Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2016

CHƯƠNG III (PHẦN III)_BÍ MẬT DẦU LỬA


CHƯƠNG III

LẠI MỘT THỜI NGƯỜI TA

CUỒNG NHIỆT ĐI ĐÀO MỎ DẦU


Ông già đã đoán đúng. Dân làng nghe tin đại tá đã về, lại trả thù. Họ bất bình vì tụi vô lại ở đâu tự nhiên tới Titusville hy vọng làm giàu và làm cho họ thiệt thòi : người thì mất ngựa, người thì ruộng nương bị phá phách, kẻ thì đòi bồi thường hoặc vì sợ họ bị đánh đập, hoặc vì nhà cửa bị cướp bóc trong khi họ vắng mặt. Không ai là không kêu ca về tụi người mới tới và họ cho rằng đại tá chịu trách nhiệm về hết thảy những sự phá phách ấy.

Khi bọn họ tới trước cửa, ông Smith dang hai cánh tay, ra hiệu cho họ ngừng lại rồi nói:

- Tôi đoán rằng các bạn muốn nói chuyện với đại tá, phải không?

Họ ồn ào trả lời cùng một lúc. Ông già không nghe thấy gì hết, bảo họ:

- Các anh em cùng nói, làm sao tôi nghe được? Một người thay mặt các bạn khác rồi tiến lên nào.

Họ bàn tán với nhau, ào ào như ong vỡ tổ rồi một thằng tướng cao lớn, súng sáu dắt lưng, súng trường trong tay, tiến lên, nói:

- Chúng tôi biết rằng đại tá của ông đã về. Có nhiều người thấy ông ấy đi với những kẻ tùy tùng của ông ta. Vì ông ấy mà những kẻ lạ mặt lại xâm chiếm làng này. Các cửa tiệm trống rỗng : không còn rượu để uống, thức để ăn. Dù còn thì giá cũng vọt lên cao quá, không ai có tiền mua cả vì tụi ở châu thành lại đây, nặng túi, vung tiền ra mua hết. Dân làng chúng tôi chỉ còn cách chết đói thôi. Ông già cả, ông cũng thấy như chúng tôi chứ? Nếu không vãn cứu được tình cảnh ấy thì sẽ cơ cực tới nơi.

- Vậy anh em muốn gì?

- Muốn rằng đại tá phải bồi thường chúng tôi.

- Đại tá không còn một xu nào hết.

- Nếu vậy thì y phải vô khám. Chúng tôi lại để bắt y.

- Nếu ông ấy không chịu cho các anh em bắt?

- Chúng tôi sẽ dùng võ lực.

- Và nếu tôi cùng gia đình tôi bênh vực ông ấy?

- Thì ông và gia đình ông cũng bị chung một số phận với y. Nhưng tôi cho hay trước, nếu trong bọn tôi có người nào chết hoặc bị thương thì chúng tôi sẽ treo cổ cả bọn ông.

Ông già chưa kịp đáp, thì bị xô bắn ra xa vài thước, rồi đại tá hiện ra, cứng cỏi, uy nghi, hai tay nắm hai cây súng sáu, mắt sáng ngời, hét:

- Ai muốn bắt tôi và treo cổ tôi? Ai?

Oai phong của ông lẫm liệt quá, đến nỗi những kẻ liến thoắng nhất, giận dữ nhất cũng phải im bặt.

Nhưng sự hoảng hốt của họ tiêu tan ngay và một vài người biểu tình can đảm lại. Có tiếng la:

- Bắt lấy nó! Tóm lấy nó!

Không nói nửa lời, đại tá thủng thẳng lật cò súng lên, nói:

- Kẻ nào tiến một bước thì bị một viên đạn vào sọ. Hiểu không… Nghe đây.

Ai nấy đều yên lặng.

- Hết thảy các người đều hèn nhát hoặc ngu muội. Tôi cho rằng thái độ của các người đều vừa hèn nhát vừa ngu muội nữa. Các người phàn nàn rằng bọn lạ mặt tới đây ư? Đó chẳng phải là một dấu hiệu chỉ rằng làng của các người sắp thịnh vượng ư? Đất của các người có mỏ dầu, phong phú mà các người phàn nàn, có phải là các người điên không? Sợ cảnh cơ cực ư? Đất có phụ ai đâu? Đáng lẽ cày khu khu một công bắp, thì các người cày mười công, trăm công đi, nếu không đủ thì ngàn công đi. Các người nói : nhưng ngay bây giờ đây, tiệm tạp hóa trống trơn, quán rượu cũng vậy. Này tôi biểu cho mà hay : đó là một cơ hội tốt nó bắt buộc các người làm giàu đó.

Người thay mặt bọn biểu tình lên tiếng hỏi:

- Sao vậy?

- Thì các người họp nhau lại thành đoàn ra Pittsburgh cất hàng về đây bán lại cho tụi kiếm dầu lửa. Các người sẽ lời vô cùng. Còn những người ở nhà thì cày ruộng.

Có kẻ nói:

- Họ phá rừng của chúng tôi.

- Rừng ư? Ở đâu mà không có rừng? Chỉ có tụi Da đỏ mới ham rừng thôi. Các người muốn tự ví với bọn Mọi rợ sao? Họ đốn cây của các người, các người tiếc của thì sao không dùng cây ấy mà cất nhà? Cất khách sạn đi nào. Tụi họ ở xa tới, cần có chỗ ở tạm trong vài tháng. Kẻ nào có phòng cho mướn sẽ giàu lớn.

Không một người nào trong làng nghĩ tới điều ấy hết. Một người đáp:

- Nói vậy cũng phải, nhưng tụi vô lại đó làm loạn cả làng lên.

- Thì giữ gìn trật tự. Đặt ra sở Công an, ra người làm hiến binh, lập một binh đội nho nhỏ. Nếu các người muốn, tôi sẽ cầm đầu đội quân ấy và nhờ Trời phù hộ, tôi có thể thề với các người rằng tôi sẽ lập lại trật tự rất mau.

Có kẻ la:

- Đại tá muôn năm!

Một người khác gào:

- Đại tá muôn năm!

Rồi cả bọn đồng thanh reo lên. Đại tá không dùng gì tới hai cây súng sáu nữa. Bọn biểu tình muốn kiệu ông lên để hoan hô. Ông từ chối, gọi Hoggan, Kent và Sam:

- Các anh đi theo tôi, coi các người đào dầu.

Hoggan và Kent muốn đeo súng trường lên vai. Ông ngăn cản rồi nói:

- Vô ích. Các anh sẽ thấy tụi họ không hung dữ như người ta nói đâu. Phải dạy cho họ cách làm việc, khuyên bảo họ. Không nên coi họ như kẻ thù mà nên đãi họ như những người có công với sự thịnh vượng của miền này. Họ cũng là những người khẩn hoang như dân làng vậy. Nhờ họ mà Titusville sau này sẽ thành một đô thị lớn. Người cũ và người mới phải hiểu lẫn nau, hòa hợp với nhau. Khi họ biết rằng được đi lại thong thả trong làng, không phải mang theo súng lục hoặc súng trường thì mọi sự được yên hết.

Ba người ra đi.

Đại tá lần lượt vào thăm hết các trại mới cất của bọn người đi tìm dầu. gặp ai ông cũng khuyến khích ; chỉ cho người này rằng họ không biết lựa chỗ, đào sẽ không tới lớp dầu, cho người khác hay rằng dầu ở cả trăm thước dưới mặt đất, dùng leng và cuốc thì sẽ thất bại.

Tụi họ từ trước tới nay bị dân làng đe dọa và hành hung, cho nên ngạc nhiên lắm khi tấy đại tá tử tế như vậy. Giữa họ và đại tá có tình thương yêu chân thật liền.

Ngày qua tháng lại. Số người tìm dầu tới mỗi ngày một đông. Có người mang lại những tin tức rất mới mẻ. Báo chí ở Nữu Ước thuật lại những phát minh kỳ dị. Một người đã chế được một hỏa lò đốt bằng hơi dầu lửa và mọi người tin rằng đời sống sau này sẽ nhờ sự phát minh ấy mà được thêm phần tiện nghi.

*

Một buổi sáng, mọi người hổn hển chạy lại nhà ông Smith, đòi gặp mặt đại tá. Đại tá ra:

- Có gì vậy?

- Thưa đại tá, tôi đã kiếm được dầu.

- Hay lắm!

- Ở ngay gần mặt đất : đào không đầy 13 thước. Tôi giàu rồi.

Trong thời gian ấy, Sam vẫn tiếp tục lấy dầu ở giếng bên bờ Suối Dầu. Một ngày kia chàng sẽ lại đào cánh Đồng Lửa ; bây giờ thì một giếng đó cũng đủ rồi mà giếng có vẻ còn lâu mới cạn.

Chàng sắp cưới Marjorie. Cả nhà vui vẻ.

Đúng như lời tiên đoán của đại tá, vài năm sau Titusville thành một đô thị đẹp đẽ có sáu vạn dân cư.

Có nhiều người thất vọng, không kiếm được mỏ dầu, thành tử đào giếng rồi bỏ. Nhưng trái lại, cũng có nhiều người gây nổi một sản nghiệp đồ sộ. Cả thế giới cần dùng dầu lửa. Những kẻ táo bạo hơn, lại miền Texas và Californie để kiếm dầu. Họ cũng thành công rực rỡ không ai ngờ.

Sam và Marjorie đã kết hôn với nhau. Ông già Smith đã quy tiên, còn đại tá được cái vui thấy những lời tiên đoán của ông thực hành hết, và mất sau ông Smith ít lâu.

Những người gặp vận rủi, không kiếm được dầu thì làm công cho những bạn may mắn hơn.

Đã đành rằng không khỏi có ít nhiều bi kịch, nhưng thung lũng Suối Dầu, sau khi bị người bốn phương lại phá rừng, đào đất, như sau một tai biến ghê gớm, đã được bình tĩnh, yên ổn trở lại.

Đô thị Titusville đẹp đẽ, không còn náo nhiệt như hồi xưa nữa. Người ta còn nhớ đại tá và đã dựng một tượng kỷ niệm ông ở giữa châu thành. Khách nhàn du còn được thấy vẻ mặt uy nghi và quả quyết của ông.

Châu thành Dầu lửa ở ngã ba dòng Suối Dầu và con sông Alleghany, cách Pittsburgh không bao xa, mới là nơi có những nhà máy lọc dầu cho hết thảy miền ấy : đường phố đầy những khói đen và dầu hắc. Nhưng ở vùng chung quanh, không còn giếng dầu nào quan trọng cả. Người ta đã cuồng nhiệt ùa nhau lại những đất mới, nhất là miền Texas và Californie.


HẾT

CHƯƠNG II (PHẦN III)_BÍ MẬT DẦU LỬA


CHƯƠNG II

NHỮNG SỰ NGẠC NHIÊN CỦA ĐẠI TÁ


Trên con đường từ Pittsburgh tới Titusville, đại tá, luôn luôn có Hoggan và Kent theo sau – vì miền ấy vẫn còn nguy hiểm – suy nghĩ về sự ngạc nhiên thứ nhất của ông ở Pittsburgh. Việc xảy ra tại đó đáng làm cho óc tưởng tượng phong phú của ông bị kích thích tới tận bây giờ.

Khi ông mới tới châu thành lớn ấy, ông nhận thấy ngay rằng kiểu đèn của dược sư Kier thịnh hành đặc biệt. Người nào cũng muốn có một cây như vậy. Kỹ nghệ làm đèn thật là phồn thịnh và dược sư bán dầu chạy hơn hồi trước nhiều lắm, hồi mà ông chỉ dùng nó làm phương thuốc thị bá chứng.

Thấy vậy, đại tá rất hăng hái. Mấy hôm trước, ông thất vọng không biết làm sao cho thiên hạ thấy những ích lợi của sự phát minh của ông. Bây giờ thì ông khỏi lo nữa. Ông đã có chứng cớ rằng công việc của ông không phải là vô ích.

Khi mọi người đều có kiểu đèn ấy thì thiên hạ cần biết bao nhiêu là dầu! Dầu trong giếng vẫn còn phun lên, có lẽ còn lâu mới cạn, nhưng bấy nhiêu chắc cũng chưa đủ làm thỏa mãn những sự đòi hỏi của khắp năm châu. Mà số dầu dự trữ của dược sư Kier thì đã gần hết. Cho nên ông tràn trề hy vọng, xin chính phủ cho ông làm chủ giếng dầu ông đã đào và cho Sam quyền khai thác cánh Đồng Lửa.

Ông nhớ lại những nụ cười chế nhạo, mỉa mai của các nhà chức trách, khi ông lại khai báo với họ. Nhưng họ không làm khó ông chút nào hết, ông được vừa ý liền.

Các công chức có bổn phận ghi vô sổ những tờ khai của ông bảo nhau:

- Thằng cha đó khùng, nhưng không phải hạng điên dữ tợn, nguy hiểm. Nó xin cái gì thì cho phắt đi, có hại gì cho ai đâu!

Và mọi việc thu xếp xong ngay.

Điều mà đại tá không biết là john River tới Pittsburgh vài ngày trước ông. Y đã quên từ lâu vụ gây lộn với ông. Ông đã thường tiền con ngựa cho y ; sau, Hoggan trả ngựa lại mà ông cũng rộng rãi, không đòi lại số tiền. Cho nên y hết thù oán ông. Hơn nữa, y cũng như những dân khác trong làng, thấy đại tá thành công mà coi ông là một vị anh hùng và cho rằng ông đã làm vẻ vang cho xứ sở của họ. Ai cũng được lây vinh dự đó và y định khoe là bạn thân của Edwin Drake.

Y có việc gấp phải ra Pittsburgh, nhưng hạng người như y, chưa tới tỉnh là lo vô la cà trong quán rượu liền, cho nên y quen hết thảy những người khẩn hoang. Bọn này, trước khi về miền tây, thường lại tửu quán để nhậu nhẹt tiêu sầu. Nhiều khi họ gây lộn với nhau ; đạn dược mua để săn hươu nai thì họ đem dùng để hạ sát những bạn gặp gỡ trên đoạn đường phiêu lưu của họ.

River rất đỗi ngạc nhiên. Y tưởng danh đại tá ít nhất cũng được vang lừng như danh của Tổng thống Huê-kỳ, nhưng khi nói đến tên ông thì chẳng ma nào biết hết.

Giấu kín nỗi buồn bực, thất vọng, y nói:

- À, các bạn không biết tên Edwin Drake ư? Rồi đây, các bạn sẽ được nghe tên ấy. Tại Titusville, nơi tôi ở, người ta nói con người đó sẽ làm xáo lộn cả thế giới nhờ một sự phát minh mới kiếm được.

- Y đã phát minh cái gì, con quái vật đó?

- Dầu!

- Hừ! Dầu!

Ngỡ gì! Dầu! Quý báu gì thứ ấy đối với tụi hũ chìm này! Nhưng tin ấy cũng lan ra khắp tỉnh. Người ta tự nhủ kiếm được dầu ư? Tốt lắm! Những cây đèn của dược sư Kier thật tiện lợi mà ông ta gần hết dầu bán rồi. Khi nhà nào cũng có đèn, thì phải tìm được nhiều dầu, nếu không đèn sẽ hóa ra vô ích.

John River vẫn tiếp tục làm quảng cáo không công cho đại tá.

- Ông Drake đã làm cho dầu vọt từ dưới đất lên. Phải. Chính mắt tôi đã trông thấy vòi dầu phun lên cao lắm rồi chảy xuống thành một dòng suối ở trên đất. Một dòng suối không bao giờ cạn. Nó chảy suốt ngày suốt đêm. Khi tôi đi, nó vẫn còn chảy.

Và mọi người tự hỏi : “Thật vậy không?”

*

Đại tá vừa đi vừa suy nghĩ : ông vẫn chưa hết ngạc nhiên.

Hoggan đi trước để dẫn đường, thỉnh thoảng thấy vết của nhiều chỗ cắm trại và đốt lửa. Có từng bọn, nhiều người hoặc ít, đã ngừng lại ở những nơi ấy, ăn, ngủ rồi lại tiếp tục đi.

Đại tá nói:

- Chúng ta có vẻ đi theo gót một bọn di cư. Họ đi đâu vậy? Có chuyện chi vậy?

- Thưa đại tá, hình như họ cùng đi về phía Titusville. Tôi dám cá rằng khi chúng ta về tới nơi thì Titusville không còn là một làng nhỏ nữa mà đã thành một đô thị lớn.

- Họ tới Titusville làm gì vậy?

Nhưng đại tá vẫn thủng thẳng đi. Vốn táo bạo và có tài mạo hiểm, ông mới hoài bão nhiều dự định khác. Ông đã không nghĩ tới giếng dầu ở bên bờ Suối Dầu nữa. Ông đã đoán đúng rằng nơi ấy có dầu. Ông tự nhủ ở những nơi khác, như miền Texas, miền Oklahoma chẳng hạn, có lẽ cũng có dầu và ông tính đến những miền ấy để tìm thử.

Ông chỉ đưa tay ra là hốt được tiền, nhưng ông có cần gì của cải. Ông là một nhà phát minh, ông làm việc không vì tiền.

Họ đi suốt đêm và sáng sớm tới Titusville, họ ngạc nhiên thấy cảnh chung quanh làng náo nhiệt lạ thường.

Trong có ít tháng mà dân số tăng lên vĩ đại. Đại tá hơi lo lắng bảo:

- Về ngay nhà ông Smith xem sao.

Ông già, Marjorie và Sam đương ngồi với nhau, vẻ mặt ủ rũ ; nhưng họ tươi tỉnh hẳn lên khi đại tá bước chân vô.

Ông hỏi:

- Trời ơi! Có chuyện gì vậy? Mới cách không đầy ba tháng mà cái làng dở sống dở chết này đã biến thành một nhà máy lớn rồi.

Ông già đáp:

- Ông đã nói sẽ làm xáo lộn cả thế giới. Ông đã thành công một phần rồi đấy. Ông đã làm xáo lộn làng Titusville này trước hết. Ông thấy không?

Đại tá gãi cằm, suy nghĩ:

- Nếu tôi không lầm thì họ lại đây để kiếm dầu, phải không?

- Phải. Ngày nào làn sóng người cũng cuồn cuộn tới, bất tuyệt. Đủ các hạng người. Mà họ chẳng hiểu chút gì hết. Như ông, ông biết rằng phải đào sâu mới được, còn họ thì có kẻ mang leng và cuốc tới đây, hy vọng thành công với những dụng cụ thô sơ ấy.

Ai nấy yên lặng một hồi lâu. Ông già buồn bực lắm ngửng đầu lên nói:

- Toàn là quân vô lại, đồ du côn, cướp đường, trai tứ chiếng, giang hồ. Đó, sự phát minh của đại tá đã lôi kéo những quân như vậy lại đây.

Ông Drake hiểu giọng trách móc ấy, đáp:

- Ai cho họ hay sự phát minh của tôi vậy? Nếu quân đó vô lại thì phải cho chúng biết phép tắc chứ? Tôi đã trị được những đồ du côn hơn vậy nữa.

Marjorie cười lớn, mỉa mai:

- Thưa đại tá, tụi nó đông lắm. Đại tá làm gì được họ? Lại thêm dân làng đương đổ quạu với đại tá. Họ phản kháng, nói nếu đại tá không đào được dầu lửa, thì Titusville có đâu thành sào huyệt của tụi ăn cướp như bây giờ.

Đại tá lúng túng một lúc, nhìn hết người nọ tới người kia, ngó Hoggan và Kent một hồi lâu rồi nói:

- Tôi đã có ý muốn bỏ giếng dầu đó lại cho bà con, còn tôi, tôi sẽ đi về miền Oklahoma với hai bạn trung tín của tôi. Như vậy phải hơn. Nhưng vì ai cũng đổ lỗi cho tôi hết, ai cũng bỏ tôi hết, thì càng hay, tôi sẽ ở lại đây, đương đầu với tất cả những kẻ điên.

Rồi ông ngó Sam.

Chàng cảm động quá, giọng run run:

- Thưa đại tá, nếu ông đi Oklahoma thì tôi quyết đi theo ông.

Đại tá mỉm cười:

- Thế còn sản nghiệp của em? Còn ý trung nhân của em? Chính phủ đã cho phép em làm chủ cánh Đồng Lửa, chứng thư đây. Chịu khó đào đi và sẽ thấy dầu. Em và Marjorie sẽ giàu.

Ông Smith hỏi:

- Bao giờ ông đi?

- Tôi không đi. Tôi cần phải mở mắt cho dân Titusville này và cho tụi vô lại mà ông nói vào khuôn phép đã.

Ông già khẩn khoản:

- Đi nơi khác thì hơn. Nếu ông chịu, thì chúng ta thu xếp hành lý ngay từ bây giờ.

- Ông già này nói cái gì vậy? Ông đuổi tôi đi khỏi nhà ông, phải không?

Ông Smith nhún vai, giọng bình tĩnh:

- Ông vô lý quá. Tôi bảo “chúng ta thu xếp hành lý” mà. Nếu ông đi thì chúng tôi cũng đi với ông. Phải vậy không, Marjorie? Phải vậy không Sam?

- Tôi hiểu rồi : bà con sợ mà! Sợ dân làng này hại bà con mà!

Ông già thình lình nổi giận, la:

- Lão mà sợ ai thì trời đánh lão đi! May phước cho ông, ông là bạn của lão và được lão mến, chứ không thì Smith này đã làm cho ông không dám hó hé, nói càn nói bậy nữa rồi.

- Thôi, xin ông, đừng quạu nữa. Tôi không muốn ông vì tôi mà phải bỏ nhà bỏ cửa đâu. Sản nghiệp của anh Sam ở đây. Nếu cứ theo tôi mà lang thang suốt đời như con lạc đà qua sa mạc thì làm sao khá được? Giữ con ông ở lại, cưới vợ cho anh ấy và cứ tiếp tục vui vẻ sống.

Về phía làng, văng vẳng có tiếng ồn ào. Hoggan đứng gần cửa sổ nhất, ngả người ra ngoài ngó.

Tính vốn thản nhiên, chàng không thấy gì đáng lo, quay mặt vào, bình tĩnh nói:

- Nếu tôi không lầm thì dân chúng biểu tình đả đảo chúng ta. Có khoảng trăm người cầm khí giói tiến về đây.

Ông già lại cửa sổ:

- Đúng vậy. Tụi họ hay tin ông đã về, muốn trả thù ông vì sự phát minh của ông.

Đại tá nói:

- Để coi.

Tiếng la hét mỗi lúc một gần. Đại tá muốn ra ngoài, đã tiến lại phía cửa, nhưng ông Smith nắm tay áo, kéo lại:

- Nhất là ông, ông không nên ló mặt ra. Tôi biết tụi họ, để tôi nói với họ.

Đồng thời ông ra hiệu cho Hoggan, Kent và Sam giữ chặt lấy đại tá tính tình nóng như lửa. Rồi ông già ra đứng ở bực cửa, bình tĩnh đợi tụi biểu tình.

__________________________________________________________________________

Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2016

CHƯƠNG I (PHẦN III)_BÍ MẬT DẦU LỬA


PHẦN THỨ BA


CHƯƠNG I

CÓ MỘT THỜI NGƯỜI TA

CUỒNG NHIỆT ĐI ĐÃI VÀNG


Vài ngày sau đại tá rất lúng túng. Dầu cứ do miệng giếng phun lên hoài mà đã đầy cả ngàn thùng đủ thứ đủ cỡ, xếp chật cả nhà và chung quanh nhà, lại phải cất thêm một cái kho nữa để che những thùng không có nắp.

Ông đã có những dự định lạ lùng nhất, hy vọng xáo lộn thế giới. Có thể được lắm. Nhưng làm sao cho thiên hạ biết được sự phát minh của ông ích lợi ra sao?

Chế những cây đèn như dược sư Kier, rồi đề khởi với vạn quốc đốt đèn bằng dầu lửa ư? Như vậy cần nhiều vốn lắm. Mà đại tá không còn một xu ; chẳng những vậy, còn thiếu tiền công của Sam nữa mà chàng này thì đương mơ mộng những đống vàng.

Đã đành chàng không nghĩ tới số vài Mỹ kim mà đại tá còn thiếu chàng ; số ấy có thấm vào đâu, so với sản nghiệp vĩ đại mà đại tá đã hứa? Bây giờ chàng sắp có sản nghiệp ấy vì đại tá đã không lầm, kiếm ra được dầu lửa mà khắp thế giới đương cần dùng. Nhưng làm sao cho có nhiều người biết mà mua? Đại tá có cảm tưởng như mình tự lừa dối mình và lừa dối chàng, làm cho chàng thất vọng nữa, cho nên ông buồn rầu.

Các bạn ông thấy ngay sự thay đổi ấy. Ông Smith gạn hỏi, đại tá cảm động, cởi lòng với ông.

Ông Smith suy nghĩ suốt một ngày, không hở răng với Sam và cả Marjorie nữa về nỗi lo của đại tá, nhưng đến tối, đợi lúc vắng người, ông nói với ông Drake:

- Cách đây non mười năm, tôi đã được biết một cảnh thiên hạ cuồng nhiệt đi đãi vàng. Chắc ông còn nhớ và tôi khỏi phải nhắc lại cuộc mạo hiểm lạ lùng ấy chứ?

- Tôi còn nhớ, nhưng ông cứ chỉ bảo cho.

- Đó là tất cả đời của Johann Suter (1), vị Hoàng đế Californie.

- Tôi biết ông ta. Ông ta mới mất. Có hồi giàu nhất thế giới mà rồi khi gần chết, phải đi ăn mày trước cửa nhà thờ Cựu Kim Sơn (2).

- Tôi chỉ biết đoạn đầu và đoạn gần cuối câu chuyện của ông ấy. Ông ta gặp những người đi săn ở miền tây về. Hết thảy họ đều kể rằng ở bên kia dãy núi lấp lánh, có một cảnh Thiên đường : đất phì nhiêu ngoài sức tưởng tượng. Lúa không trồng cũng mọc, trái cây thì lớn dị thường. Ông bèn tìm đường tới miền ấy và kiếm được lối “Đại đạo”. Quả như lời thiên hạ đồn, không có miền nào ở địa cầu này mà phì nhiêu bằng. Ông trở về nhà, mướn hết thảy những kẻ vô nghề nghiệp và bọn Da đỏ rồi đưa họ qua Californie. Ông kiên nhẫn làm việc, cực nhọc trong vài năm, thành người giàu nhất thế giới. Mới đầu người ta gọi ông là đại úy Suter, sau gọi là đại tướng Suter. Chính phủ ký giấy cho phép ông khai phá miền ấy. Mọi việc tiến hành khả quan và ông tính đưa vợ ở tại quê hương ông, bên Thụy Sĩ, lại đó ở thì một hôm, một người ở của ông thấy dưới lòng sông Sacramento có một cục vàng thiên nhiên. Lúc ấy người ta mới hay sông có vàng. Thật như trong một chuyện thần tiên. Người ta bỏ hết cả ruộng nương, công việc để đãi cát mò vàng, mặc dầu Suter nghiêm cấm. Thế là cả Suter lẫn những người làm việc với ông đều sạt nghiệp vì họ kiếm được ít vàng quá, không đủ sống. Tụi khẩn hoang tới đốt trại của Suter để cướp những khu đất có vàng. Ông đành đưa đơn kiện, nhưng những vụ như vậy kéo dài hết năm này đến năm khác, sau ông phải đi ăn mày và chết trong cảnh cơ hàn.

Đại tá hỏi:

- Vậy ông muốn khuyên tôi điều chi?

- Tôi biết thêm rằng khi người ta thấy xứ Californie có vàng thì người ta đổ xô nhau lại. Vịnh Cựu Kim Sơn chật những tàu từ mọi xứ tới mà thủy thủ thì trốn hết. Tàu vừa ghé bến, khi một thủy thủ hay tin có mỏ vàng, loan báo cho bạn bè hay, tức thì họ trốn lên bờ hết. Không đầy sáu tháng có hai ngàn chiếc tàu vắng tanh đậu đầy trong vịnh. Tàu nào tới sau đành phải bỏ neo ở ngoài xa rồi người ta chuyền qua những tàu khác bỏ không để vô bờ. Sau này những tàu ấy dùng để cất châu thành Cựu Kim Sơn : phải, cất bằng ván, gỗ lấy ở dưới tàu. Vậy ta thấy hồi ấy đủ các hạng người, đủ các giống người đổ xô nhau về miền Californie ra sao. Người ta phải đặt vội nhiều đạo luật sơ sài và lập các tòa án vì có nhiều vụ giết người quá : họ xâm chiếm đất của người hàng xóm, hy vọng kiếm được nhiều vàng hơn trong khu đất của mình. Cho nên phải đặt lệ rằng kẻ nào chiếm đất và đi khai báo trước nhất thì sẽ được làm chủ miếng đất. (Vì vậy người ta mới gọi những đất ấy là “claim” do động từ reclaim là kêu nài, yêu cầu mà ra) Vậy, thưa đại tá, tôi nghĩ rằng sự phát minh của đại tá cũng sẽ làm cho một số cặn bã của xã hội ùa lại Titusville này như hồi trước đã ùa lại Californie. Cho nên việc thứ nhất mà ông phải làm, để sau này khỏi bị người ta cướp công khó nhọc của ông, là xin phép chính phủ khai phá khu đất trên bờ Suối Dầu này. Vì ông, ông kiếm ra được dầu lửa mặc dầu, sau này vẫn có kẻ bất lương hãm hại, lừa gạt ông để cướp giựt của ông. Ông đã biết rằng ở miền này, mạng con người rẻ lắm.

- Ông nói thật chí lý. Vậy tôi phải kíp đi Pittsburgh làm tờ khai mới được. Nhưng tôi còn ngại tụi Da đỏ, chúng sẽ nghĩ ra sao? Chúng có để yên cho tôi ở trên bờ Suối Dầu này không?

- Tại sao lại không?

Đại tá ngồi một hồi lâu, vẻ mơ màng, sau cùng ông nói:

- Tôi nhớ lời của Kaghamisham nói về cánh Đồng Lửa.

- Thì sao?

- Tôi đã tính lại nơi đó coi. Ngày mai tôi sẽ đi với anh Sam. Có điều gì khó hiểu trong chuyện ấy, ông thấy không?

- Chắc chắn vậy và thằng Sam sẽ vui lòng đi với ông.

*

Đại tá và Sam tới cánh Đồng Lửa vào giữa trưa. Họ có thể ngỡ là một ảo ảnh. Hàng trăm ngàn ma trơi chạy giỡn trên mặt đất, ánh sáng mờ mờ vì bị nhật quang át đi, không còn lấp lánh trên nền trời bằng nhung đen của ban đêm.

Những ánh sáng ấy, nói cho đúng, những ngọn lửa nhỏ ấy, chập chờn, tắt rồi bùng lại. Đại tá mới đầu cho là những ma trơi. Ông say mê ngắm cảnh có phần hùng vĩ ấy vì ông vốn yêu tất cả những cái lạ lùng của Hóa công. Hai người ngắm chán rồi đi về. Sắp tới khu rừng thì đại tá suy nghĩ:

- Ma trơi là cái gì?

Rồi ông ngừng bước.

Sam hỏi:

- Đại tá có điều chi vậy?

- Tôi là một thằng ngu.

Sam ngạc nhiên nhìn bạn đồng hành.

- Phải. Thật là già mà ngu. Anh biết ở đâu có ma trơi không?

- Dạ, tôi biết. Ở trên bãi tha ma và trên mặt ao tù.

- Và anh biết ma trơi do đâu mà có không?

- Không.

- Là do hơi. Thây ma thối nát ra, thành hơi bốc lên. Cỏ thối dưới ao tù cũng sinh ra những hơi bắt lửa được. Vậy ma trơi là một thứ hơi cháy trên mặt đất.

Sam nghi ngờ:

- Nhưng làm sao thây ma chôn dưới sâu mà lại bốc hơi lên mặt đất được?

- Có gì đâu, em. Hơi đó len lỏi qua những lớp đất, hóa ra trong sạch hơn, rồi tới mặt đất, gặp nhiệt độ cao hơn, cho nên cháy.

- Vậy Đại tá cho rằng cánh Đồng Lửa trước kia là một bãi tha ma Da đỏ? Có thể được. Nhưng tụi Cherakee sống ở đây từ lâu không có tục chôn người chết. Chúng lấy da thú bọc xác người rồi đặt trên một mỏm đá, cho mặt trời làm khô đét thây ma lại.

Đại tá cả cười:

- Để tôi giảng thêm cho, chịu khó nghe kỹ : tôi không tin cánh Đồng Lửa hồi xưa là một bãi tha ma Da đỏ, vì nhiều lẽ mà lẽ thứ nhất là cánh đồng mênh mông. Da đỏ chết đâu mà nhiều quá như vậy được, trừ phi họ dùng nơi đó làm bãi tha ma từ đời thượng cổ tới nay thì không kể. Nhưng dù vậy nữa thì cũng còn lẽ thứ nhì là những thây ấy chôn lâu quá, chỉ còn xương tất nhiên không còn bốc hơi lâu được nữa.

- Đúng thế.

- Vậy hơi đó tức là hơi dầu lửa. Không phải thì cứ chặt đầu tôi đi.

Sam la:

- Cũng dầu lửa nữa!

- Chính vậy mà lớp dầu lửa ở đây gần mặt đất hơn ở bờ Suối Dầu nhiều.

- Biết bao nhiêu của cải!

Đại tá phá lên cười.

- Của cải ấy về em đó. Kaghamisham đã biếu em rồi. Tôi sẽ đi Pittsburgh để xin phép cho em khai thác khu này và khi tôi trở về…

- Khi trở về?

- Khi tôi trở về thì em sẽ cưới Marjorie.


-------------------------
(1) Chuyện này cũng rất ly kỳ, Blaise Cendrars đã chép lại, nếu có dịp chúng tôi sẽ dịch.

(2) Tiếng Mỹ là San Francisco. Chính vì tại đó có mỏ vàng, sau không ai khai phá nữa, cho nên mới có tên Cựu Kim Sơn.

__________________________________________________________________________

CHƯƠNG VII (PHẦN II)_BÍ MẬT DẦU LỬA


CHƯƠNG VII

DẦU LỬA


Khi đã kể cho các bạn nghe cuộc đàm thoại với Kaghmisham, Sam thú thật không hiểu tên Da đỏ có những dự định gì.

Ông già Smith cũng nhận:

- Thật vậy, không biết nó muốn gì? Nó đã đoán được điều gì? Nếu không phải vì lòng trả ơn thằng Sam thì tại sao nó lại rộng rãi như vậy? Cánh Đồng Lửa ấy, tôi biết từ lâu. Tụi Da đỏ cho nơi đó là thiêng liêng. Mà tại sao nó lại đem cho chúng ta một cách dễ dàng như vậy?

Đại tá hỏi:

- Cánh Đồng Lửa đó là cái gì vậy?

- Hoggan đã nói với ông. Trên một khu mênh mông vừa đất vừa đá có những ngọn lửa bốc lên. Đi ngang qua được, nhưng tất nhiên là thế nào cũng cháy da! Người ta cứ tưởng lầm rằng tụi Da đỏ sợ cánh đồng ấy lắm. Nhưng không. Từ hồi nào tới nay, tụi nó quen rồi. Chúng tưởng tượng là linh hồn các chiến sĩ anh hùng đã đốt cánh đồng ấy, có vậy thôi. Thật kỳ dị.

Đại tá nói:

- Kỳ dị! Nhưng có điều này là chúng đã cho phép ta lại cắm trại thì đi lại đó chắc không sao. Tôi muốn lại coi. Anh Sam theo tôi nhé?

- Dạ.

Câu chuyện ngừng ở đây.

*

Mặc dầu vắng sam, họ vẫn làm việc. Ống dò đã xuống tới 231 thước. Đại tá muốn đào một giếng khác cách nơi đó vài thước, nhưng ông Smith nhất định tiếp tục đào cho tới khi nào không xuống được nữa mới thôi.

Mà ống đó cũng đã gần xuống hết cái hạn của nó rồi. Đại tá nghĩ ống chỉ xuống được chừng mười thước nữa, nếu không thấy dầu, thì sẽ đào giếng khác ; như vậy ông Smith sẽ không cằn nhằn. Bất quá đại tá chỉ còn phải đợi vài ngày nữa là cùng.

Hôm sau, khi mọi người khởi sự, đại tá bảo trước khi đào giếng mới, ông phải đi thăm cánh Đồng Lửa.

Ông già Smith phát giận:

- Ông hãy làm xong công việc đương làm đi đã nào!

- Thì chính vậy. Khi không xuống nữa, sẽ phải đổi chỗ trước khi rời đi nơi khác, tôi muốn biết cánh Đồng Lửa ra sao. Vậy các bạn làm việc đi và mau mau một chút nhé.

Và cái máy lại đều đều, không ngừng, kêu : Lắc cắc, lắc cắc…

Tới trưa, ông già đòi nghỉ.

Đại tá đáp, giọng càu nhàu:

- Ông đi ăn đi, để tôi quay cho. Ông không thấy rằng ăn uống mất thì giờ quá ư?

- Ông muốn làm sao mặc ông. Nhưng ông biết rồi chứ, không ăn uống đàng hoàng thì sẽ đau, phải nghỉ, và như vậy mới đau dữ đa!

- Ông về ăn đi, bảo cô Marjorie để phần tôi. Khi ông ra tôi sẽ về.

Bữa đó, ai nấy đều ăn vội để ra thay phiên đại tá. Khi hai cha con anh Sam tới máy, giục đại tá về ăn, thì thấy lưỡi đào xuống tới 232 thước rưỡi.

Đại tá đi rồi, ông già càu nhàu:

- Ông điên : một mình mà làm gấp hai người khác. Cứ cái đà ấy thì chịu lâu sao nổi? Thôi, chúng ta bắt tay vào việc đi.

Ông già quay máy. Sam cho mỡ vào các bánh xe có răng rồi lại giúp cha.

Nắng như thiêu. Hoggan và Kent chưa ra. Buổi sáng, bị Đại tá thúc giục, họ đã gắng quá sức của họ và phải nghỉ ngơi một lúc rồi mới ra thay hai cha con chàng Sam được.

Ông già quen nặng nhọc từ hồi nhỏ, làm đua với con ; nhưng dù bền sức và chịu khó tới đâu thì ông cũng phải thua chàng trai trẻ và đưa cán quay cho sam.

Ông thấy đau thắt ngang lưng. Mồ hôi rỏ giọt, ở trán đầy những bụi xám. Trong khi ông đưa tay áo lên lau mồ hôi mặt, Sam quay máy và thấy máy xuống nhẹ hơn thường ngày, dễ dàng lắm, như gặp đất mềm vậy.

Chàng ngờ đó chỉ là một ảo tưởng, nên không cho cha hay. Ông già cầm bình rượu tu. Thình lình máy quay nhẹ bổng. Sam ngừng lại.

Có cái gì hư chăng?

Chàng đi vòng quanh xem xét ; không có chi lạ hết.

Chàng lại tiếp tục quay.

Không. Không phải chàng mê ngủ mà! Rõ ràng không cần quay mà lưỡi đào cũng xuống. Chàng kêu:

- Ba!

Ông già làm thinh, không ngoảnh lại.

Chàng lại vặn máy, cán quay tự nhiên quay ba bốn vòng.

Chàng nghĩ:

- Chắc lưỡi đào gãy rồi.

Chàng xem xét máy một lần nữa. Thì lạ chưa! Có mùi băng phiến nồng nặc ở dưới giếng đưa lên. Chàng cúi xuống để hít. Một luồng hơi độc phì vào mặt chàng, chàng vừa lùi lại một bước thì một thứ nước đen và nhờn vọt lên khỏi mặt đất.

Chàng kêu vang lên:

- Dầu! Dầu! Ba! Dầu!

Ông già ngoảnh lại, sợ con ông thình lình hóa điên. Nhưng ông thấy một tia nước ở giếng đưa lên, thành một suối nhỏ, tràn trên mặt đất và làm dơ hết cả các bánh xe có răng.

Ông kêu thất thanh:

- Dầu lửa!

Quả là dầu lửa. Nhưng họ đã mong lâu quá, đã gắng sức, hy sinh nhiều quá, cho nên lần này thấy kết quả, họ ngạc nhiên tới nỗi không tin là dầu lửa thật.

Ông già vốc dầu đương chảy thành suối rồi đưa hai tay lên mũi ngửi. Mắt ông sáng lên một cách kỳ dị, còn Sam thì cảm động quá, tái mặt đi, lảo đảo, tim đập thình thình.

- Phải cho đại tá hay.

Nhưng mắt chàng không thể rời vũng dầu đương loang trên mặt đất.

Ông già nắm tay áo chàng, lắc mạnh, la:

- Chạy về cho đại tá hay.

Lúc ấy chàng mới như tỉnh mộng, đáp:

- Con đi đây.

Chàng vừa chạy vừa gào:

- Đại tá! Dầu! Chúng ta đã thắng. Đại tá lại coi, mau! Dầu đương chảy.

Ông Drake miệng đương nhai, Hoggan, Marjorie và Kent, cả bốn người cùng hiện ra ở bực cửa.

Marjorie làm ra vẻ tự chủ được, hỏi:

- Anh điên sao đó?

Nhưng Sam không đáp, chỉ kêu, một tay chỉ về phía máy:

- Dầu! Dầu! Dầu!

Rồi thình lình mọi người đều đâm bổ chạy.

Bây giờ dầu mạnh mẽ phun lên, thành vòi có tua.

Ông già la:

- Coi đó! Coi đó!

Và không nói thêm được một tiếng nào nữa.

Ai nấy đều ngó trân trân vòi dầu. Đại tá cũng làm lại cử chỉ của ông Smith mà không ngờ : ông lại nhúng hai bàn tay vào dầu, đưa lên hít, nếm nữa, rồi nói:

- Quả là dầu!

Hoggan và Kent đứng trơ như khúc gỗ trước cảnh tượng cảm động ấy. Marjorie mừng quá, rưng rưng nước mắt.

Đại tá dỡ chiếc nón lớn đương đội, nói:

- Dỡ nón chào đi các bạn. các bạn đương đứng trước một kỳ quan của vũ trụ. Thượng Đế cho chúng ta được cái vinh dự hiến cho thế giới sự phát minh này, nó sẽ làm cho nhân loại sung sướng hơn.

Ai nấy cảm động vâng lời ông.

Marjorie lại gần Sam nói:

- Anh Sam, em đã bất công với anh. Xét kỹ thì chính nhờ anh mà đại tá đã thành công. Và em có lỗi khi em chế nhạo đại tá và anh vì hai người có cao vọng muốn xáo lộn thế giới. Anh tha thứ cho em chứ?

Sam mỉm cười, mấp máy môi như muốn đáp, nhưng không thốt được lời nào hết. Chàng cũng thấy muốn khóc mà không sao nén được, có cái gì làm nghẹt cả cổ và tim chàng.

Nàng bèn tiến sát, kiễng chân hôn lên má chàng rồi chạy trốn, làm cho “Mắt Đại Bàng” vui sướng tới đỏ mặt tía tai.

Trong lúc ấy, Hoggan qua phút ngạc nhiên rồi, lại máy, quay vài vòng.

Dầu, từ trước không lên cao mấy, bỗng mạnh mẽ vọt lên trời, thành một cây dầu cao tới năm thước, ai nấy vội vàng lùi lại.

Đại tá hét:

- Mang thùng lại! Bất kỳ cái gì! Chứa cho đầy hết đi.

Họ chạy tán loạn khắp phía. Kent và Hoggan chạy cả vào làng kiếm thùng ton-nô để chứa thứ dầu quý báu ấy. Chậm một giây là mất một số dầu ; nhưng đại tá không cần, ông chỉ nghĩ tới một điều là ông đã thành công và ông say mê ngắm sự thắng trận của ông.

Tin tức đồn khắp làng, mau một cách lạ lùng. Từ trước dân làng không sao đoán được tụi “lạ mặt” tới đây làm gì. Nhưng khi họ hay rằng đại tá và bọn của ông đã làm cho dầu lửa vọt từ dưới đất lên, thứ dầu mà họ cứ tưởng rằng chỉ có ở trên dòng suối Dầu và trên mặt hồ Erié thôi, thì họ hoan hô nhiệt liệt.  Tất nhiên là không ai đoán được sự phát minh ấy sẽ ích lợi ra sao. Họ chưa thấy những cây đèn dầu mà dược sư Kier đã bán ở Pittsburgh. Họ cũng không thấy cây đèn của Hoggan đã chế. Mà có thấy thì họ cũng không đoán được thứ đèn ấy ích lợi ra sao. Họ quen sống đời cực khổ ghê gớm ở giữa rừng, trong một cảnh hoang vu, cho nên yên phận, có cái gì thì dùng cái đó, không bao giờ nghĩ rằng đời sống có thể dễ chịu hơn được nữa.

Nhưng họ thấy mặc dầu bị vài kẻ phỉ báng, đại tá đã hạ được tên du côn John River, bây giờ lại mới có một công nghiệp lớn lao nữa, thì họ coi ông như một vĩ nhân liền.

Bữa ấy Marjorie nấu những món thật ngon để ăn mừng sự thành công. Trong khi họ đương ăn thì đoàn đại biểu hăng hái của dân làng tới. Bọn người này muốn xem vòi dầu lửa ở dưới kẹt đá vọt lên và cái máy kỳ dị để đào sâu trong lòng trái đất.

Ông Drake vui vẻ chỉ cho họ và giảng giải thêm. Ông nói:

- Thưa các ông, tôi không dám tự khoe, nhưng tôi tin chắc rằng sự phát minh này sẽ làm cho xứ sở của các ông phong phú.

Ông đi kiếm cây đèn do Hoggan chế tạo, đốt lên, chỉ cho họ thấy ánh sáng rực rỡ của nó, rồi ông nói lớn:

- Đó, dầu dùng được vào việc ấy. Tất cả nhân loại từ nay sẽ có những ngọn đèn cực sáng và đời sẽ thuận tiện hơn, nhờ những mỏ dầu ở dưới đất làng Titusville này. Tôi chưa nói tới những phát minh khác do phát minh này mà có. Các người Da đỏ, cũng như các ông, tưởng dầu này là một vị thuốc trị bá chứng. Có thể như vậy được, nhưng cũng có thể rằng các nhà bác học sẽ lọc cho nó trong hơn và làm thành một chất giúp cho nhân loại được nhiều việc lớn lao. Các bạn! Chúng ta nên cảm ơn Thượng Đế đã cho ta thấy ngày hôm nay.

__________________________________________________________________________
oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>