ngầm thường thấy, có thân dài như mình cá. Đây là một loại tầu ngầm nhỏ, thân ngắn, sườn phình tròn giống hình thù một con rùa khổng lồ, và hình như đặc biệt được dùng ở nơi chật hẹp cho dễ xoay trở. Việt tự hỏi: tại sao nó phải chờ nước triều lên để lặn sâu vào trong động. Chắc chắn nó phải có một lý do bí mật nào. Lý do đó rất dễ hiểu :

Nó vừa cặp vào sát ngách hang để chờ bốc hàng xuống! Nhưng hàng gì? Và do đâu chở tới? Đứng trong đường hầm tối om, Việt không ngớt đặt ra nhiều câu hỏi. Thoạt đầu anh tưởng việc thầy giáo Phong mất tích đã là một việc quan trọng. Nhưng bây giờ trước sự xuất hiện đột ngột của chiếc tầu ngầm này, Việt lại thấy mình đứng trước một bí ẩn còn quan trọng hơn.

Anh nghĩ giá lúc nhận được tập tài liệu mật của thầy Phong, anh và Khôi đem ngay về Phố Hội, thì có lẽ chú Triều Dương và các nhà chức trách đã có những biện pháp thích hợp cho các vấn đề rắc rối này. Nhưng bọn anh cũng không thể bỏ mặc Lan ở đây được. Lan đã giúp đỡ các anh, cùng phe với các anh; hơn nữa Lan lại sẵn sàng chịu đựng mọi gian nguy để mong cứu thoát anh nàng và thầy Phong thì Khôi Việt càng có bổn phận phù trợ nàng. Bây giờ việc đã lỡ rồi, chiếc xuồng đã để lại ngoài kia, cửa hầm bị vít kín có than trách cũng là vô ích. Chỉ còn cách tiến tới, may ra còn cơ hội thoát ra được, hoặc hy vọng tìm được Minh hay thầy Phong.

Việc trước nhất bọn Khôi Việt nhắm tới là men theo vách hầm đến cuối khe đá bên tay mặt mà cả bọn đều cho rằng đó là lối lên ngách thứ hai. Nếu lên tới ngách trên mà gặp trắc trở, chẳng hạn như đụng độ với người của chiếc tầu ngầm vừa xuất hiện thì sẽ lại rút xuống hầm để theo con đường sắt xem nó dẫn tới đâu.

Lối lên ngách trên thật khó nhọc. Khe chật chỉ vừa đủ lọt một người, có lúc phải chui qua một lỗ tối trơn trượt, có lúc lại phải trèo những bậc đá xoáy trôn ốc. Khôi trao cho Việt chiếc đèn bấm, và Việt tiến lên trước, vừa chiếu đèn trở lại cho Khôi và Lan theo sau. Chiếc ba-lô Việt đeo sau lưng cứ bị vướng chạm vào các mô đá. Phía dưới, giọng Khôi lại luôn luôn nhắc nhở.

- Chậm chậm chứ! Sao cậu đi nhanh thế?

Việt phải ngừng lại từng chặng và đưa ánh đèn dò dẫm.

Sau khi lách qua khe đá, Việt thấy trước mặt hiện ra một hành lang có cầu thang. Anh thở phào :

- Ra tới chỗ rộng rồi. Chỗ này có một cầu thang.

Việt vừa dứt lời, chợt nghe có tiếng chân bước nặng nề đi xuống!

Việt khựng lại, ghé tai Lan bảo :

- Quay lại! Chị nói với Khôi quay lại mau!

Anh vừa thụt lui được vài bước Lan đã thì thào :

- Cậu Khôi hỏi tại sao rứa?

Khôi vẫn có cái tật ấy! Nhè lúc tình thế khẩn cấp mà bắt giải thích tại sao! Việt bực mình đáp :

- Không cần hỏi lôi thôi, chị cứ xô hắn đi hộ tôi. Có người đang tới!

Việt cố khom người cho khỏi bị vướng mắc mà chiếc ba-lô vẫn cứ như muốn cản anh lại. Phía sau có tiếng cằn nhằn của Khôi vì bị Lan xô đẩy. Nhịp chân của người lạ vẫn đều đặn bước xuống, không nhanh không chậm. Hắn chưa biết có bọn Khôi Việt ở đây, nhưng chầy kíp hắn cũng khám phá ra. Việt lui tới một khoảng khá rộng, vừa đủ cho anh xoay người lại. Từ lúc quay lui, Việt không dám bấm đèn nữa. Anh sờ soạng lần theo vách đá, và càng hấp tấp anh càng lúng túng thêm. Chiếc ba-lô của Việt vướng quai vào mốc đá kéo đè lên đầu Việt.

Đúng lúc ấy, tiếng chân người đã xuống hết bực thang. Có ánh đèn lướt qua chỗ Việt vừa nhô lên khi nãy và khi nghe tiếng động nên thụt lại. Hoảng hốt Việt mất hết bình tĩnh. Anh giật mạnh chiếc ba-lô làm nó tuột qua đầu và cũng đồng thời vật anh ngã ngửa. Ánh đèn bên trên tiếp tục di động lại gần. Việt vùng lên bỏ chạy.

Thoát khỏi khe đá, Việt gặp lại Khôi và Lan đứng đợi. Họ rồn rập hỏi :

- Có chuyện chi rứa?

- Cậu nghe ngóng ra sao?

- Còn chiếc "sắc" đâu?

- Rơi mất rồi hả!

Khôi dằng lại cây đèn. Việt hổn hển nói :

- Mau lên có người đang soi đèn đi xuống. Tụi mình chỉ còn cách chuồn theo lối đường sắt thôi.

Đầu kia, trong khe tối vẳng lên tiếng nói của một người đàn ông. Hắn càu nhàu bằng giọng nói ngoại lai khó hiểu.

Việt thì thầm.

- Hắn thấy rồi. Chắc hắn vấp phải chiếc ba lô. Thôi, chuồn mau đi!

Cả ba người hấp tấp bỏ chạy. Khôi nói :

- Nắm lấy nhau cho khỏi lạc! Mình cần phải tới khúc quẹo của đường sắt trong khi gã kia còn mải ngắm chiếc ba lô của Việt!

Việt chống chế :

- Tớ có muốn thế đâu! Tại cái quai nó mắc vào đá đấy chứ!

Lan nói :

- Dĩ nhiên rồi! Cũng như nó đã làm khốn đốn cậu ngoài hàng rào kẽm gai bữa gặp tui đó tề! Mấy cậu con trai ưa đeo sắc trên vai lắm. Làm như hễ đi đâu là phải mang theo đủ thứ!

Tới khúc quẹo của đường sắt, Khôi bật đèn, nhưng cẩn thận che bớt ánh sáng. Chỗ đó là nơi tiếp giáp của nhiều đường ăn thông vào các cửa hầm khác. Có lẽ đây là những đường hầm đi sâu xuống dưới lòng mỏ. Còn đang phân vân chưa biết chọn ngả nào thì ánh đèn của gã đàn ông đã tiến tới phía sau. Hắn đã thấy chiếc ba-lô nên đang lùng kiếm bọn Khôi Việt.

Khôi tắt phụt ánh điện, kéo cả bọn vào một con đường hầm gần nhất. Bước chân của ba người vang lên trong đường hầm. Thỉnh thoảng họ dừng lại vì nghe như có tiếng sóng gió gầm thét đâu đây. Chẳng biết đó là tiếng sóng vỗ hay tiếng gió lùa vào các cửa hầm tạo nên thứ âm thanh u trầm, hun hút? Chạy quanh co một lúc khá lâu, ba người thấy yên tâm hơn vì có cảm tưởng như đã làm gã đàn ông lạc hướng không còn biết ngả nào đuổi theo.

Lan bỗng nói :

- Từ nãy giờ tụi mình chạy cuống lên, chẳng hiểu đâu với đâu cả.

Nhận xét của Lan thật đúng. Ba người như bị lạc vào một hang động đầy ngõ ngách và vắng bóng người.

Ánh đèn lại được chiếu sáng, cả bọn lần đến một khúc đường sắt chia làm ba ngả. Phía trên đầu, những dây điện cao áp chằng chịt trên vòm đá. Việt thầm nghĩ: Không biết những dây điện này dùng để làm gì? Có còn được dùng nữa không? Mà sao có vẻ hoang vắng thế?

Khôi đứng trên đường rầy chợt lên tiếng :

- Tụi mình mạo hiểm vào đây cũng khá xa rồi. Có lẽ nên tìm lối chuồn ra thôi.

Việt đáp :

- Đã chắc gì tìm được lối mà ra chứ!

Bỗng có tiếng kim khí rít lên ken két, tiếp theo là tiếng rú đau đớn của Khôi :

- Ối cha! Chân tôi bị kẹt rồi. Chiếu đèn mau!

Lan rọi ánh đèn vào Khôi đang múa may trên đường sắt :

- Chết, sao thế?

Khôi rên rỉ;

- Chi không thấy một chân tôi bị kẹt vào đường rầy đó sao? Còn hỏi!

Lan vùng nói :

- Phải rồi, họ đổi "ghi". Hèn chi có tiếng kêu ken két vừa rồi.

Khôi giục :

- Hai người làm ơn kéo tôi ra với chứ!

Vừa nói Khôi vừa vùng vẫy cố rút chân ra khỏi đường sắt.

Việt kinh hoàng nghĩ đến trường hợp có người đã vướng chân vào đường ghi và bị cả một toa xe lửa xông đến cán nát thây. Lan luống cuống lai ánh đèn tìm một đòn bẫy, hy vọng dùng đòn bẫy ấy làm nhả hai mối sắt đang kẹp cứng chân Khôi.

Nhưng cả ba bỗng kêu lên kinh hãi.

Đường hầm vụt sáng.

Xa xa, có tiếng chuyển động ầm ầm của một đoàn xe đang tiến đến...

___________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG XIII
oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>