Thứ Năm, 10 tháng 7, 2025

Ngày Hè


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Còn trong tuổi Thiếu Nhi
Ấu thơ chưa biết gì
Hè về vui mừng lắm
Chẳng ngập ngừng chia ly

Đường phố đi lang thang
Mặc cho tiếng ve than
Với hoa phượng đỏ thắm
Tuổi nhỏ la hét vang

Rồi một ngày không xa
Với bầu trời trưa hạ
Nghe ngậm ngùi nuối tiếc
Tuổi đời đầy trong ta

Ngày thơ đã đi rồi
Nhìn lại thấy xa xôi
Nỗi buồn thêm lắng đọng
Như mây thu trong trời!...

                                    HBON
                                  (Tháp Chàm)

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 42, ra ngày 11-6-1972)
 

Thứ Tư, 9 tháng 7, 2025

Hối Hận

 
Thằng Thành vừa đi song song với tôi ra cổng trường, miệng nó tía lia:
 
- Tao đoán đâu có sai, "ổng" ăn hiếp mình quá hả mày!
 
Tôi bực dọc đá viên sỏi trên lối đi:
 
- Mày nói tiếng nữa coi chừng tao à.
 
Tôi nói như thế chứ Thành "tả oán" vậy cũng không phải là vô lý (tôi nghĩ vậy) vì hai giờ Việt văn của Thầy Lương, tôi và một số các bạn khác trong đó có nó phải bất đắc dĩ nghe một bài đại luận dài gần hai trăm trang, nào là ngu như lợn, lười như sên, để rồi kết luận bằng hai con "dê rô" to tướng.
 
Đó là hậu quả của cuộc du hí trong rạp hát ngày chủ nhật rồi quên làm bài.
 
Thế nên tôi oán thầy Lương, oán những bài soạn mà thầy cho và oán luôn cả ngày thứ hai trong tuần, cái ngày thứ hai "xui xẻo" ấy nó làm cho tôi phải phập phồng lo sợ, ngồi xuống ghế lại bật ngay dậy như ngồi phải cục than hồng trong đó có chứa đựng cặp mắt khủng khiếp của thầy Lương. Cầm viết nắn nót được hai chữ bình giảng tôi tưởng chừng như làm xong một việc nặng nhọc đến toát mồ hôi. Không phải tội.
 
Tiếng thằng Thành vang lên:
 
- "Ổng" mà biết mình nói thầm thì tức lắm chứ chả chơi đâu.
 
Tôi cười nhẹ như biểu đồng tình.
 
- Thôi tới làm một ly cho đỡ khát.
 
Ly nước mát lạnh làm cơn tức của tôi nguôi dần.
 
Bỗng thằng Thành hích cùi chỏ:
 
- "Ổng" kìa mày!
 
Thằng Thành nói lớn quá làm thầy Lương nghe thấy, thầy quay lại, tôi tưởng ít nhất cũng một cái xoắn tai rồi lên văn phòng lãnh giấy cấm túc. Tôi rủa thầm:
 
- Cái thằng đần độn này mày hại tao rồi!
 
Nhưng may thay, thầy Lương chỉ quay lại, đóng cái cặp mắt sắc như "mã tấu" vào giữa mặt làm tôi choáng váng tưởng chừng như cả một tấn sắt áp vào.
 
- Đỡ quá mày, tao cứ tưởng...
 
- Tưởng con khỉ, lát nữa coi chừng có giấy mời lên văn phòng đó.
 
Thằng Thành trả tiền xong kéo tôi vào chỗ vắng nói nhỏ:
 
- Tao nghĩ mình nên kiếm cách chơi "ổng" một vố.
 
Tôi tán thành và nó đưa ra nhiều ý kiến nhưng đều bị tôi bác bỏ vì hành động là lộ tẩy ngay, ý kiến của thằng "ngu si" ấy nó cũng "ngu si" nốt, cuối cùng tôi "nặn óc" mới ra. 
 
Tối chúa nhật đi qua, sáng thứ hai trở lại với tôi, cái ngày thứ hai có biệt danh là "thứ hai kinh khủng" ấy đem lại cho tôi nhiều nỗi lo âu lẫn khoái trá vì sắp được trả thù!
 
Trong suốt thời gian ấy thằng Thành hết hích cùi chỏ, lại nháy mắt cười ruồi có vẻ thích thú.
 
Tiếng ồn ào bỗng im bặt, chỉ còn nghe tiếng nói nho nhỏ:
 
- Ê! Ổng vô kìa.
 
Dáng người nhỏ thó xuất hiện ở ngưỡng cửa.
 
- Nghiêm!
 
Thầy vừa vẫy tay vừa bước tới.
 
- Thôi các em ngồi xuống...
 
Tiếng "xuống" vừa dứt thì người thầy Lương chao đi lảo đảo, cuốn Việt văn và cặp kính cận cùng rớt ra một lượt. 
 
Sau giây phút ngạc nhiên cả lớp bỗng cười rộ lên, mà trong số đó có hai kẻ cười to nhất, thì ra ai đã quái ác đặt cây thước bảng giữa lối làm thầy Lương phải lãnh đủ, kẻ đó không ai xa lạ mà chính là tôi, tôi đặt cây thước giữa lối đi khi thấy bóng thầy Lương thấp thoáng ở phòng giáo sư. Lượm cặp kính lên cùng cuốn sách, thầy Lương trịnh trọng đeo vào và đảo mắt xuống phía dưới, cặp mắt sắc như dao ấy dừng lại giữa mặt tôi.
 
- Trò nào?
 
Cả lớp im phăng phắc, tôi vẫn phớt tỉnh "ăng lê" nhưng trong lòng bấn loạn vô cùng. Thầy nhìn tôi một lúc lâu rồi bước lên bục gỗ nói:
 
- Các trò coi chừng tôi.
 
"Coi chừng tôi" có nghĩa là sẽ dồn sự tức giận vào bài vở mà thầy sắp cho, liên tiếp sẽ là cú đầu, xoắn tai, sẽ là ngu như lợn v.v...
 
Quả nhiên thầy Lương ra lệnh:
 
- Lấy vở ra chép bài.
 
Thầy gỡ cặp kính bước xuống bàn, bỗng thầy bước vội lên bàn chụp cặp kính đeo vào và đảo mắt nhìn lên bảng.
 
- Trò nào viết hàng chữ này?
 
Lại một trận cười ròn rã vang lên, tác giả hàng chữ này chính là thằng Thành, nó nắn nót từng chữ to tướng:
 
Ông Lương bốn mắt hai mày
Dáng đi lạch bạch như bày vịt xiêm
 
Sau bữa đó thầy Lương phải cực khổ đẩy chiếc xe đạp lép kẹp cả hai bánh mà đi kiếm chỗ bơm, mỗi lần như vậy, hai thủ phạm đứng cuối sân chơi cười khúc khích.
 
Lần sau tôi bỗng chú ý đến chiếc xe honda dame cũ rích của thầy Lương, vì cả một bộ máy rắc rối có thể hư hại nặng chỉ vì một vật nhỏ bé như cát hay hạt muối.
 
Muối là một chất mặn có thể làm rỉ sét các chất kim loại, thế là ra rồi, tôi cũng la lớn "ra rồi, ra rồi" như Archimède ngày xưa vậy. Thế là tôi sẽ tà tà bỏ vào bình xăng xe của thầy Lương một nắm muối và thầy sẽ lãnh đủ cái hậu quả tai hại của những "hồng ân" mà thầy đã "ban" cho tôi ở những ngày đã qua, tôi không ngờ mình thông minh quá, tôi học cái ý kiến cho thằng Thành biết, nó khen lấy khen để, nó còn nói:
 
- Mày phá hoại kiểu khoa học.
 
Tiếng ồn ào trong lớp càng ồn ào thêm khiến tôi khó chịu. Sở dĩ có trường hợp "bất trị an" như vậy vì sau khi tôi bỏ muối vào bình xăng xe của thầy Lương, máy hư mà thầy không có tiền sửa nên thầy phải đi dạy bằng xe lam, mỗi ngày thầy trễ ít nhất phải là hai mươi phút, có lần vào trễ thầy bị ông hiệu trưởng kêu lên văn phòng, lúc trở xuống mắt thầy đỏ hoe.
 
Bắt đầu từ lúc ấy tôi mới thấy cái xót xa nó thấm thía vào tâm hồn khi nhìn thấy ánh mắt thống khổ của thầy Lương, ánh mắt thầy nó chỉ chứa đựng một sự chán nản và buồn thảm. Cái ngày "thứ hai kinh khủng" được trí óc tôi đảo ngược lại là "thứ hai buồn thảm". Ánh mắt thầy đi chung với ngày thứ hai ấy.
 
Bỗng dưng tôi thấy thương thầy vô hạn (tôi không phân biệt được thương thầy với lòng thành hay là thương hại), nhất là nghĩ đến bài luận văn mà thầy phát ra có phê hàng chữ:
 
Rất khá! Có tiến triển.
 
Thì ra thầy nào có ác ý với tôi đâu, thế mà tôi cố tình ám hại thầy.
 
Tôi có thể làm thế chăng? Tôi có thể đang tâm thù hằn một kẻ đáng gọi là cha, kẻ đã dạy tôi biết làm bình giảng, biết sáng tác ra một đoạn văn. Bây giờ tôi đã hối hận, thốt ra hai tiếng hối hận tôi cảm thấy trút được một phần gánh nặng tâm hồn, phần còn lại đến bây giờ tôi chưa trả được.
 
Bây giờ tôi không cần biết thầy Lương có ác cảm với tôi không mà chỉ cần biết đã có thêm một kẻ biết được cái tình thầy trò thiêng liêng cao quý nhất. 
 
Kính dâng hương hồn của một người thầy đã khuất núi, và gởi những ai đã oán thầy, đang oán thầy và sắp oán thầy.
 
 
PHẠM VĂN ĐỨC      
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 94, ra ngày 17-6-1973)
 

Thứ Hai, 7 tháng 7, 2025

Ốc Sên


c sên là một con vật lạ lùng. Nó có thể sống trên đỉnh núi cao, vùi mình trong vùng sa mạc nóng bỏng, ẩn mình trong rừng sâu thuộc miền nhiều mưa lũ. Người ta bắt gặp ốc sên ở khắp nơi : trên ngọn Everest cao 8945m, người ta có thể thấy ốc sên ở sa mạc Sahara mênh mông, ốc sên cũng có mặt ở rừng rậm Phi châu. Ốc sên là một con vật vừa phá hoại lại vừa có ích. Nó tàn phá vườn rau nhưng trái lại thịt của nó ăn rất ngon, nó còn là một con vật thí nghiệm dùng trong khoa học.
 
Giống ốc sên sống trên mặt đất ra đời cách đây nhiều triệu năm và có mặt ở khắp nơi. Tất cả có lối 18.000 loại khác nhau.
 
Con ốc sên mà ta hay gặp thường ngày quả là một con vật phi thường. Trong thân thể nó không có một đốt xương nào cả mà chỉ là thịt và thịt mà thôi. Dù nhỏ nhắn mảnh mai, nhưng loại Helix pomatia, một loại ốc sên thịt ăn rất ngon, có thể chở nổi một sức nặng gấp 200 lần. Theo tỷ lệ đó thì một thiếu nhi nặng 40kg phải vác nổi một tảng đá nặng 360kg và kéo nổi một chiếc xe nặng 3,6 tấn.
 
Ốc sên ngủ rất nhiều, khi mùa đông chưa đến, nó đã bắt đầu ngủ giấc đông miên dài đến sáu hay bảy tháng trời. Ngoài ra, khi thấy một chút tia nắng mặt trời, ốc sên vội thu mình vào vỏ vì sợ bị hong khô thân mình, và khi trời mưa cũng vậy, ốc sên lập tức thu mình lại để ngủ. Ốc sên có thể ngủ một giấc hay ngủ suốt nhiều ngày liên tiếp trong lớp vỏ sau lớp nước nhờn. Ốc sên ở sa mạc có thói quen ngủ lâu kinh khủng, nó có thể ngủ một giấc li bì suốt ba hay bốn năm trường.
 
Khi di chuyển, ốc sên là một con vật thướt tha, yểu điệu trông thực đẹp mắt. Thân hình vặn vẹo của nó thay đổi màu sắc từ màu xám đến màu bạc, lướt nhẹ nhàng dường như không cần đến một chút cố gắng. Những bắp thịt nhỏ bé co rút nhịp nhàng như làn sóng điện, và như thế thân hình của ốc sên từ từ tiến tới.
 
Bất cứ đi đến đâu, ốc sên cũng tạo ra một lớp màn phía dưới để bảo vệ nó. Tấm màn này không có màu sắc và vô cùng hữu hiệu đến nỗi ốc sên có thể bò dọc theo lưỡi dao cạo bén ngót mà không hề bị một vết trầy nào cả.
 
Trong cuộc sống hàng ngày, ốc sên rất cần sự ẩm ướt. Sự ẩm ướt là yếu tố cần thiết cho thân thể của ốc sên, sự ẩm ướt cần thiết trên đường đi lại, sự ẩm ướt còn cần thiết để nuôi sống các mầm non là món mà ốc sên ưa thích nhất. Đến tháng tư, tháng năm, khi thời tiết dịu, và khi cơn mưa đầu mùa bắt đầu tắm ướt phong cảnh, ốc sên choàng thức giấc, cái đầu nhỏ nhắn của nó bắt đầu nhô ra khỏi vỏ cứng, các vòi của nó rà khắp đó đây để xem có gì ăn được. Cặp sừng trên có thể kéo dài đến ba phần tư đốt (1) hay hơn nữa, trên cặp sừng này là mắt của ốc sên ; ở sừng dưới, ngắn hơn, là cơ quan xúc giác hết sức tinh.
 
Bữa ăn đầu tiên tiêu hóa xong, ốc sên cảm thấy đói, thân hình của nó lại bắt đầu vươn ra khỏi vỏ. Thân hình của ốc sên dài khoảng 3 đốt (1), to một phần tư đốt (1). Ốc sên cận thị rất nặng, nó không thể nhìn xa được, nhưng nhờ thích giác cực mạnh có thể bù trừ cho thị giác cực kỳ yếu kém của nó. Thính giác cực nhạy giúp cho ốc sên bắt đầu hoạt động. Dù miệng của nó chỉ to bằng đầu kim gút nhưng có đến 25.600 cái răng bé tí nhưng cực kỳ hữu hiệu. Ta cứ thử nhốt ốc sên vào trong một hộp giấy, chẳng bao lâu sau, ốc sên sẽ dùng hàm răng tí ti này cắn rách hộp để chui ra. Nếu răng của ốc sên bị mòn hay gẫy, răng khác sẽ mọc lên thay liền cũng dễ dàng như khi ốc sên thay vỏ.
 
Thường thường ốc sên ăn vào ban đêm, nhưng các ngày có mây bay, những ngày có mưa nhẹ lất phất bay cũng là thời gian rất thuận tiện và ốc sên sẽ bò khi ăn. Khi ăn, ốc sên ăn không ngừng. Còn những lúc khác, ốc sên thu mình ẩn kín trong lớp vỏ để trốn ánh nắng.
 
Mỗi năm hai lần, một lần vào mùa xuân, một lần vào mùa thu, ốc sên đột nhiên ngưng ăn và đi lang thang không ngừng. Râu của nó vươn ra phía trước quờ quạng tìm kiếm khắp nơi. Ốc sên đang trên đường đi tìm bạn. Ốc sên là loài lưỡng tính, có 2 bộ phận sinh dục ở cổ, ngay phía bên phải.
 
Cưu mang mười lăm ngày, ốc sên sẽ đi tìm nơi sinh sản. Ốc sên đào một lỗ nhỏ ở gốc cây hoặc giữa đám cỏ gần nơi có thức ăn. Sau mười hai tiếng đồng hồ, ốc sên sẽ để lại đó 25 trứng nhỏ bé. Sinh xong, ốc sên lấp dấu và bỏ trứng ốc sên ở đó.
 
Ba hay bốn tuần lễ sau, trứng sẽ nở ra ốc sên con. Mới ra đời, ốc sên con tuy nhỏ bé nhưng đã có hình dạng gần hoàn hảo rồi, nhưng vỏ của nó chỉ mỏng mỏng như tờ giấy. Ngay khi vừa ra đời, ốc sên con đã đầy đủ khả năng để đương đầu với cuộc sống. Nó bắt đầu bò ra khỏi vỏ, tự tìm lấy thức ăn và tự biết tìm nơi ẩn trú khi cần. Vừa mở mắt chào đời, ốc sên đã có ngay cái đặc tính di truyền là sợ mặt trời, nó chỉ đi lại vào ban đêm.
 
Mỗi năm ốc sên lớn thêm độ một phần mười đốt (1) ở ngoài vỏ. Mức lớn và lối sinh sống của ốc sên hoàn toàn tùy thuộc vào thời tiết và việc ăn uống. Ở Pháp, người ta bắt ốc sên hoài, chỉ để cho chúng sống lâu nhất là hai năm do đó ít gặp được ốc sên to lớn. Tuy nhiên, thỉnh thoảng người ta cũng tìm thấy ở Pháp những con ốc sên khổng lồ, do người ta mua từ nhiều nơi khác chở về, vì ở các nơi đó người ta để cho ốc sên sống lâu hơn.
 
Dù lớn dù nhỏ gì, ốc sên cũng là một món ăn ngon miệng. Mỗi năm ở Pháp người ta thưởng thức lối 250 triệu con ốc. Ốc được nấu nướng một cách khéo léo trở thành một món ăn vô cùng ngon miệng. Ở Mỹ, mỗi năm người ta ăn hết 24,8 triệu con ốc mà phần nhiều là ốc nhập cảng.
 
Mỗi lần vào mùa Xuân, trường Y Khoa Ba Lê mua cả mấy trăm cân ốc. Số ốc này được đem nuôi ở nhiệt độ thấp để cho hơn 100 chuyên viên nghiên cứu. Ốc sên giúp ích rất nhiều cho khoa học. Nghiên cứu các dịch vị của nó tiết ra, các nhà khoa học đạt được những bước tiến quan trọng trong việc tìm hiểu các chất kích thích tố (hormone). Nghiên cứu máu và chuẩn độ nước tiểu của chúng, người ta còn tìm hiểu được vài loại ung thư.
 
Quả thật ốc sên là một con vật lạ lùng.
 
 
NGUYỄN HÙNG TRÁC      
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 98, ra ngày 15-7-1973)
 
___________
(1) Inch : đốt, đơn vị đo chiều dài của các quốc gia nói tiếng Anh, dài 2,54cm

Chủ Nhật, 6 tháng 7, 2025

Phần Thưởng


Cắp sách đến trường ai lại không muốn mình là người học sinh giỏi và cũng ôm mộng phần thưởng xuất sắc cuối năm được vào tay mình trong niềm kiêu hãnh. Bé cũng vậy. Năm đầu tiên bước vào Trung Học bé đã cố công gắng sức lo học hành để được phần thưởng. Nhưng trời chẳng chiều lòng, năm đó bé chẳng được vinh dự đó. Bé nhìn người bạn ôm phần thưởng mà muốn khóc. Rồi nghỉ hè, qua 3 tháng xa xôi, bé tức tối và thầm nguyện với lòng là quyết năm sau cố gắng hơn, thế nào phần thưởng phải vào tay bé. Bé ôm mộng ước ấy nhiều đến nỗi trong phòng học bé dán đầy những câu:
 
- Cố gắng chăm học. 
- Phải được phần thưởng.
- Không thua sút ai v.v...
 
Và... bé lên lớp 7. Bé không phút giây chơi đùa, bé chăm, bé cố, bé siêng mặc cho bạn bé mời mọc kêu gọi. Bé quyết học cho giỏi năm này để được cái phần thưởng đẹp đẽ tuyệt vời của trường. Mà quả thật, bé tiến tới thật mau. Bạn bè trong lớp thấy thế sợ thua kém cũng vội vã chạy theo. Những kỳ thi, những lần làm bài bé đều được điểm cao. Hy vọng tràn trề trong lòng thế nào bé cũng được phần thưởng. Thầy, cô cũng nhìn bé mỉm cười và khuyến khích bé. Tết đến, rồi dần dần gần bãi trường. Càng lúc bé càng nôn nóng. Ngồi học bé thấy phần thưởng cười. Ngồi ôn bài thi bé thấy phần thưởng tiến gần lại bé. Ngủ bé cũng mơ, ăn bé cũng mơ, chắc chắn thế nào phần thưởng cuối năm ưu hạng cũng về tay bé. Bạn bé cũng đã nói bé sẽ được. Hà đã nói:
 
- Năm nay Nga học giỏi ghê, thế nào phần thưởng hạng I cũng về tay bồ đó.
 
Bé cũng sướng mê tơi nhưng cũng làm bộ:
 
- Bồ nói quá chứ, còn Nguyên, Bích, Hồng nữa nè. Sợ Nga thua mấy nhỏ đó.
 
Rồi ngày lại, ngày qua, sắp tới ngày bãi trường rồi, mà sao bé không thấy trường rộn rịp như hồi năm ngoái. Bé nhớ rõ lắm nè. Năm ngoái, còn một tuần nữa là bãi trường, bọn bé không phải học, vì thầy cô mắc cộng điểm, cột quà, mua sắm phần thưởng. Dường như ai cũng lăng xăng. Lớp thì lo dợt lại văn nghệ... còn sao năm nay chỉ còn một tuần nữa thôi mà sao trường vẫn im lìm thế kia? Bé run ghê, bụng cứ đánh lô tô mãi. Hay là... trường năm nay không tổ chức lễ phát phần thưởng (vì nghe đâu thầy Hiệu Trưởng mắc đi Mỹ nên bỏ qua?). Bé nghe tin đồn đó là đã sợ. Chao ôi, công học hành, công cố gắng vì một lý do... mà là công dã tràng sao? Bé lòng thầm van vái tin đồn không đùng với sự thật nhưng hỡi ơi: chỉ còn hai ngày nữa mà trường cũng không lo cộng điểm và tin từ văn phòng trường đưa ra làm bé rụng rời:
 
- Năm nay, trường sẽ không tổ chức lễ phát phần thưởng cho các học sinh ưu tú...
 
Bé như người cảm sốt, nhìn Nguyên mà nước mắt muốn rưng rưng, nhưng cố nén:
 
- Chết rồi, Nguyên ơi...!
 
Về đến nhà bé tức tối lắm, còn chi đâu giấc mộng huy hoàng,
 
Thầy, cô thì không biết chi. 
 
Tối đến lòng tức, mở tivi thấy phóng sự quay lại cảnh: buổi phát phần thưởng của mấy trường khác, nhìn mấy anh, chị ôm phần thưởng bé càng thêm giận trường mình.
 
Lòng càng nghĩ suy, bé càng thấy lòng nặng chữ tức, sao trường không nghĩ gì về học sinh cả, phải chi trường thông báo vì lý do kỹ thuật gì đó thì học sinh cũng đủ hả dạ lắm rồi chứ chi mà tàn nhẫn đến độ không kèn không trống. Phần thưởng ơi, ta xa mi rồi.
 
Trường ơi, thầy, cô ơi có biết chăng lòng bé đang đau đớn.
 
Phần thưởng ơi, phần thưởng...
 
THỐ TY HOA      
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 95, ra ngày 24-6-1973)
 

Thứ Sáu, 4 tháng 7, 2025

Bến Thơ

 

 
 
 
 
 
 
  
 
 
 
 
 Xanh xanh ngàn lá trúc
Biêng biếc giòng nước xuôi 
Bập bềnh thuyền nan nhỏ
Lững lờ mây trắng trôi

Xa như còn đồng vọng
Tiếng lũ trẻ triền đê
Đầu trần, chân lấm đất
Đón hạ vàng thôn quê

Cánh diều bay phất phới 
Ngả ngớn tựa lưng trâu
Nghe sáo diều vi vút
Ê a đánh vần mau

In trời mái lam khói
Ai thổi bếp nấu cơm
Thoảng hương hoa đồng nội
Lẫn mùi thơm rạ rơm

Bì bõm làn nước biếc
Chuồn cắn rún tập bơi
Lũ trẻ cười khúc khích
Sóng nước vờn chơi vơi

Chiều nay dừng chân bước 
Bến xưa nước lững lờ
Tìm tháng ngày tuổi dại
Trong khung trời ấu thơ...

                               Thơ Thơ 
                   (Bút nhóm Hoa Nắng)



Thứ Năm, 3 tháng 7, 2025

Cắm Trại


Cắm trại, hay sống ngoài trời, xưa như lịch sử loài người. Những người tiền sử đã sống, đã ăn và đã ngủ dưới bầu trời rộng mở hay trong nơi trú ẩn sơ sài. Nhưng, văn minh tiến bộ đã lôi cuốn con người rời bỏ đời sống hoang dã để chen chúc nhau trong những căn nhà chật hẹp, khuôn mẫu và vuông vức, trong những đô thị dầy đặc những khói và ồn ào. Con người càng ngày càng ẻo lả, thụ động và sợ sệt. Thiên nhiên hiện ra dưới mắt con người như một thế giới xa lạ, chất chứa nhiều nguy hiểm. Cho tới một ngày mà người da trắng đặt chân lên thế giới thiên nhiên của người da đỏ, con người văn minh lúc ấy nhớ lại rằng thiên nhiên là bạn chớ không thù! Thiên nhiên cung cấp cho họ thức ăn, y phục và nơi trú ẩn an toàn. Thiên nhiên huấn luyện cho họ chí bất khuất, lòng can đảm, tính bình tĩnh, óc hợp đoàn, sự nhanh nhẹn... Thiên nhiên đem lại những thân hình vạm vỡ với những kỹ xảo tuyệt vời. Thiên nhiên là bạn của những người gần gũi nó, là thù của những người chạy trốn nó. Thế nên, con người đổ xô về với thiên nhiên cũng như có lúc đổ xô xa lánh. Trong những hình thức về với thiên nhiên, cắm trại được ưa chuộng nhất.
 
Cắm trại! Cắm trại vui thú biết bao! có lẽ đó là lý do tại sao hàng triệu người già trẻ bé lớn mong mỏi một kỳ trại phiêu lưu và mạo hiểm. Biết bao cảnh đẹp chỉ in dấu chân người đi trại: nào hồ thơ mộng, nào suối nên thơ, nào non hùng vĩ, nào rừng cây xanh lá... Trại sinh là người vui đời đơn giản, là bạn của ánh lửa bập bùng. Họ biết bài ca của muông chim khi nắng hồng rạng rỡ, biết điệu sầu của loài cú khi ánh lửa tàn đêm. Người trại sinh học cách sinh tồn trong rừng già, trên triền núi hay giữa dòng sông rộng. Trại sinh luôn sẵn sàng, hăng hái và giúp đỡ người khác. Dù sự hoang dã luôn thử thách, người trại sinh phải luôn luôn làm cho đời sống trại dễ chịu và thoải mái.
 
 
CHỌN ĐẤT TRẠI
 
Yếu tố đầu tiên và thật quan trọng là chọn đất trại. Trại sinh phải lựa chọn cẩn thận. Càng cắm trại lâu bao nhiêu, càng lựa chọn cẩn thận bấy nhiêu. Đất trại phải cách xa những nơi nguy hiểm như bờ đá dựng, hào sâu, chỗ cây chết, cành chết có thể đổ, rơi bất ngờ, những vùng đất lầy lội, những vùng đất có cây trường xuân và cây sồi với các loại thực vật độc hại như trường xuân, sồi, độc cần... Bụi rậm và bờ đất thấp gần sông, hồ, suối thông thường dung túng những muỗi mòng và các loại côn trùng khó thương khác. Tránh những núp đá là nhà ở của loài rắn độc. Đất trại tốt nhất phải cao ráo, thoáng khí với vài cây cho bóng mát. Nước uống và củi dùng nấu nướng phải gần đó để tránh hỏa hoạn cũng như sự thiêu đốt của mặt trời. Đừng ở nơi lộng gió, nhiều cây to để tránh hỏa hoạn. Đất phải xốp để nước rút khô mau lẹ sau cơn mưa, cũng như tạo dễ dàng cho việc dựng lều, làm nơi trú ngụ. Những hiện trạng thiên nhiên bao quanh như cây cối, đá lớn sẽ che chở cho đất trại khi có gió lớn.
 
 
XIN PHÉP
 
Sau khi chọn xong đất trại, trại sinh phải xin phép chủ đất và nhà cầm quyền địa phương, liên lạc với giới chức liên hệ cũng như các hội đoàn để được giúp đỡ và chỉ dẫn rõ ràng hơn. Nếu trại được tổ chức ở xa cần phải kêu gọi sự tham dự của người đi trại giàu kinh nghiệm. Sự hoạch định và sửa soạn cẩn thận rất cần thiết.
 
 
VẬT DỤNG :
 
Trước hết, quần áo đem theo phải đầy đủ và chắc. Quần áo bảo vệ trại sinh khỏi nắng, mưa, côn trùng, bụi rậm v.v... nghĩa là phải gồm có nón, áo mưa hay poncho, áo ấm cho những đêm gió lạnh, quần soọc, quần dài, áo lót, vớ dày, khăn tay và đồ ngủ (bi-ja-ma). Giày nhẹ, chắc và vớ len rất thích hợp. Nếu giày hơi rộng, tốt hơn nên mang hai đôi vớ: vớ vải nhẹ ở trong và vớ len dày ở ngoài. Nếu giày mới mua chưa đi lần nào, trại sinh phải đi trước ở nhà qua lại cho quen chân. Nếu kỳ trại kéo dài cần phải đem theo nhiều quần áo để thay đổi và thêm đôi dép.
 
Ngoài ra, trại sinh còn phải đem theo vật dụng cá nhân (kem, bót đánh răng...), bi-đông, đèn bấm, đèn cầy, diêm, địa bàn, còi, lều, mền, nệm hơi (phao, nếu có), bản đồ, dao bỏ túi, lưỡi câu, dây, băng cứu thương, dầu và các vật dụng cho cả trại mà ban quản trại giao phó như cuốc, xẻng, dụng cụ dựng lều, vật dụng nấu nướng, xách, túi đựng nước, máy chụp hình v.v... Chỉ đem theo những gì cần thiết cho cuộc cắm trại, đừng đem dư thừa. Cần chú ý đến thời gian, địa điểm của trại để đem đúng vật dụng. Trại sinh phải lập một danh sách tất cả những vật dụng cần đem theo và kiểm soát lại khi xếp vào xách hay ba-lô.
 
Công việc xếp vào xách thật dễ dàng và đơn giản. Một cái xách hay ba-lô là một túi chứa đầy các túi nhỏ. Xếp quần áo phụ như áo lót, vớ... vào một hay nhiều túi nhỏ - túi plastic là tốt hơn cả - Sau đó ép mạnh cho không khí bên trong ra hết và niêm túi lại bằng một sợi thun, miếng băng keo hay nắp cao su chúng ta thường thấy. Các vật dụng vệ sinh cá nhân như xà bông, khăn tắm, khăn lau, bót và kem đánh răng phải cho vào một túi khác. Thực phẩm phải được xếp vào những túi plastic hay hộp. Xách hay ba-lô với đầy đủ vật dụng không được nặng quá (1/4) trọng lượng toàn thân. Trại sinh phải xếp những vật dụng mềm, phẳng đối diện với lưng để được dễ chịu khi đi đường. Những vật dụng xài sau cùng cần để ở dưới cùng. Các đồ nặng xếp lên trên gần mặt xách. Một cây đèn bấm và hợp cứu thương nên xếp trong một cái túi may dính  bên ngoài xách. Áo đi mưa hay poncho xếp vào sau cùng.
 
Dây đeo phải khá lớn để khỏi cứa vào vai. Các miếng đệm lót dưới dây đeo làm trại sinh cảm thấy thoải mái hơn khi đeo. Đừng để vật dụng vương vãi, bề bộn bên ngoài xách. Nếu xách không đủ chỗ thì mền, chăn có thể cuộn tròn, cột lại và buộc lên phía trên xách. Điều cần nhớ là xách hay ba-lô phải được may bằng vải không thấm  nước. Thường cuộc cắm trại dành cho nhiều người nên thực phẩm và các vật dụng chung cần phải phân chia cho tất cả mọi người và phải theo qui luật người mạnh, khỏe mang nặng hơn người nhỏ, yếu.
 
 
DỰNG LỀU.
 
Có nhiều loại lều thích hợp cho thời gian và hoàn cảnh của trại.
 
Nhưng thường trại sinh nên dùng lều hình chữ A vì nhẹ, dễ căng và có thể tự làm dễ dàng. Khi căng lều phải nhớ rằng không chừa khoảng trống giữa đất và mép lều. Phương pháp ngăn ngừa tốt nhất là kết dính với mép lều một tấm vải không thấm nước làm nền cho lều. Những phía để trống của lều không được quay thẳng về hướng gió. Phải tránh những cây to trơ trọi vì sét thường đánh những cây này. Trước khi dựng lều phải kiểm soát lại đất đai xung quanh. Mặt đất phải khá bằng phẳng, khô ráo. Đá, gạch và khúc cây phải được dọn sạch khỏi chỗ dựng lều. Đừng bao giờ quét hay thu dọn lá cây trên đất trại ngoại trừ những chỗ dùng làm bếp lửa. Lớp lá phủ trên mặt đất làm đất trại không bị lầy nhưng quan trọng hơn là cỏ, lá cây và nhánh cây nhỏ trên mặt đất giữ cho đất không trôi đi khi trời mưa.
 

Biết cách cắm cọc, trại sinh sẽ giữ lều được đứng thẳng. Những vùng đất mềm, rời cần cọc dài hơn. Cọc được cắm theo hướng nghiêng ra phía ngoài lều. Ở những vùng có đất trôi tụ lại hay lùm cỏ, cọc được cắm thẳng xuống hay chênh chếch về phía lều.
 
Trong kỳ trại giả sử có một trận mưa rất lớn, nước chảy tràn vào lều. Việc này thường xảy ra khi lều được dựng trên mặt đất dốc thoai thoải. Gặp trường hợp này, trại sinh phải ngăn dòng nước không cho chảy vào lều bằng cách xẻ một cái mương nhỏ ở bờ cao của lều dẫn nước đi xung quanh lều chảy xuống bờ thấp. Nhớ rằng đừng bao giờ đào mương và rãnh nếu không cần thiết ; nếu phải đào, trại sinh phải lấp và dậm cho chắc lại khi không cần nữa hay trước khi rời đất trại.
 
Có nhiều trường hợp nguy hiểm khi trại sinh đi săn, đặt bẫy hay đi câu, trại sinh cần tìm một chỗ trú cấp thời. Mép đá nhô ra hay một cây đổ to lớn rất tốt để trú. Phía đối nghịch với hướng gió (không đưa ra hướng gió) của tảng đá lớn, bờ đá hay cây to che chở cho chúng ta rất nhiều.
 
Khi đi cắm trại đông người, các lều phải được dựng xung quanh lều chánh của Ban Quản Trại và không nên cách xa nhau quá, thông thường cách xa nhau từ 50 đến 100 thước. Khi dựng lều cũng như trong thời gian ở trại, trại sinh không được chặt phá cây cối, làm xáo trộn hoàn cảnh thiên nhiên nhiều quá mà chỉ nên tận dụng hoàn cảnh sẵn có đem lại tiện nghi cho trại.
 
 
"GIƯỜNG" NGỦ Ở TRẠI :
 
Đi trại không phải là nhịn ăn, nhịn ngủ, trái lại là khác. Trại sinh phải ứng biến làm sao cho ăn no, ngủ kỹ... Ngủ ở trại rất thú vị nếu đủ ấm và thoải mái. Nếu có chăn, mền thì rất tốt. Trại sinh gấp đôi chăn hay mền lại và ghim các mép lại với nhau thành một cái túi. "Giường" ngủ đã xong, trại sinh chui vào giữa túi và ung dung đánh một giấc. Nếu không có chăn mền trại sinh có thể dùng nệm hơi (phao) thổi phồng lên, những nhánh cây thông nhỏ hay những cành có lá được dồn góp lại thành một tấm nệm rất thoải mái. Trại sinh cần phủ lên trên giường ngủ một lớp vải không thấm nước, áo đi mưa hay poncho, và tém gọn các mép xuống dưới giường.
 
Dầu ở thời tiết nào - nóng, ấm, mát, lạnh - trại sinh cũng mặc đầy đủ quần áo che kín người khi ngủ để tránh sương, tránh côn trùng cắn, chích hay bụi gai cào sướt. Nếu gặp thời tiết lạnh phải mặc cho đủ ấm, bằng cách mặc nhiều lớp quần áo, không nên mặc một lớp thật dày (khi cảm thấy nóng có thể cởi bỏ một, hai lớp dễ dàng, mau chóng).
 
 
CỦI VÀ LỬA : 
 
Dao, búa, diêm và những phương tiện cho lửa khác rất cần thiết cho một trại sinh từ khi lên đường cho tới lúc trở về. Trại sinh thường dùng loại dao bỏ túi và dao luôn luôn ở trong túi hay trong bao đeo cẩn thận bên hông để tránh rơi rớt dọc đường khi đi hay chạy. Búa phải có tay cầm thật chắc chắn và an toàn, có bao và lưỡi búa luôn ở trong bao khi đi đường, khi không dùng. Không bao giờ ném dao hay phóng búa, rất nguy hiểm! Cũng không nên khắc tên vào cây cối. Khi sử dụng phải nhìn quanh để tạo sự an toàn cho người khác. Trại sinh phải tự kiếm củi đốt ở đất trại nên phải biết loại nào đốt được, loại nào khó đốt để không phí tài nguyên thiên nhiên. Cây chết đốt tốt nhất. Các cành thấp của những cây đang đứng vững thường là cành chết. Nếu cành nào gẫy kêu răng rắc trại sinh có thể bảo đàm cành đó sẽ cháy dễ dàng. Trại sinh chỉ nên kiếm đủ số lượng cần dùng mà thôi.
 
Phần quan trọng nhất ở các trại là lửa, từ lửa để nấu nướng sưởi ấm cho tới những lửa trại to lớn để sinh hoạt. Trước hết, đất xung quanh chỗ đốt lửa phải trống trải, không có cành cây, bụi rậm và cỏ. Nên đốt gần lều để dễ trông chừng (đừng gần quá) và lửa phải được kiểm soát thật nhỏ, nhỏ đủ dùng theo nhu cầu thôi. Có nhiều loại bếp của người đi săn tạo thành hai khúc gỗ lớn đặt song song, đầu rộng hướng về luồng gió. Xếp những tảng đá thành hình chữ U, đầu hở hướng về luồng gió, cũng tạo nên một bếp tốt. Loại bếp này tỏa ra rất nhiều nhiệt và giữ thiệt lâu rất tốt để nấu nướng. Nếu cần nấu nướng nhiều thứ một lúc, trại sinh đào một rãnh dài, xếp đá chung quanh tạo nên một rãnh lửa. Củi khô dễ bắt lửa được dựng đứng sắp hình cái lều của người da đỏ hay được sắp vòng tròn rất được ưa chuộng trong những đêm sinh hoạt lửa trại. Vào những ngày gió lớn, trại sinh phải nhóm lửa trong những lỗ được bao bọc bởi đá, gạch hay gỗ to.
 
Trước khi nhóm lửa, trại sinh phải sửa soạn thật đầy đủ. Mỗi lần nhóm lửa, trại sinh thường cần:
 
- 2 hay 3 nắm tay cành cây nhỏ dài khoảng 2 tấc.
 
- 1 nắm nhỏ các khúc gỗ lớn bằng ngón tay cái dài hơn 2 tấc.
 
- 1 khúc gỗ lớn bằng cổ tay và dài hơn 2 tấc, chẻ đôi khúc gỗ này.
 
Trong khi mót gỗ, trại sinh hãy để mắt tìm kiếm vật liệu dùng làm mồi bắt lửa chẳng hạn cỏ khô, vỏ cây khô của cây bách hương (giống như cây thông) hay những nhánh thông khô. Vỏ của cây phong chết (phong trắng, xám hay vàng đều được) làm mồi bắt lửa rất tốt. Đừng bao giờ tách vỏ này ở cây đang sống. Những que gỗ chẻ mỏng có thể thay thế cành nhỏ và mồi bắt lửa.
 
Người trại sinh giàu kinh nghiệm thường dùng những thứ nến lửa như một mẩu đèn cầy vụn, báo được cuộn chặt, cột bằng dây cắt từng khoanh dài chừng 5 phân và được nhúng vào parafin cháy lỏng (sáp đèn cầy cháy lỏng) là những nến lửa rất tốt. 5, 6 diêm quẹt bó lại và tẩm parafin cũng rất tốt và loại nến lửa bằng diêm quẹt tẩm parafin vẫn cháy dù tiết trời ẩm ướt. Nến lửa dùng giữ lửa được lâu.
 
Với đầy đủ vật liệu cần thiết, trại sinh có thể nhóm lửa một cách thành công. Hãy nhớ dọn dẹp xung quanh chỗ nhóm lửa thật trống. Khi bếp đã sẵn sàng, trại sinh để một khúc gỗ lớn bằng ngón cái ngang vài hòn đá nhỏ, xếp vài mồi bắt lửa dưới khúc gỗ này và rải một nắm cành nhỏ lên khúc gỗ, thêm vài cành lớn  hơn và đốt mồi bắt lửa. Gỗ sẽ bắt cháy nhanh chóng và trại sinh thêm vài khúc gỗ lớn khi lửa cháy sáng.
 
Lửa cao ngọn, sáng dùng để nấu nước, nấu cơm, canh hay luộc rau cải, trứng, sau đó có thể nấu nướng các món khác. Khi lửa thấp ngọn, một lớp than nóng đã thành sẵn cho trại sinh nấu nướng thịt, cá. Khi bếp hoạt động phải luôn luôn có một xách nước đầy gần đó để đề phòng ngọn lửa phừng cao vì gió lớn. 
 
Khi không dùng bếp hay khi rời đất trại phải dập tắt lửa hoàn toàn và san bằng lại như cũ. Dập tắt lửa bằng nước, như sau: khều các khúc gỗ đang cháy rải rộng ra ; tưới nước lên các khúc gỗ và lớp tro than còn nóng ; lật các khúc gỗ qua lại cũng như xới lớp tro than lên và tưới nước cho tới khi nào không tỏa nhiệt mới thôi. Tro ướt và lạnh nên tung rải rác ra khi trại chấm dứt. Sau đó phủ lên mặt đất trống xung quanh chỗ nhóm lửa một lớp lá và đất, phân lá cây như lúc chưa nhóm lửa.
 
Một đầu bếp ở trại giỏi dắn cần nhớ các chỉ dẫn sau đây:
 
- Luôn luôn mang theo diêm (nếu có diêm không thấm nước càng tốt) trong túi.
 
- Đem theo nhiều nến lửa, nhất là trong thời tiết ẩm ướt.
 
- Một vài vỏ cây phong trong xách rất hữu ích.
 
- Nhớ rằng ngay cả trong mùa mưa, phần gỗ bên trong các khúc cây thường khô ráo và có thể chẻ mỏng làm mồi bắt lửa dễ dàng.
 
Trại sinh nhiều kinh nghiệm luôn luôn chuẩn bị đủ số lượng củi đốt cho mỗi bữa ăn. Một mảnh vải không thấm nước (áo mưa hay poncho) phủ lên đống củi giữ cho củi khô ráo khi trời mưa. Thật là lịch sự biết bao nếu trại sinh để lại một bó củi gọn gàng cho những trại sinh đến sau!
 
 
BỮA ĂN Ở TRẠI
 
Vật dụng cần thiết để nấu nướng ở trại là xoong, chảo, ấm, muỗng, nĩa, đũa... Một miếng nhôm cuốn tròn rất đa dụng, có thể thay thế cho xoong để nấu nướng nhiều món ăn rất ngon miệng. Một hộp thiếc đựng bánh bích-qui có thể dùng nấu nướng rất hữu dụng. Trại sinh đào một lỗ trên một bờ đất và treo hộp không trong lỗ ; đào một ống dẫn khói từ thành của lỗ lên mặt đất để khói thoát ra cũng như tạo ra một luồng gió thổi vào. Sau đó, trại sinh nhóm lửa dưới hộp. Trại sinh có thể nấu nướng thức ăn trong loại lò này rất thành công. Nếu có đủ vật liệu cần thiết, trại sinh có thể dùng loại lò này nướng bánh (bánh bông lan chẳng hạn).
 
Phải nhóm lửa trước khi nấu nướng chừng 15, 20 phút. Thường trại sinh nên nấu nước dùng trước. Trại sinh nhớ phải dự bị sẵn hai miếng vải dày, có thể dùng bao tay bằng da, để nhắc nồi xuống.
 
Một bánh xà bông cỡ nắm tay sẽ tiết kiệm cho trại sinh rất nhiều thời giờ và công việc. Hãy ngâm cho mềm một mẩu xà bông trong nước (ít nước thôi). Trước khi đặt nồi lên bếp, hãy thoa một lớp xà bông ngâm nước ở trên lên mặt ngoài của nồi. Công việc rửa sạch nồi niêu xoong chảo sẽ dễ dàng gấp bội nhờ lớp xà bông này. Người đầu bếp phải có một mảnh plastic hay vải để trải lên đất dùng bày biện khi nấu nướng.
 

Vấn đề món ăn ở trại tùy theo tài chính và sự nấu nướng của đầu bếp. Nếu đầu bếp không vụng quá, bữa ăn ở trại rất ngon và thú vị. Nếu tài chính cho phép, bữa điểm tâm dùng trứng, thịt mỡ với bánh mì. Bánh mì đem theo dễ dàng nhưng khi dùng cần nướng khô lại. Trứng rất dễ nấu nướng và bổ ích. Bữa trưa và bữa chiều dùng cơm với thịt nấu canh kho hay chiên... tùy tài nấu nướng và sáng kiến của từng người. Trước khi ngủ có thể dùng bữa nhẹ lót bụng nhưng đừng nấu chè (nhất là chè đậu xanh), ăn vào dễ bị đau bụng.
 
Thực phẩm đem theo có thể bao gồm: bánh mì, gạo, thịt ướp lạnh, trứng (cẩn thận khi đi đường), các loại thức ăn nguội hay đồ hộp. Thực phẩm cần phải xếp vào bao không thấm nước treo lên cành cây gần lều hay đặt lên giá do trại sinh đóng. Các loại thực phẩm cần giữ cho tươi như trứng, rau cải, bơ, sữa... nên cho vào những "tủ lạnh" thiên nhiên. Trứng, bơ, rau cải... được xếp vào một thùng thiếc và trại sinh đem đặt dưới dòng suối hay rạch nước. Nhớ đặt chỗ nông và để lên trên hộp một hòn đá khá nặng để hộp không bị trôi đi. Nếu không được như trên, tất cả cũng được xếp vào một hộp thiếc, đặt chìm sâu trong đất.
 
 
VỆ SINH SỨC KHỎE AN TOÀN
 
Nếu không có gì trở ngại, trại sinh nên thường rửa ráy, vào buổi chiều tối, nhưng ít nhất trại sinh phải lưu ý đến bàn chân của mình hàng ngày. Phải rửa chân bằng nước ấm, lau khô cẩn thận, thoa một lớp phấn hoạt thạch (phấn thoa cho trẻ em) để không bị đau hay bỏng chân. Trên đất trại, trại sinh đừng mang bít-tất cũng như vớ. Nhưng khi đi dạo, ngoạn cảnh... trại sinh phải mang vớ sạch sẽ và thoáng khí. Trại sinh cũng nên thoa bóp bàn chân với dầu và giữ cho móng chân ngắn.
 
Ở những nơi có khí hậu nóng, nhiều bụi, trại sinh phải lưu ý đến đôi mắt của mình. Hãy săn sóc mắt bằng cách rửa mắt trong nước muối ấm, đeo kính mát nếu cần. Mũ và khăn quàng giúp cho trại sinh không bị say nắng và nhức đầu. Hãy đội nón và kéo khăn quàng che kín gáy sau ót. 
 
Trại sinh phải giữ cho đất trại luôn sạch sẽ. Những giấy thừa, rác rến nên đốt đi, đốt từ chút một, đừng dồn thành đống thật lớn rồi đốt một lần dễ gây hỏa hoạn. Hoặc đào một lỗ làm nơi đổ rác cho trại. Trước khi rời đi, trại sinh phải lấp lỗ lại và dậm thật mạnh. Những lon đồ hộp đã dùng hết, trại sinh phải đập cho bẹp đi và chôn. Thức ăn dư thừa nên sấy khô và đốt cháy trong đống lửa. Nếu nơi cắm trại có sẵn thùng đựng rác rến, thức ăn thừa, hãy đổ đồ dư nhà bếp vào đó. Không bao giờ chôn thức ăn dư thừa hay những món khác ở nhà bếp vì thú vật sẽ đào bới lên.
 
Trại sinh cũng phải dự bị sẵn chỗ để tống cặn bã trong người ra.
 
Trại sinh phải đào một cầu tiêu cho trại. Cầu tiêu sâu chừng 7, 8 tấc và đường kính khoảng 3 tấc, ở xa nơi dựng lều và nơi cung cấp nước dùng cho trại.
 
Nước uống phải hợp vệ sinh. Tốt nhất, trại sinh nên dùng nước đun sôi. Trước khi dùng, hãy đổ nước qua lại để không khí luồn vào nước làm cho nước có mùi vị dễ chịu và uống dễ tiêu. Có thể dùng thuốc tím hay thuốc viên làm sạch nước. Đừng bao giờ uống nước sông, nước suối trừ phi đã được đun sôi hay khử trùng.
 
Trong bất kỳ loại trại nào, trại sinh phải đem theo một hộp cứu thương. Ngay cả trường hợp chỉ có một, hai người đi cắm trại trong một hai ngày cũng phải có hộp cứu thương. Hộp cứu thương phải luôn luôn ở trong tình trạng sẵn sàng sử cụng, đừng bao giờ đóng khóa cũng như mở toang ; hãy gài lại sao cho không đổ khi đi hay chạy và mở ra dễ dàng. Một hộp cứu thương gồm có : Vài mảnh vải, bông gòn sát trùng, từ 5 đến 10 băng dính có thuốc sẵn, một chai thuốc sát trùng, một hộp pô-mát chữa bỏng và các vết thương do côn trùng gây ra, một cuộn vải the sát trùng, băng keo, một cây kim và những loại thuốc trị nhức đầu, đau bụng, cảm, trầy trụa. Mỗi trại sinh phải luôn có trong túi một hay hai băng dính có thuốc sẵn. Trên hộp cứu thương phải có danh sách bác sĩ, y tá và điện thoại cảnh sát gần đó với đầy đủ địa chỉ và số điện thoại nếu có. Danh sách này phải được cập nhật hóa lại cho đúng trước khi bắt đầu dự trại.
 
Đi trại rất thích thú nhưng cũng nhiều nguy hiểm. Trại sinh có thể gặp thú dữ, các loại bò sát và côn trùng nhưng thường trại sinh sẽ thấy những con thú bè bạn như nai, hươu, thỏ... Một nguy hiểm thường xảy ra do chính trại sinh gây nên : đi lạc. Vì tò mò, vì tìm hiểu trại sinh đi xa khu đất trại và lạc. Khi bị lạc, rất nhiều nguy hiểm đối diện với trại sinh và trại sinh cần bình tĩnh ứng phó với tình thế. Người ta thường bảo "phòng hỏa hơn cứu hỏa", nên trại sinh cố tránh bị lạc thì tốt hơn. Trước hết, trại sinh phải tìm hiểu rõ đất trại nhờ bản đồ phân định rõ ràng đất trại, nhờ cảnh vật thiên nhiên như dòng suối, con sông, đường sá, những cao điểm hay những dấu hiệu đặc biệt khác. Mỗi trại sinh nên có một bản đồ khu đất trại và vùng lân cận trong túi. Trại sinh đừng đi xa một mình. Tốt hơn là tối thiểu phải đi từng nhóm 3 người. Nếu một người bỗng ngã bệnh hay bị thương không đi được, một người sẽ ở lại săn sóc tạm thời và một người chạy về báo tin cầu cứu. Mỗi trại sinh cần mang sẵn những vật dụng đề phòng khi bị lạc như : địa bàn, dao bỏ túi, đèn bấm, một cái còi nhỏ, vài sợi dây nhẹ, chắc, vài lưỡi câu đựng trong hộp, một nến lửa và túi vệ sinh cá nhân.
 

Trong trường hợp bị lạc, trại sinh phải bình tĩnh, ngồi xuống nghỉ mệt và cố nhớ lại sự việc xảy ra. Sau đó lấy bản đồ ra, xác định lại các dấu hiệu của thiên nhiên, nhờ địa bàn tìm ra phương hướng để đi tới một đường rầy hay đường xe chạy gần nhất. Lúc ấy coi như là thoát. Không việc gì phải sợ sệt. Nếu không chắc chắn tìm ra lối đi, hãy ở lại chỗ đang ngồi và dựng một  chỗ trú tạm thời. Nhóm lửa sưởi ấm và bắt đầu làm dấu hiệu bằng khói từng chập một (bằng dấu hiệu Morse). Thổi còi và chờ đoàn tìm kiếm sắp đến và nhớ : bình tĩnh.
 
Ở khu đất trại có chỗ bơi lội cho trại sinh rất tốt. Nhưng không để trại sinh bơi một mình. Đừng lặn chỗ nước lạ. Đừng bơi sau bữa ăn. Nếu trại sinh học chèo thuyền thì hãy nhớ nếu thuyền lật, đừng bỏ thuyền để bơi vào bờ, tốt hơn nên bám vào thuyền chờ người ra cứu.
 
Trại sinh luôn luôn cẩn thận và tuân theo kỷ luật trại để đem an toàn cho bản thân.
 
 
SINH HOẠT TRẠI :
 
Đi dự trại không phải chỉ nhằm ăn, ngủ mà nhằm phát triển tài năng, tài ứng biến, tìm hiểu thiên nhiên và sống cộng đồng. Sinh hoạt trại rất quan trọng và tùy thuộc mục đích của trại : trại của người đi du khảo, trại của người leo núi, trại của gia đình hay trại của đoàn thể thanh thiếu niên, của học đường. Nhưng, một cách tổng quát trại được tổ chức để trại sinh học hỏi và trắc nghiệm những hiểu biết đã thu thập được ở học đường hay đoàn thể. Để thích hợp, giả sử sinh hoạt nói ở đây là sinh hoạt của một đoàn thể thanh thiếu niên. GĐTN chẳng hạn. Người thiết lập chương trình phải chú ý đến yếu tố nói trên là giờ sinh hoạt chỉ nhằm ôn lại và khảo sát sự thu thập của trại sinh những kiến thức được trình bày ở những buổi sinh hoạt trước. Đừng bao giờ dạy bài ca mới, trò chơi mới, bài học tập mới ở các kỳ trại. Trại sinh sẽ hấp thụ thêm lối sống giữa thiên nhiên ở những kỳ trại mà thôi. Những điều mới lạ trong lối sống mới làm trại sinh bối rối rất nhiều, đừng bắt họ đa mang thêm nhiều rắc rối khác.
 
Chương trình sinh hoạt phải có đủ loại từ trò chơi cần cố gắng của trại sinh cho tới sinh hoạt yên lặng, nhẹ nhàng. Những môn thể thao, giải trí lành mạnh cũng nên sắp vào chương trình. Ngoài ra cũng nên tổ chức những giờ đi dạo, ngoạn cảnh, tìm hiểu đời sống thiên nhiên. Khi di chuyển phải đi theo hàng một và cẩn thận. Thường trong mỗi kỳ trại, một trò chơi lớn được mọi trại sinh chú ý. Trò chơi lớn đòi hỏi tinh thần tháo vát, mọi khả năng của mọi trại sinh. Trong trò chơi lớn, trại sinh phải hiểu biết về mật mã, dấu đường, dấu vết để lại... phải tỏ ra nhanh nhẹn tháo vát. Tóm lại, trước khi tham dự trại, trại sinh phải thu thập một cách khá đầy đủ những kiến thức được trình bày từ trước.
 
Một yếu tố đóng góp vào sự thành công của trại là tinh thần cộng tác và sự hiểu biết giữa ban quản trại và các trại sinh. Ban quản trại phải hoạch định thật rõ ràng chương trình của trại từ giờ lên đường cho tới lúc trở về. Không thể bảo rằng ban quản trại sẽ tùy cơ ứng biến để tạo bất ngờ cho trại! Chính trại sẽ gây ra rất nhiều bất ngờ mà ban quản trại phải ứng phó rất chật vật, đôi khi đem tới sự đổ vỡ cuộc cắm trại. Đừng tự mình gây thêm sự thất bại cho mình. Hơn nữa, nếu không hoạch định sẵn một chương trình minh bạch được sự đồng ý của toàn thể ban quản trại, các nhân viên trong ban quản trại sẽ vô tình chống đối nhau, không có sự thống nhất cần thiết. Ông nói gà, bà nói vịt. Trại sinh không biết nghe ai đây và sẽ không thèm nghe lời ai cả!
 
Ban quản trại cần trình bày rõ đất đai, lộ trình, mục đích trại, tài chánh, chương trình sinh hoạt... Ban quản trại phải thiết lập danh sách vật dụng cần thiết và phân chia cho mỗi đội, mỗi trại sinh thi hành một cách công bằng. Ban quản trại phải trình bày rõ ràng kỷ luật trại và thi hành thật chu đáo. Đừng để cho trại sinh có những hành động như ngắt hoa, bẻ trái, đi la cà các hàng quán ăn uống bừa bãi, tự ý xông vào những chỗ có bảng cấm hoặc chỗ nguy hiểm, rời đất trại một mình không thông báo... Ban quản trại phải trừng phạt và khen thưởng ngay lúc xảy ra nhưng nhớ đừng chạm vào tự ái của các trại sinh, nghĩa là khi trừng phạt nên nói chuyện ôn hòa cho trại sinh biết lỗi lầm của mình và khuyên bảo hãy ý thức về hành vi của mình (nếu cần đừng trừng phạt trước mặt đám đông). Con người ai cũng có tự ái, chỉ có thú vật, thần thánh mới không có hay dẹp bỏ được lòng tự ái mà con người không là thú vật cũng chẳng phải là thần thánh, con người là con người. Ban quản trại đừng bao giờ áp dụng kỷ luật khắt khe quá, hãy chú trọng đến kỷ luật tự giác. Một khi trại sinh ý thức được hành vi của mình ảnh hưởng đến an ninh chung và sự thành công của trại thì trại sinh sẽ tự khép mình vào kỷ luật. Nhiệm vụ của ban quản trại là ăn nói làm sao, hành động làm sao cho trại sinh ý thức chớ đừng bó buộc.
 
Đối với trại sinh cũng vậy. Trại sinh có bổn phận hiểu biết tường tận về đất trại, lộ trình... nếu có thắc mắc hay ý kiến cần trình bày thẳng thắn cho ban quản trại. Hãy luôn luôn nhớ rằng không có chương trình nào, ý kiến nào hoàn toàn cả. Dù đó là ý kiến của người giỏi hơn mình. Trại sinh phải tuân theo kỷ luật trại, đừng tự do hành động quá trớn. Trại sinh phải biết sử dụng quyền tự do của mình đúng lúc, đúng chỗ.
 
Một khi đã bằng lòng tham dự trại thì trại sinh phải thi hành kỷ luật trại. Đừng lấy tự do hành động chống đối tự do lựa chọn. Trại sinh phải nhớ rằng kỷ luật trại đặt ra nhằm giữ an ninh chung của trại, trong đó có trại sinh, và đem đến sự thành công của trại. Trại sinh phải luôn luôn ý thức về hành vi của mình trong đoàn thể.
 
Cắm trại là một sinh hoạt rất thích hợp cho thanh thiếu niên. Đó là một vinh dự của những người thích đời sống tập thể, mến cảnh vật thiên nhiên. Thiên nhiên dành cho mọi người. Trại sinh phải bảo vệ và giữ gìn thiên nhiên luôn được sạch sẽ và tươi tốt. Hãy cẩn thận với lửa. Hãy dọn dẹp sạch sẽ đất trại trước khi rời đi. Hãy chắc chắn mọi lỗ hang đều được san phẳng. Đừng lưu lại một dấu vết gì, một vật gì. Trại sinh chỉ gửi lại lời cám ơn chủ đất và sự cảm mến trong lòng mọi người. Một ngày nào đó trại sinh sẽ tham dự được một cuộc cắm trại khác lớn hơn, thích thú hơn và càng ngày càng vui thích đời sống ở trại.
 
 
PHAN BÁ       
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 99, ra ngày 22-7-1973)
 

Thứ Ba, 1 tháng 7, 2025

Mưa Trong Mắt Nai


Ánh nắng buổi chiều lướt thướt trên dải nước hiền hòa phẳng lặng, rồi bay đậu trên những chòm cây quanh bờ. Những hàng thông xõa tóc chụm đầu vào nhau thì thầm, soi mình xuống chiếc kính màu xanh ngọc thạch của mặt hồ như những nàng thiếu nữ đang nỉ non tâm sự để mặc mái tóc nhung tơ quyện trong gió chiều hiu hắt. Giọng hát của Trang ngân lên véo von như tiếng hót của một cánh chim họa mi nhỏ bé, ngọt ngào như hương vị của một thứ trái cây đầu mùa, tinh khiết như những hạt sương buổi sáng trên đồi. Như dòng suối nhỏ len lỏi qua những viên đá cuội trắng trẻo, tiếng hát của Trang tưới lên hồn tôi những âm thanh thanh thoát tuyệt vời. Tôi có cảm tưởng như mình đang lạc vào thế giới thần tiên diễm ảo của tuổi ấu thơ. Hồn mình đang chơi vơi bay bổng trên vùng trời xanh mơ phủ đầy nắng lụa thơm tho. Rồi bỗng nhiên tiếng hát dịu dần và im hẳn, như lắng xuống đáy hồ sâu thẳm mà dư âm vẫn còn vướng đọng trong trái tim tôi. Tôi bảo cô bé:

- Chị không ngờ em hát hay đến thế.

Trang mỉm cười nhìn tôi nửa như hãnh diện nửa như hờn dỗi. Đôi mắt cô bé ươn ướt và ngơ ngác như đôi mắt của chú nai tơ. Tôi yêu đôi mắt cô bé vô cùng. Trang chợt quay sang hướng khác, nhìn xa xăm rồi nói :

- Chị khen làm em nhớ ngoại ghê.

Tôi hơi tò mò :

- Sao vậy em, em có thể kể chuyện ngoại cho chị nghe với được không ?

- Dạ được.

Cô bé lặng thinh một lúc khá lâu như cố ôn lại từng chuỗi ngày quá khứ của mình, rồi bắt đầu kể:

- Ngày xưa, ông ngoại em còn sống, chúa nhựt nào ngoại cũng dẫn em đến đây câu cá. Ngoại thường ngồi trên phiến đá nhỏ dưới gốc thông kia, em ngồi bên cạnh. Ngoại thường bắt em hát cho ngoại nghe những bài cô giáo em dạy. Ngoại thích nhất bài "Mưa trong mắt nai" mà em vừa hát cho chị nghe đó. Mỗi lần em hát xong, ngoại thường khen hay và thưởng cho em mấy đồng bạc. Hôm nào không có tiền, ngoại lên đồi hái cho em một cành hoa thật đẹp. Cho đến bây giờ em vẫn chưa quên được một kỷ niệm đầy nước mắt giữa ngoại và em.

Buổi chiều hôm đó, sau khi hát cho ngoại nghe xong, em lăng xăng chạy đến từng gốc thông như một con chim sẻ nhặt những quả thông rụng màu đen thẫm, chất thành đống bên cạnh ngoại. Em hỏi : 
 
- Con bán hàng nghen ngoại ? Ngoại làm bộ mua hàng nghen ?

Mặc dù đang câu ngoại cũng nhìn sang em, tỏ vẻ tán thành.

- Đây là những trái măng cụt nghe ngoại. Ngoại phải mua bằng tiền thật đó.

Rồi em bắt đầu rao hàng :

- Cụ ơi cụ, măng cụt ngon lắm đây, mới đem từ Saigon về đó. Người ta cháu bán mười đồng một trái, còn cụ, cháu chỉ bán năm đồng thôi. Cụ mua dùm cháu đi, cháu bán mở hàng cho cụ mà.

- Cháu bán cho ngoại hai trái đi.

- Hổng phải vậy đâu. Ngoại phải nói "Cô bán cho tôi hai trái đi" chứ !

- Ừ ! Thì cô bán cho tôi hai trái đi chứ. Gớm, cô bán hàng này sao khó tính ghê !

- Ngoại chọc con, con hổng thèm chơi nữa đâu.

- Đâu có, ngoại có chọc con hồi nào đâu. Thôi ngoại nói lại nha: "Bán cho tôi hai trái đi cô. Bớt hai đồng được không ?"

- Dạ không, cháu nói thật giá đó cụ, cháu không nói thách đâu. Măng cụt này ngon lắm mà, cụ về ăn thử xem.

Nói xong em lấy một miếng lá em vừa ngắt lúc nãy, gói hai quả thông lại đưa cho ngoại. Ngoại cười cầm lấy bỏ vào túi. Ngoại không quên móc một tờ giấy bạc mười đồng trao cho em. Em bỏ tiền vào túi và mời ngoại mua nữa. Ngoại bảo :

- Gớm ! Con bé này sao cứ muốn lấy tiền của ngoại hoài. Ngoại hết tiền rồi con ạ. Thôi con đến chổ khác chơi đi, để ngoại câu cá.

Em dỗi :

- Ngoại đuổi con hả. Thôi, con hổng chơi với ngoại nữa đâu. Con ghét ngoại rồi đó.

Nói xong, em bỏ ngoại ngồi câu một mình. Ngoại tưởng em nói đùa, chứ ngoại đâu biết em giận ngoại thiệt tình. Sao mà lúc đó em hư thế không biết. Em đi thật xa vào rừng thông, chọn một gốc cây thật lớn, ngồi xuống đó để ngoại khỏi thấy. Em nghĩ trong bụng, em sẽ không thèm đi câu với ngoại nữa đâu. Ai biểu ngoại không thương em chi. Ngoại không thương em thật mà. Ngoại chẳng đuổi em đến chổ khác chơi là gì. Em định đem mười đồng trả lại cho ngoại, hổng thèm lấy tiền của ngoại nữa. Nhưng em chợt nghĩ đến má, chắc lâu lắm má mới về, mình đâu có tiền ngày mai đến trường ăn quà. Thôi, cứ lấy đại đi. Nhưng em vẫn còn giận ngoại hoài. Lần này phải giận thật lâu mới được. Em phải để ngoại năn nỉ hết nước miếng mới thôi.

Em thấy buồn tủi quá và chợt nghĩ đến thân phận của mình. Em có sáu người anh người chị cả thảy. Nhưng tất cả đều mất từ khi mới lọt lòng mẹ hay được một vài tuổi. Em là đứa con duy nhứt còn sống sót của má. Từ ngày sinh em ra, má đau bịnh luôn. Cho đến năm em bảy tuổi má vẫn không sanh được một người con nào nữa. Ba em muốn có con trai để nối dõi tông đường. Thế là gia đình em lại thêm một phần ăn nữa. Rồi một đứa con trai ra chào đời. Từ ngày có sự hiện diện của dì em trong gia đình, em thấy không khí ngột ngạt khó thở chi lạ. Tình thương của Ba em không còn trọn vẹn dành riêng cho em nữa. Má em trở thành một kẻ thừa thãi trong gia đình. Hai năm sau, một đứa bé gái khác ra đời, và cứ thế tiếp tục một cách đều đặn. Cứ mỗi lần một đứa bé ra chào đời là em thấy tình thương của ba em dành cho em vơi dần đi như một dòng sông trước khi chảy ra biển, chia ra nhiều cửa, càng nhiều cửa sông, thì lưu lượng càng yếu. Gia đình đối với em không còn là một mái ấm nữa. Em thấy em mất mát rất nhiều những gì thiêng liêng êm ấm nhất. Em trở thành xa lạ trong cái không khí quen thuộc đó. Má em cũng chỉ là cái bóng mờ bên cạnh người chồng của mình. Những buổi chiều đi học về, em thường lê la bên vệ đường, tìm những cánh hoa dại ép vào lòng trang sách để kéo dài thời gian về nhà. Em yêu nhất là loài hoa bươm bướm trắng, cánh nó như cánh bướm, toàn một màu trắng tinh khiết trông thật xinh chị ạ. Cũng có những cánh hoa màu đỏ, màu hồng... nhưng em không thích mấy.

Chỉ có những bữa cơm là lúc gia đình em đoàn tụ bên nhau thôi. Và cũng chính lúc đó em thấy chán nản, khó chịu nhất. Hình ảnh một người cha dịu dàng, khả kính ngày xưa, bây giờ không còn nữa, mà thay vào đó bằng cái vẻ nghiêm khắc, hằn học. Khoảng cách giữa cha em và mẹ con em càng ngày càng xa. Em có cảm tưởng em và những đứa em cùng cha khác mẹ của em là những dòng nước, ba dì em và mẹ con em là hai bờ đê.

Những dòng nước ngày càng nhiều, cho đến một hôm làm vỡ hai bờ đê. Sau một trận cãi vả vì một nguyên nhân cỏn con do dì em gây ra, ba má em vĩnh viễn xa lìa nhau.

Má dắt em về sống với ngoại, như một chiếc lá vàng rơi xuống cội nguồn, như một cánh chim tìm về tổ cũ. Về đây, tưởng được hưởng những ngày tháng êm đềm, hạnh phúc. Không ngờ, đó chẳng qua là một nhà tù thứ hai mà thôi. Cậu mợ em, các anh chị của em đã coi mẹ con em như những con chó ghẻ, sống bám, ăn nhờ. Có nhiều đêm má ôm em vào lòng ấp ủ mà nước mắt xối xả trên mái tóc em như những dòng suối thương yêu tưới lên tâm hồn bé bỏng. Em cũng khóc theo. Hai mẹ con nỉ non và thức trắng đêm. Có nhiều đêm má nói với em: "Nếu không có con chắc má chết lâu rồi. Con là lẽ sống. Con là niềm hy vọng duy nhứt của má". Rồi má đặt lên trán em một nụ hôn thật dịu dàng, thơm ngát hương yêu. Em ôm hôn trên mắt má và uống những giọt lệ đang lăn dài trên mặt má em “Má biết không, con yêu má nhứt trên đời. Con yêu ngoại nữa cơ. Mai mốt lớn lên, con sẽ làm cô giáo làng để kiếm tiền nuôi má nha. Chiều chúa nhựt, con sẽ dẫn má đi ăn kem ở Hồ Xuân Hương. Kem ở đó ngon lắm má ơi. Nhưng con chưa ăn lần nào hết. Má khẽ mắng yêu em "Gớm ! Con của má xạo ghê". Em mắc cỡ ghê là, ôm chặt lấy má, như sợ má có thể biến mất đi dược. Em đưa tay măng vú má. Ôi ! Hai nguồn sữa thiêng liêng đã nuôi em hơn mười năm trời nay, bây giờ héo úa như hai quả cam bóng lưỡng đã bị vắt hết nước chỉ còn lại hai cái xác xép ve. Em thương má vô cùng, nhưng không biết làm sao diễn tả tình thương ấy được, nó bao la quá, thâm sâu quá, to rộng quá. Còn em thì nhỏ bé như một chú mèo con. Cánh tay em làm sao che chở được cuộc sống cho má. Còn ba, cánh tay ba đang ôm ấp một hình ảnh khác. Ba không còn là của má nữa, ba không còn là của em nữa. Em thấy tủi thân vô cùng. Ba ơi, Ba có biết con đang cần ba lắm không ?

- Ba ơi ! Ba ơi !

Em bật kêu thành tiếng và em đã khóc tự lúc nào không hay.

Có tiếng chân ai dậm trên những phiến lá vàng kêu xào xạc, làm em giật mình quay lại. Thì ra ngoại, em muốn chạy lại ôm chầm lấy ngoại như cầu cứu một sự che chở. Nhưng em... vẫn còn giận ngoại, nên em vờ quay mặt đi nơi khác. Ngoại chạy lại ôm chầm lấy em, đưa tay vuốt mái tóc đen huyền của em. Bàn tay ngoại xương xẩu, nhưng lúc ấy em thấy ấm êm vô cùng.

- Sao bé Trang của ngoại lại khóc thế này ? Con giận ngoại phải không ? Ngoại kêu hoài mà chẳng nghe con trả lời. Ngoại sợ muốn chết, bỏ cần câu ở đó đi kiếm con đây này. Sao con đi xa thế ? Không sợ ma à ?

Em nũng nịu :

- Ai biểu ngoại hổng thèm chơi bán hàng với con làm chi.

- Ngoại xin lỗi bé mà. Tại ngoại...

- Tại ngoại hổng thương con phải hông ?

- Không phải đâu. Ngoại không thương Trang thì ai thương bây giờ. Ngoại thương con nhất trên đời, con không biết sao. Tại ngoại hết tiền rồi con ạ.

Bổng nhiên em thấy thương ngoại vô cùng. Ngoại hết tiền thật sao ? Phải rồi, em nhớ lại buổi chiều hôm qua, ngoại thèm trầu ghê lắm mà ngoại không dám mua. Ngoại đã dối em, ngoại nói: "Thôi để hôm nào má con về, má con mua cho ngoại cũng được". Từ ngày về ở với ngoại, má em đã bớt bịnh và đi buôn tận Saigon, nửa tháng hoặc có khi cả tháng mới về thăm nhà một lần. Mỗi lần về, má thường mua măng cụt cho ngoại. Ngoại thích ăn măng cụt ghê lắm. Mà em cũng thích nữa. Vỏ măng mầu tím sẫm làm nỗi bật những múi măng trắng tựa bông gòn. Ăn vừa ngọt vừa thơm. Một vẻ ngọt dịu thanh chứ không gắt. Không lần nào má quên mua trầu cau về cho ngoại. Ngoại bảo cau Saigon ngon hơn cau ở đây (?). Em thích ngồi nhìn ngoại ăn trầu. Môi ngoại lúc ấy đỏ như thoa son, gương mặt ngoại hình như cũng hồng thêm, mắt ngoại sáng hơn và hình như tinh thần ngoại thanh thản hơn. Em thường giành lấy việc xoáy trầu cho ngoại. Ngoại có một cái ống xoáy làm bằng vỏ đạn, màu vàng sáng choang. Em bắt chước má têm trầu rồi đặt vào trong ống xoáy, lấy chìa xoáy cho đến khi sắc lá xanh tươi biến thành màu đỏ thẫm, và nước trầu ứa ra sền sệt, em đưa cho ngoại. Lần nào em xoáy trầu ngoại cũng khen ngon hơn trầu do các anh chị con cậu em xoáy. Những lúc đó em thấy trong lòng mình bỗng rực sáng, rộn rã tiếng chim trong lồng tim nhỏ bé. Ngoại nhìn em bằng ánh mắt vừa dịu dàng, âu yếm vừa hãnh diện, tin yêu.

Thế mà hôm qua đi học về, vừa cất tập xong, em chạy vô định têm trầu cho ngoại, thì cơi trầu chẳng còn lá nào, cau cũng hết nhẵn. Em nói với ngoại :

- Ngoại ơi ! Trầu của ngoại hết rồi hả ? Ngoại đưa tiền con đi mua.

Ngoại bảo em :

- Thôi con ạ ! Ngoại không ăn trầu nữa đâu.

- Sao vậy ngoại ?

- Tại ngoại không thích nữa... Nhưng để vài hôm má con về, má con mua cho ngoại cũng được.

Lúc đó, thú thật em không hiểu được ý ngoại, em cứ tưởng ngoại không thích ăn trầu thật. Ai ngờ, ngoại đã hết nhẵn tiền rồi. Bây giờ ngoại nói em mới biết. Vậy mà sáng nào ngoại cũng để dành cho em năm đồng. Mười đồng bạc hồi nãy chắc là mười đồng cuối cùng còn sót lại trong túi ngoại, ngoại đưa hết cho em, vậy mà em còn giận hờn ngoại. Mỗi lần má em về má em đưa cho ngoại vài trăm để tiêu, má dặn ngoại cho tiền quà em ít thôi. Vậy mà ngoại cho em mỗi sáng đến năm đồng, có khi em tiêu chẳng hết. Còn ngoại thì chẳng có trầu để ăn. Cậu mợ em chỉ cho ngoại cơm ngày hai bữa thôi. Em chưa thấy cậu mợ em đưa tiền ngoại tiêu bao giờ. Vậy mà... Em chẳng thương ngoại gì hết. Còn giận hờn ngoại nữa. Em thấy mình có lỗi với ngoại vô cùng.

Ngoại ơi ! Con xin lỗi ngoại. Vì con không hiểu nên đã làm ngoại buồn. Em muốn nói với ngoại như thế, nhưng không hiểu sao lưỡi em hình như ríu lại, môi em mấp máy mà chẳng ra lời. Và nước mắt từ đâu bỗng ứa ra tràn trề trên khóe mi em, càng lúc càng nhiều như một dòng thác đang ào ạt chảy.

Em móc trong túi ra tờ giấy bạc mười đồng đưa cho ngoại. Ngoại nhìn em bằng nụ cười héo hắt:

- Không ! Con cất đi. Mai ăn quà, ngoại cho con đấy.

Em dúi tờ giấy bạc mười đồng trong tay ngoại.

- Ngoại cất đi, mai con mua trầu cho ngoại. Con còn tiền đây này.

Em chợt thấy trong đôi mắt ngoại, có đọng hai giọt sương nho nhỏ.

- Trang, con còn giận ngoại không ?

- Dạ không.

- Đừng giận ngoại nghe con.

- Con... Con... Thương ngoại nhiều lắm, ngoại biết không ? Con thương má nữa ngoại ơi. Tội nghiệp má quá. Không biết chừng nào má mới về hả ngoại ?

- Ngoại cũng không biết nữa.

Đôi mắt ngoại bỗng rực sáng như hai vì sao. Hình như ai đã đặt vào đó hai ánh nến của cây thương yêu. Em nhìn thật lâu vào đôi mắt ngoại, nghe một niềm vui mở rộng trong hồn, ấm áp vô cùng. Ngoại ơi !Con muốn đứng hoài trong vòng tay xương xẩu của ngoại, và tắm hoài những giọt mưa thương yêu rơi từ đôi mắt bao dung của ngoại. Ngoại ơi, con thương ngoại vô cùng, ngoại biết không hở ngoại ?

Nhưng rồi bàn tay ấm áp bao dung đó không che chở em suốt cuộc đời được, ngoại đã ra đi vào một buổi tối mùa đông.

Em còn nhớ rõ cách đó mấy hôm, vào một buổi trưa, ngoại ăn cơm, lỡ tay làm bể một cái chén kiểu. Cậu mợ em nặng lời với ngoại. Thật ra, thì cậu em ít quan tâm đến vấn đề ấy, nhưng vốn tính hay nể vợ, nên ông đã nặng lời với ngoại. Ngoại lặng thinh không trả lời một tiếng nào, bỏ đũa đứng dậy vô giường nằm. Em chạy theo ngoại. Em thấy mắt ngoại đỏ hoe, người ngoại rung lên. Em ôm cánh tay ngoại như một loài dây leo bám víu trên cành cây cổ thụ. Ngoại vuốt tóc em và bảo :

- Chắc ngoại phải đi xa con ạ. Ngoại không thể nào ở đây được đâu.

- Ngoại đi đâu cho con theo với nha ngoại. Ở đây một mình con sợ cậu mợ lắm, má con đi rồi, ngoại cũng đi nữa, con ở với ai ?

- Ngoại đi đến một nơi thật xa, xa ghê lắm, không ai có thể tìm được. Con cứ ở đây với cậu mợ rồi mai mốt má con về.

- Con sợ lắm ngoại ơi.

- Chỉ vài hôm là má con về ngay mà.

- Sao ngoại biết được ? Má nói với con là má đi lâu lắm mới về kia mà.

Ngoại quay mặt sang hướng khác, ngoại không dám nhìn em nữa, môi ngoại mấp máy nhưng ngoại chẳng nói được lời nào. Em không ngờ đó là lời trối trăn của ngoại. Em đâu biết được nơi ngoại đến là một thế giới vô hình, ngàn đời em không tìm lại được. Em cứ ngỡ rằng ngoại sẽ đến ở nhà một người bà con nào đó, dù xa nhưng em cũng có thể đến thăm ngoại được. Hôm sau, đi học về, em vẫn thấy ngoại nằm. Em tưởng ngoại đã thay đổi ý kiến, ngoại sẽ không đi đâu nữa hết. Em mừng thầm trong bụng, và không dám nhắc đến chuyện ấy nữa, sợ nhớ ra, ngoại sẽ xa em. Nhưng đến bữa ăn, ngoại vẫn nằm im trong giường không thèm ăn. Em năn nỉ hoài, ngoại vẫn nhất định không ăn. Ngoại bảo ngoại mệt trong người lắm, ăn không được. Lúc đầu cậu em cũng không mấy quan tâm, nhưng sau cậu có vào xin lỗi ngoại, ngoại chỉ khóc chứ không nói lời nào. Mợ em vẫn không mảy may xúc động, không thèm hỏi han lấy một tiếng. Ngoại em càng thấy tủi thân. Và thêm cái mặc cảm ăn hại gia đình cậu mợ em đè nặng lên người ngoại, khiến ngoại càng buồn rầu thêm.

Ba hôm sau thì ngoại em trút hơi thở cuối cùng. Lần đầu tiên em chứng kiến cái chết của một người thân yêu nhất đời mình. Má em bận đi buôn xa, không hề hay biết gì hết. Ngay từ lúc ngoại em xuôi tay là em thấy mình lạc lõng vô cùng trong cái gia đình nhỏ bé nhưng xa lạ đó. Em thấy không còn một liên hệ gì nữa hết đối với những người chung quanh.

Đám ma ngoại em cử hành một cách thật đơn giản. Ngoài gia đình cậu mợ em, em, chỉ có một vài người trong họ và các cô bác trong xóm thôi. Má em vẫn chưa về được, vì không ai biết má ở đâu. Mà có biết chắc cậu mợ em cũng chẳng buồn cho má em hay. Ba em hay tin ngoại qua đời ông vẫn không thèm đến. Bữa đưa đám, mợ em khóc nhiều hơn ai hết. Mợ em vừa khóc vừa kể đủ điều để chứng tỏ lòng hiếu thảo của mình to rộng đến dường nào. Cậu em cũng khóc nhưng khóc ít hơn.

Em chạy theo bốn người khiêng hòm, vừa khóc vừa la, vừa níu kéo :

- Mấy ông khiêng ngoại tôi đi đâu vậy ? Để ngoại tôi ở nhà với tôi chớ ! Sao mấy ông ác quá vậy ? Má tôi vẫn chưa về mà !

Họ vẫn lạnh lùng không nói năng gì, nhưng em bị mợ em đánh cho hai cái tát tai tóe lửa. Vừa đánh mợ em vừa mắng :

- Mày có im mồm đi không ? Để cho người ta còn làm việc chứ ! Đợi mẹ mày về, hôi thối ra ai chịu nổi ?

Em không dám la hét nữa nhưng em vẫn khóc tức tưởi.

Hai hôm sau má em mới về. Em thuật lại mọi chuyện cho má nghe. Cậu mợ bảo em là đồ lẻo mép, rồi đuổi cả hai mẹ con em ra khỏi nhà. Từ đó hai mẹ con em sống tuy lẻ loi nhưng thật hạnh phúc... Mới đó mà đã năm sáu năm rồi.

Cô bé im lặng một lúc rồi tiếp :

- Mộ ngoại cũng gần đây thôi chị ạ. Chiều chúa nhựt nào em cũng ra thăm ngoại. Lúc còn sống ngoại rất thích hoa lan, nên em đã trồng trên mộ ngoại một cây, màu hoa trắng nổi bật lên đám cỏ xanh, hương lại dìu dịu, dể thương ghê chị ạ.

Tự nãy giờ tôi sống trọn vẹn trong thế giới ấu thơ đầy dẫy u buồn của Trang. Trang ngưng kể như tiếng chim họa mi ngưng hót, kéo tôi trở về thực tại. Tôi không ngờ cô bé mới mười sáu tuổi đầu lại phải chuốc lấy những chuỗi buồn phiền khổ đau đến thế. Đời Trang như một mầm non mới nhú đã mất hẳn bóng râm thương yêu của một người cha. May mắn được một dòng suối ngọt ngào của ngoại chảy qua tâm hồn cô bé, nhưng rồi dòng suối ấy cũng đã cạn từ mấy năm nay. Bây giờ Trang chỉ có một tình yêu duy nhất của người hiền mẫu mà thôi.

Tôi nhìn vào mắt cô bé. Ôi ! Đôi mắt nai tơ đã ướt đẫm tự lúc nào. Mưa rơi từ trong tâm hồn em phải không Trang ? Tôi lấy chiếc khăn mùi xoa, thấm lên khóe mắt, lau sạch những giọt sương long lanh rơi trên đôi gò má màu đỏ hoa đào của cô bé. Tôi có cảm tưởng như Trang là em ruột của tôi, cô bé Trang nhỏ bé ngày nào đã từng làm nũng bên ngoại. Tôi bảo cô bé :

- Em dẫn chị đi thăm mộ ngoại nha Trang ?

Trang nắm lấy tay tôi từ từ đứng dậy. Tôi đưa tay choàng sang vai cô bé. Tôi muốn làm một bóng râm nhỏ bé để che chở cho Trang. Mặt trời màu tím khuất dần dưới chân đồi. Sương chiều giăng đầy như ai quấn trên đồi thông một chiếc khăn tang màu trắng đục. Mưa trong mắt nai. Mưa trong hồn tôi.

Một chiếc lá vàng rơi xuống mặt hồ phẳng lặng, khuấy động sự yên tĩnh, nghe như tiếng cá đớp mồi, khiến tôi tưởng tượng đến hình ảnh của ngoại Trang mà tôi đã thầm xem như ngoại mình.

Tôi nghe mơ hồ tiếng hát của Trang trầm buồn lan xa đến một thế giới vô hình nào đó có linh hồn của ngoại đang lơ lửng bay trong gió chiều hiu hắt khói thu ảm đạm.
 
   
TRINH CHÍ       
 

Thứ Hai, 30 tháng 6, 2025

Tài Không Đợi Tuổi

 
 Tan học, Phương và Duyên hí hởn ra về. Hôm nay, hai cô bé rất vui vẻ, gương mặt tươi như hai đóa hoa hồng. Chúng đi bên nhau, bàn tán về buổi học vừa qua.

Duyên liến thoắng nói:

- Hôm nay, bà làm luận Quốc văn cừ quá. Chắc là “đạo văn” ở sách nào chớ gì?

Phương nhoẻn cười duyên dáng:

- Còn lâu! Làm luận mà đạo văn thì ẹ lắm.

- Văn bà ăn đứt “Ông Tướng” Xuân rồi đó. Để Tướng Xuân dẫn đầu hoài làm ê mặt bọn chúng mình.

- Thì mình phải cố gắng chớ. May lắm mới vượt anh ấy một kỳ.

- Phải vượt luôn chớ. Một kỳ sao được bà.

Phương như được khích lệ, cảm thấy phấn khởi vô cùng. Duyên cũng vui lây cái vui chiến thắng của bạn.

Nguyên Phương và Duyên học lớp Đệ Thất 1 trường Trung học Dân Trí. Cả hai đều là phần tử ưu tú trong lớp, vừa thông minh vừa chăm học. Phương giỏi đều các môn; Duyên giỏi về văn chương nhưng còn kém về Toán, Lý, Hóa. Nhiều lần giáo sư Quốc văn đã khen Phương là “Nữ sĩ tương lai” và khuyến khích Duyên bằng câu: “Có nhiều triển vọng”. Hai cô bé lấy làm sung sướng được thầy khen, bạn mến.

Thật ra, Phương và Duyên có khiếu văn chương từ khi còn bé bỏng. Chúng ham mê đọc sách hơn bất cứ thú tiêu khiển nào khác. Nhà Phương có các bộ sách giáo dục nhi đồng của các nhà văn tiền chiến như Sách Hồng của Tự Lực Văn đoàn, Truyền Bá của Nhà xuất bản Tân Dân. Nhà Duyên có nhiều sách nhi đồng của các nhà văn hiện đại như Tuổi Thơ của Nhà Khai Trí, Sách Hồng của Nhà Sống Mới v.v... Đôi bạn thường trao đổi nhau xem và mỗi khi đọc được một truyện hấp dẫn, lý thú, cả hai đem ra mổ xẻ, phê bình say sưa, mặc dù chúng chưa biết nghệ thuật phê bình ra sao cả.

Từ khi còn bậc Tiểu học, Phương, Duyên đều giỏi về Việt văn, so kè nhau chiếm nhất, nhì trong các kỳ thi Lục cá nguyệt 2. Nhưng năm nay lên Đệ Thất chúng đụng phải hai tay cừ. Đó là Xuân và Quang. Luôn ba tháng đầu niên học, Xuân và Quang thay phiên nhau dẫn đầu môn Việt văn. Phương và Duyên rớt xuống hạng ba và tư. Bọn trẻ trong lớp thấy Xuân cừ quá, đùa gọi cậu ta là “Ông Tướng”, ngụ ý phong Xuân ta làm Tướng soái. Hai ngôi sao Phương, Duyên cơ hồ bị mờ nhạt đi trước hai ngôi sao mới cực kỳ sáng chói. Phương tức lắm và Duyên cũng ấm ức trong lòng, mặc dù chúng cũng được thầy khen ngợi, khích lệ nhiều lần. Hai cô bé giàu tự ái ấy quyết cố gắng chiếm lại địa vị huy hoàng của mình ngày nào.

Và buổi học hôm nay, lần đầu tiên Phương đã vượt lên trên cả lớp - vượt cả hai tướng cừ Xuân, Quang - gieo ngạc nhiên không ít cho giáo sư và bạn học. Phương vừa sung sướng vừa cảm động. Duyên cũng hãnh diện, môi luôn nở nụ cười thật tươi.

Nhớ lại buổi học vừa qua, Phương như còn nghe văng vẳng hai bên tai tiếng vỗ tay hoan hô của các bạn khi thầy long trọng tuyên bố: “Hôm nay, thầy rất vui lòng được thấy một ngôi sao mới xuất hiện. Ngôi sao đó là em Nguyễn Thị Mỹ Phương. Em Mỹ Phương đâu, hãy lên đây”.

Phương bẽn lẽn tiến lên, lòng hồi hộp khôn tả.

Giáo sư đợi Phương lên đến nơi, mới thong thả nói tiếp:

- Bài luận văn kỳ này, em Mỹ Phương chiếm giải khôi nguyên.

Thầy vừa dứt lời, một tràng pháo tay vang lên hoan hô ngôi sao mới. Xuân, Quang ngạc nhiên, trố mắt nhìn người bạn gái mà chúng xem thường bấy lâu nay. Phương đỏ mặt, tay nàng vân vê tà áo.

Giáo sư hân hoan tiếp:

- Nào “Nữ sĩ tương lai” của thầy hãy đọc bài em cho các bạn cùng nghe. Em đã chứng tỏ một sự cố gắng đáng khen.

Thầy trao bài luận cho Phương. Cô bé tiếp lấy bài, mắt nàng không dám nhìn xuống các bạn. Nàng cất tiếng đọc, giọng nàng hơi run run. Đọc được vài dòng, Phương lấy lại được bình tĩnh, và giọng nàng trở nên trong trẻo, lưu loát. Khi nàng đọc dứt bài văn, các bạn lại vỗ tay hoan nghênh lần nữa.

Giáo sư mỉm cười nói:

- Em Mỹ Phương có khiếu về văn chương. Nếu chịu khó rèn luyện, em là một mầm non đầy hứa hẹn. Đây, thầy tặng em quyển sách này để khuyến khích em. Thầy mong em cố gắng hơn nữa để thực hiện lời thầy vừa nhận xét.

Phương tiếp lấy tặng phẩm trên tay thầy, dịu dàng nói:

- Em cảm ơn thầy. Em hứa sẽ cố gắng để thầy được vui lòng.

Phương trở về chỗ ngồi, có cảm giác như nhiều bạn đang đưa mắt nhìn theo mình. Trong số ấy, Phương đoán thế nào cũng có “Ông Tướng Xuân”. Duyên day qua, nói khẽ:

- Khớp không, bồ? Thầy tặng bồ sách gì đó?

Phương để quyển sách xuống bàn. Bốn mắt nhìn xem. Đó là quyển “Viết và đọc Tiểu thuyết” của Nhất Linh. Phương biết thầy cố ý giúp thêm tài liệu cho nàng, để nàng có thể hiểu thêm nghệ thuật sáng tác, theo kinh nghiệm của một nhà văn danh tiếng bậc thầy. Phương thấy phần thưởng này thật vô cùng ý nhị và nàng thầm cảm ơn thầy đã chu đáo khuyến khích và nâng đỡ mình một cách nhiệt tình.

Chuông reo báo hiệu tan học. Học sinh lần lượt ra khỏi lớp. Phương và Duyên vẫn còn ngồi nán lại, mân mê phần thưởng quý giá trên tay. Bỗng Phương giật mình ngẩng lên khi có tiếng hỏi:

- Hai chị chưa về à?

Người vừa cất tiếng hỏi là “Ông Tướng Xuân”. Chẳng hiểu Xuân và Quang đến hồi nào, hai đứa đang nhìn quyển sách trên tay Phương với vẻ tò mò. Phương vui vẻ đáp:

- Chúng tôi cũng sắp về.

Xuân thành thật tiếp:

- Kỳ này, chị Phương làm bài luận văn hay quá. Chị rất xứng đáng với lời khen ngợi của thầy.

Phương dịu dàng nói:

- Anh nói quá đáng làm tôi thêm mắc cỡ. May lắm mới được thầy khen một kỳ.

Quang góp lời:

- Chúng tôi nói thật đấy.

Duyên cũng xen vào:

- Mấy tháng nay, hai anh cứ tranh nhau lãnh hết lời khen của thầy. Phải nhường cho bọn con gái chúng tôi một kỳ chớ.

Xuân xoa dịu lòng tự ái của hai người bạn gái:

- Có thi đua như thế, sự học mới hào hứng, phải không hai chị?

Phương nhoẻn cười:

- Chúng tôi sẽ luôn cố gắng để theo kịp hai anh.

Quang cũng cười:

- Thôi mà, cứ khiêm nhường hoài. Thầy đã bảo là “Nữ sĩ tương lai” kia mà. À, thầy vừa tặng chị phần thưởng gì thế?

Phương trao quyển sách cho Quang. Xuân và Quang châu đầu vào xem, mặt lộ vẻ ham thích. Xuân nở nụ cười cởi mở:

- Quyển sách này chắc hay lắm. Hai chị xem xong, cho chúng tôi mượn xem với nhé.

Phương thành thật nói:

- Chắc phải hay và hữu ích, thầy mới tặng cho chúng ta học thêm. Tuần sau, Phương sẽ đưa cho hai anh xem. Nhưng xem xong, hai anh phải cho biết ý kiến mới được.

Xuân và Quang tán thành ngay:

- Đồng ý.

Phương lại hỏi:

- Tháng trước, thầy tặng anh Xuân quyển gì?

- Quyển “Trên đường nghệ thuật” của Vũ Ngọc Phan.

- Còn tháng đầu, anh Quang được phần thưởng gì?

Quang nhanh nhẩu đáp:

- Quyển “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân.

Duyên cười, đùa:

- Chắc thầy cho anh Xuân là “Nhà văn đầy triển vọng” và anh Quang là “Thi sĩ đầy hứa hẹn”, nên mới tặng hai phần thưởng ấy cho hai anh.

Quang bật cười to:

- Thầy chưa hề tuyên bố như thế bao giờ. Có chị Phương và anh Xuân đây làm chứng.

Xuân vui vẻ tiếp:

- Nếu được làm văn nhân, thi sĩ thì còn gì vinh dự bằng. Sợ sau này sẽ thành “Nhà văn ba xu” và “Thi sĩ con cóc” thì thật uổng cho công thầy.

Phương vui lây cái vui hồn nhiên của các bạn:

- Hai anh cho chúng tôi mượn các tác phẩm ấy, để chúng tôi học thêm được phần nào hay phần nấy.

Xuân nói ngay:

- Ngày mai, chúng tôi sẽ cho hai chị mượn. Và từ đây, tôi đề nghị chúng ta sẽ trao đổi nhau những tác phẩm hay.

Phương mạnh dạn hơn:

- Chẳng những trao đổi sách hay, chúng ta nên họp nhau trao đổi ý kiến về những tác phẩm đã xem. Đó cũng là cách để chúng ta trau dồi thêm nghệ thuật. Các anh đồng ý chớ?

Xuân và Quang đồng nói:

- Hoan nghênh sáng kiến của chị Phương.

Duyên thực tế hơn cả:

- Thôi, chúng ta về, kẻo trường đóng cửa.

Xuân trao trả quyển sách cho Phương, rồi từ giã hai người bạn gái. Duyên nhanh nhẹn kéo bạn ra về.

Nhớ đến đây, Phương sung sướng mỉm cười. Nàng có cảm tưởng như mình đang bước trên con đường đầy hoa và cuối đường là một vườn đầy hương sắc quyến rũ. Đó là vườn Nghệ thuật. Đó là khu vườn có những kỳ hoa ngạt ngào muôn thuở: hoa Nguyễn Du, hoa Đoàn thị Điểm, hoa Hồ Xuân Hương... Và biết đâu sau này sẽ có thêm hoa Mỹ Phương?

Thấy bạn cười một mình, Duyên ngạc nhiên hỏi:

- Bồ nghĩ gì mà cười vậy?

Phương lại cười, núm hai đồng tiền trên hai má ửng hồng:

- Phương đang nghĩ đến vườn hoa nghệ thuật.

- Và bồ định bước vào vườn hoa ấy à?

- Phải, với bất cứ giá nào.

- Người ta nói làm văn sĩ khổ lắm, bồ ơi!

Phương nói với giọng vô cùng cương quyết:

- Phương vui lòng chấp nhận sự khổ đó. Phương chỉ sợ mình không có tài.

Phương và Duyên vừa dừng bước trước cổng đã thấy dạng Xuân từ trong nhà chạy ra, mừng rỡ:

- Chúng tôi đang đợi hai chị đây.

Duyên hỏi:

- Có sửa soạn bánh trái đãi bọn này không đó?

Xuân nhanh nhẩu đáp:

- Văn nghệ không thể xen bánh trái gì vào được. Mất cả ý nghĩa đi.

- Vậy thì làm văn nghệ phải uống nước lã à?

- Văn nghệ cũng không tưới bằng nước lã. Mất cả ý nghĩa đi.

- Cái gì anh cũng bảo: “Mất cả ý nghĩa đi”. Vậy chớ văn nghệ phải tưới bằng gì?

- Bằng rượu. Lý Bạch, Tản Đà đều tưới thơ bằng rượu.

Phương lém lĩnh không kém:

- Còn Đoàn thị Điểm, Hồ Xuân Hương?

Xuân khựng lại, không biết đáp thế nào cho ổn. Một lúc, nó gãi đầu nói:

- Chịu thua chị Phương. Thôi, mời hai chị vào.

Phương mỉm cười nắm tay Duyên bước vào nhà. Đây là nhà của ba má Xuân. Bọn trẻ đến họp mặt để học tập thể hoặc thảo luận văn chương. Khi Phương và Duyên bước vào thì Quang từ phía sau chạy lên. Nó vui vẻ đùa:

- Hân hạnh chào hai “Nữ sĩ tương lai”.

Duyên cất giọng dí dỏm:

- Xưa rồi, anh ơi!

- Vậy phải gọi thế nào mới “hợp thời trang” đây?

- Phải gọi là “Mầm xanh văn nghệ”.

Xuân cười hóm hỉnh:

- Đúng rồi, chị Duyên dùng chữ thì “ba chê”.

Duyên liến láu chỉnh ngay:

- Cái gì mà “ba chê”? Đâu, anh kể ba điều đáng chê ra thử xem.

Xuân vội vàng cải chính:

- Ba chê nghĩa là chị dùng chữ đúng không chê vào đâu được, chớ không phải có ba điều đáng chê. Chị hiểu lầm rồi đó.

Phương cười nụ:

- Hai anh bắt bọn tôi đứng đây cãi lý mãi à? Còn rượu Lý, Tản của các anh đâu?

Duyên tiếp:

- Còn nước lã của bọn này đâu?

Xuân chợt nhớ mình là chủ, cần phải tiếp khách cho ra vẻ:

- Chị Phương và Duyên ngồi chơi, hôm nay chúng ta có nhiều vấn đề cần bàn.

Phương chưa chịu buông tha:

- Tôi muốn hỏi rượu và nước lã hè. Chuyện gì khác sẽ nói sau.

- Xuân đùa vậy chớ làm gì có rượu. Mình làm sao dám so sánh với Lý Bạch, Tản Đà? Còn tiếp thi nhân bằng nước lã thì sợ “Nàng Thơ” trốn mất.

Duyên hỏi ngay:

- Không bằng nước lã thì bằng gì? Anh cứ “ấm ớ hội tề” hoài, ai chịu được?

- Bằng cây nhà lá vườn. Sau khi thảo luận xong vài vấn đề, chúng ta ra sau vườn chơi cho mát. Lúc này nhằm mùa quýt đường và vú sữa, chúng ta trèo lên cây hái ăn tùy thích.

- Chớ không được mang về à?

- Được chớ! Miễn đừng mang cả gánh về nhà.

Duyên đắc ý cười to:

- Bộ anh tưởng bọn này là “hạm” sao chớ? Thôi được, bây giờ chúng ta bàn vấn đề gì nào?

Phương, Duyên ngồi xuống ghế, trước một chiếc bàn bày những tờ tạp chí văn chương và nhi đồng lòe loẹt màu sắc. Xuân, Quang cũng ngồi đối diện với hai người bạn gái.

Phương cầm lên một tờ tạp chí, lật vài trang xem qua các tiết mục. Duyên ngắm nghía trang bìa mấy tờ báo nhi đồng. Xuân lặng im, Quang có vẻ nghĩ ngợi. Đợi Phương xem phớt qua tờ tạp chí, Duyên ngắm nghía xong mấy bức tranh bìa, Xuân mới cất lời với vẻ vô cùng trịnh trọng:

- Chúng tôi định bàn với hai chị về vấn đề làm báo.

Phương ngẩng mặt lên, môi hơi nhếch nụ cười:

- Bích báo à?

- Không, mình làm báo văn nghệ đàng hoàng.

- Mình có cần xin phép thầy không? Thầy hay được, rầy chết.

- Thầy không rầy đâu. Chúng mình tập viết văn, thầy còn khuyến khích nữa là khác.

Duyên lộ vẻ hân hoan:

- Ý kiến các anh rất hay. Nhưng liệu mình có đủ phương tiện không?

Quang đáp nhanh:

- Phương tiện thì không có gì tốn kém. Chúng mình chỉ làm báo viết tay, không in thạch bản, cũng không in ronéo. Báo chỉ xuất bản một số duy nhất, chuyền tay nhau xem. Chúng ta chỉ góp tiền mua giấy, mực.

Phương mân mê một tờ báo trên tay, giọng nàng vô cùng tha thiết:

- Phương rất thích viết văn, nhất là làm báo văn nghệ. Nhưng phải làm cho ra hồn, kẻo các bạn cười cho ê mặt.

Biết bạn đã tán thành, Xuân hớn hở nói:

- Chị khỏi lo mà. Mình làm báo nhất định phải hay.

- Ngoài bọn mình, còn ai cộng tác nữa không?

- Còn chớ! Các anh Minh, Phong, các chị Vân, Nguyệt sẽ cộng tác với chúng ta.

- Sao hôm nay không có mặt các anh, chị ấy?

- Hôm nay chỉ là buổi họp sơ bộ, lần sau các anh, chị ấy sẽ có mặt đầy đủ.

Duyên nôn nao hỏi:

- Các anh chọn tên tờ báo chưa?

Quang đáp thay bạn:

- Chưa, chúng tôi còn đợi ý kiến của hai chị.

Duyên mau mắn đề nghị:

- Vậy thì mình đặt tên tờ báo là “Mầm xanh”

Phương tỏ ý:

- Tên ấy rất hợp với chúng mình, song ngoài thị trường đã có tờ mang tên đó rồi. Theo ý Phương mỗi đứa chúng mình đưa ra một tên, rồi chúng ta sẽ chọn tên nào ý nhị và hấp dẫn nhất.

Quang nhanh nhẩu nói:

- Tôi đề nghị lấy tên là: “Tuổi Ngọc”.

Xuân đưa ý kiến:

- Tôi đề nghị lấy tên là: “Tuổi Hồng”.

Phương cũng góp ý:

- Phương đề nghị lấy tên “Hoa Thiếu Niên”

Duyên phát biểu ý kiến:

- Hai tên “Tuổi Ngọc” và “Tuổi Hồng” đã có người dùng đặt tên cho phụ trang nhi đồng ở báo hằng ngày. Chỉ có tên “Hoa Thiếu Niên” chưa ai thèm dùng đến, vì nó có vẻ cổ lỗ sĩ quá.

Xuân bênh vực ngay:

- Không ai thèm dùng thì mình dùng, miễn đừng bắt chước thiên hạ là hay rồi. Hơn nữa, tên ấy hợp với lứa tuổi chúng mình. Tuổi chúng mình là tuổi đang nở hoa.

Duyên cười lém lỉnh:

- Biết lắm mà! Tên của nữ sĩ Mỹ Phương đặt thì anh bênh vực, nếu tôi đưa tên ấy ra, chắc chắn bị anh bác bỏ.

Phải vậy không, “Ông Tướng”?

Xuân mỉm cười không đáp. Quang bàn tiếp:

- Vậy chúng ta đồng ý đặt tên tờ báo là “Hoa Thiếu Niên”. Bây giờ đến vấn đề tổ chức Bộ biên tập.

Phương vui vẻ đề nghị:

- Phương đề nghị anh Xuân làm Chủ Nhiệm. Anh phải chọn một biệt hiệu cho hách mới được.

Duyên và Quang đều nói:

- Đồng ý.

Duyên thêm:

- Vai Chủ nhiệm hách nhất trong tờ báo đấy nhé!

Xuân cười:

- Tôi đề nghị Mỹ Phương làm Chủ bút.

Phương chớp lia đôi mắt, lòng dào dạt niềm vui. Phương ôm rất nhiều mộng nhưng không ngờ hôm nay mình được làm chủ bút một tạp chí văn nghệ. Nàng thấy tương lai như mở ra trước tầm mắt.

Xuân lại đề nghị tiếp:

- Anh Quang làm Giám đốc Trị sự.

Duyên hất đầu ra phía sau, môi trề ra lộ vẻ bất mãn:

- Mấy người khôn thấy mồ. Có bao nhiêu chức vụ quan trọng trong tờ báo, mấy người phong cho nhau hết cả.

Xuân vội vàng xoa dịu lòng tự ái của Duyên:

- Còn một chức vụ quan trọng hơn hết chúng tôi dành cho chị.

- Chức vụ gì?

- Tôi đề nghị chị Duyên làm Tổng thư ký Tòa soạn.

Giọng Duyên trở lại dịu dàng:

- Tôi làm Tổng thư ký, còn ai làm Thư ký?

Xuân đáp nhanh:

- Thì tôi kiêm luôn Thư ký cho chị.

Duyên cười xòa nói:

- Ông Tướng Chủ nhiệm quả là con cáo già. Thôi được, tôi dưới quyền ông, ông lại dưới quyền tôi, thế là huề.

Phương tươi cười nói:

- Bộ biên tập không lẽ gồm toàn Chủ nhiệm, Chủ bút, Giám đốc Trị sự, Tổng thư ký Tòa soạn?

Xuân đáp nhanh:

- Còn biên tập viên nữa chớ. Anh Phong viết bài bình luận, chị Vân viết truyện ngắn, chị Nguyệt làm thơ, anh Minh trình bày và minh họa.

Duyên hỏi trớ trêu:

- Ông Chủ nhiệm cho biết nhiệm vụ của Giám đốc Trị sự, Chủ bút và Tổng thư ký.

Xuân đưa tay lên gãi đầu, đưa mắt nhìn Phương như cầu cứu. Phương đưa tay lên miệng che một nụ cười. Cả hai không biết giải thích thế nào cho ổn. Một lúc lâu, Xuân mới ấp úng nói:

- Thì Xuân thấy trên mặt tờ báo, người ta thường nêu lên những chức vụ ấy, Xuân cũng đề nghị mình ghi lên cho “oai”, chứng tỏ Bộ biên tập báo mình cũng đầy đủ chức vụ như ai. Còn vấn đề nhiệm vụ mỗi người, Xuân không rành rẽ lắm, để Xuân hỏi lại thầy.

Duyên cười đùa:

- Vậy chức vụ của chúng mình đều là chức vụ “hàm” cả?

Xuân cãi hăng:

- “Hàm” sao được, chị! Mình làm việc thật sự chớ. Bây giờ, mình định xuất bản hằng tuần hay hằng tháng?

Phương góp ý:

- Xuất bản hằng tuần, sợ mình làm không kịp. Ra hằng tháng thì lại lâu quá. Phương đề nghị mình cho xuất bản nửa tháng một kỳ đi.

Quang tán thành ngay:

- Đồng ý ra nửa tháng. Nhưng ra nửa tháng thì gọi là gì?

Duyên làm lanh:

- Xuất bản hằng tuần gọi là tuần báo hoặc tuần san, hằng tháng gọi là nguyệt san; nửa tháng một kỳ gọi là Cá nguyệt san.

Quang, Xuân, Phương đều bật cười. Quanh hỉnh mũi, hóm hỉnh nói:

- Chị Duyên nhớ đến thi Lục cá nguyệt rồi.

Duyên hất hàm hỏi:

- Vậy chớ gọi là gì?

Quang bí, vội nín thinh, tuy vậy môi nó vẫn còn nhếch nụ cười. Sợ bạn giận dỗi (vì Duyên hay nũng nịu, giận dỗi), Phương vội dịu dàng giải thích:

- Theo Phương biết thì xuất bản nửa tháng gọi là Bán nguyệt san. Vì thời tiền chiến có tờ Phổ Thông Bán nguyệt san, ra nửa tháng một số. Phương đoán thế, chẳng biết có đúng không?

Quang vỗ tay reo:

- Đúng rồi! Chị Phương nói thì đúng “ba chê”.

Duyên háy Quang một cái, giọng vẫn chưa nguôi:

- Chị Phương nói đúng, chớ có phải “Giám đốc Trị sự” nói đúng đâu.

Phương vui vẻ nói:

- Ngay bây giờ, mình phải chuẩn bị Số ra mắt. Mình phải dồn hết lực lượng vào số này.

Xuân nói với tất cả nhiệt thành:

- Chúa nhật tới, mình họp tại đây để trao đổi thêm ý kiến và phân công rành rẽ. Kỳ họp tới sẽ có đông đủ Bộ biên tập.

Rồi để làm vừa lòng cô bạn gái hay giận dỗi, Xuân day qua phía Duyên ân cần tiếp:

- Từ đây, chị Duyên mặc sức trổ tài làm thơ. Tên Mộng Duyên rồi đây sẽ vang danh khắp trường. Bây giờ, chị hãy chọn bài thơ nào ưng ý nhất đăng vào số ra mắt.

Được đăng thơ lên báo, đó là điều Duyên mơ ước lâu nay. Bây giờ mộng sắp thành rồi, nàng thấy lòng nôn nao, rộn rã.

Quang thích chí cười to:

- Chị Duyên hết giận rồi đấy nhé! Bây giờ chúng ta ra sau vườn, đại náo vườn cây “Ông Tướng” một phen.

Phương vừa bước đi vừa nói:

- Phương trèo cây dở lắm, rủi rớt xuống đất thì hết... làm báo.

Quang quen tánh liến khỉ:

- Chị đừng lo. Rủi chị có bề gì, Quang kiêm luôn chức Chủ bút cho.

Cả bọn phá lên cười vui vẻ.

*

Nửa tháng sau, tập san Hoa Thiếu Niên ra đời.

Phương và Duyên hôm nay có vẻ trang nghiêm như người lớn. Chúng không mua quà vào lớp ăn như mọi bữa, chúng cũng không cùng các bạn nô đùa, trửng giỡn ở sân trường. Chủ bút mà ăn quà trong lớp, Tổng thư ký Tòa soạn mà chơi nhảy dây hay chơi cò cò... thì còn ra cái thể thống gì nữa.

Giờ ra chơi, học sinh lớp Đệ Thất A (lớp học của Bộ biên tập tờ báo Hoa Thiếu Niên) xúm xít lại xem tờ tập san duy nhất của Trường Trung học Dân Trí. Chúng vừa xem vừa cười đùa bàn tán. Phương và Duyên không dám lại gần đám độc giả tí hon ấy, sợ chúng chê văn mình thì “mất mặt bầu cua”. Phương lật tập làm như dò bài nhưng thật ra nàng đang lắng tai nghe bọn trẻ đang phê bình tờ báo. Duyên thì đưa mắt theo dõi cử chỉ đám độc giả. Cả hai đều hồi hộp vô cùng.

Xuân và Quang tuy cùng tâm trạng với hai bạn gái, song chúng có vẻ dạn dĩ, tự nhiên hơn. Xuân nghĩ thầm: “Các bạn đồng lớp không đáng ngại, chỉ ngại mấy ‘Anh lớn’ ở các lớp trên”. Bọn Minh, Phong, Vân, Nguyệt thì không ngại gì cả, chúng đi khắp lớp tuyên truyền cho tờ báo, hứa hẹn sẽ còn nhiều mục, nhiều bài hấp dẫn hơn ở các số sau.

Điều đáng mừng cho toàn thể Bộ biên tập là Tập san ra đời được sự tiếp đón nồng hậu của bọn trẻ. Nhiều đứa bảo nhau: “Lớp mình ra báo, bảnh ghê! Mấy lớp Đệ Thất khác làm gì ra nổi một tờ báo”. Vài đứa Đệ Thất A lại đi khoe với học sinh lớp Đệ Thất B, Đệ Thất C: “Lớp tao mới xuất bản tờ Hoa Thiếu Niên đẹp ghê hồn. Anh Thanh Xuân làm Chủ nhiệm, chị Mỹ Phương là Chủ bút đó”. Không ngờ tờ tập san mới ra mắt đã tạo được sự hãnh diện cho cả lớp Đệ Thất A.

Thật ra, tờ Hoa Thiếu Niên đem lại một sinh khí mới cho học sinh trường Dân Trí. Đột nhiên, đám trẻ thơ ham đùa giỡn ấy bỗng lưu tâm đặc biệt đến văn chương. Rồi thì tờ báo được chuyền nhanh từ lớp Đệ Thất lên Đệ Lục, từ Đệ Lục lên Đệ Ngũ, Đệ Tứ 3... Bộ biên tập được nghe nhiều lời khen tặng khích lệ, đồng thời cũng nghe nhiều lời chỉ trích nặng nề.

Vài hôm sau, Phương đi học sớm như thường lệ. Khi đi ngang qua lớp Đệ Thất B, Phương thấy một đám học sinh đang ngồi bàn tán sôi nổi. Thấy Phương đi ngang qua, một đứa bảo khẽ với các bạn:

- Mỹ Phương đó.

Một đứa khác hỏi:

- Chủ bút đó hả?

- Phải rồi, chủ bút tờ Hoa Thiếu Niên.

- Sao còn nhỏ quá vậy?

- Ừ, nhỏ hơn tụi mình, vậy mà làm chủ bút mới cừ chớ.

Nghe đến đây, Phương ngoảnh lại nhìn chúng, đôi má ửng đỏ, môi nhoẻn nụ cười khả ái. Phương sung sướng vô cùng. Buổi học hôm đó, Phương vui vẻ hơn bao giờ hết. Phương thấy vườn hoa văn nghệ đang nhuộm màu hồng.

Tan giờ học, Phương cùng Duyên ôm cặp ra về, lòng phơi phới niềm vui. Đi ngang qua mấy “Anh lớn” lớp Đệ Tứ, Phương cảm thấy ngượng nghịu vì những cặp mắt soi mói đang chăm chú nhìn mình. Có vài tiếng cười nổi lên, tiếp theo một câu hỏi châm biếm:

- Đứa nào là Chủ bút?

Một tiếng đáp:

- Con bé tóc thề đó.

- Còn con bé kia?

- Tổng thư ký Tòa soạn đó đa.

Một giọng khác xen vào:

- Toàn choai choai cả. Chúng viết đúng chánh tả, văn phạm chưa mà làm Chủ bút, Tổng thư ký Tòa soạn?

Nghe đến đây, Phương thấy tức nghẹn lên cổ, nàng muốn chạy đi cho khuất dạng, Duyên giận đỏ mặt, nàng liếc xéo lại một cái, tay nàng run run. Một chuỗi cười đuổi theo đôi bạn gái tận cổng trường. Lúc vào lớp hân hoan bao nhiêu, khi trở về Phương thấy tức tối, thẹn thùng bấy nhiêu. Duyên vừa đi vừa càu nhàu:

- Mấy anh ấy ỷ học lớp lớn làm tàng quá.

Phương buồn bã nói:

- Mình làm văn nghệ thì phải chịu sự phê bình.

- Nhưng Duyên tức lắm. Mấy ảnh phê bình không xây dựng chút nào. Mấy ảnh không nhớ câu: “Tài không đợi tuổi”.

- Nhưng biết mình có tài thật không?

Cả hai im lặng đi bên nhau. Bóng hai trẻ in xuống đường. Ánh nắng buổi trưa nghiêng nghiêng trên hai chiếc nón bài thơ.

Phương bỗng thở dài nói:

- Mấy ảnh nói cũng đúng phần nào. Từ nay, tụi mình phải thận trọng về chánh tả, văn phạm mới được.

Duyên vẫn chưa hết tức:

- Thầy nói nhiều anh ở Đệ Tứ, Đệ Tam vẫn viết sai văn phạm, huống hồ gì chúng mình.

- Nhưng họ không làm báo, không tự xưng là Chủ bút hay Tổng thư ký Tòa soạn. Mình cũng nên biết phục thiện mới được.

Duyên đuối lý, đành lặng im. Một sự chán nản đang đè nặng hai tâm hồn. Bây giờ Phương mới thấy con đường văn nghệ không phải nhuộm toàn hồng như nàng tưởng. Và Duyên mới nhận thấy chức Tổng thư ký Tòa soạn không phải ai cũng đảm trách được, dù chỉ là một tờ báo viết tay.

Sự chán nản đeo đuổi theo đôi bạn gái suốt cả tuần. Cả hai không còn tinh thần sáng tác nữa. Chúng sợ những lời phê bình ác ý. Chúng muốn trả chức Chủ bút, Tổng thư ký Tòa soạn lại cho bọn Xuân, Quang. Chúng muốn rút lui khỏi tòa soạn tờ Hoa Thiếu Niên, để tránh những lời chê bai khinh rẻ.

Tờ Hoa Thiếu Niên tưởng đâu sắp chết yểu thì một sự kiện bất ngờ xảy ra làm phấn khởi những tâm hồn đầy mặc cảm. Chỉ cách ngày tờ Hoa Thiếu Niên ra đời độ nửa tháng, trường Dân Trí lại ra mắt thêm ba tờ báo mới. Đó là Tuần báo Mầm Non của lớp Đệ Thất B, Tập san Hồn Trẻ của lớp Đệ Ngũ và tạp chí Nguồn Sống của lớp Đệ Tứ.

Đôi bạn Phương, Duyên bỗng lấy lại tinh thần. Thì ra mặc dù bị vài anh chỉ trích, tờ Hoa Thiếu Niên gây ảnh hưởng sâu rộng trong giới học sinh trường Dân Trí. Nó là tờ báo tiền phong dẫn đạo phong trào làm báo ở đây, nó đã tạo được sinh khí văn chương tao nhã cho toàn trường.

Phương đã thoát khỏi mặc cảm và còn hãnh diện với nhiệm vụ của mình. Nàng và các bạn cố gắng tô điểm cho tờ Hoa Thiếu Niên thêm khởi sắc, để thi đua cùng các báo khác. Cuộc thi đua bắt đầu thật hào hứng. Các Bộ biên tập đều cố gắng tìm sáng kiến, cố gắng sáng tác để đem vinh dự về cho lớp mình.

Số Hoa Thiếu Niên nào ra cũng có một bài xã thuyết của Thanh Xuân, một bài trào phúng của Thanh Quang, một bài truyện ngắn của Mỹ Phương, một bài thơ của Mộng Duyên. Đó là những bài nòng cốt, ngoài ra còn nhiều bài khác như phiếm luận, truyện vui, tùy bút, hồi ký của các ngòi bút trong Bộ biên tập như Phong, Vân, Nguyệt và những bài lai cảo của học sinh các lớp gởi đến. Bìa Tập san do họa sĩ mầm non Hoài Minh minh họa, nét vẽ tuy chưa được sắc sảo nhưng khá linh hoạt, dễ thương.

Một hôm, Phương đến trường, tình cờ nghe các “Anh lớn” ở các lớp Đệ Tứ bàn cãi về các tờ báo trong trường. Cuộc bàn cãi đang hồi hào hứng, sôi nổi.

Một anh to giọng nói:

- Tờ Nguồn Sống chủ trương “Văn nghệ độc đáo, vượt thời”. Đây các bạn nghe thử bài thơ này trong Nguồn Sống số 2:

Đi ngoài đường phố

Đi ngoài công viên

Tôi cất tiếng cười vui.

Đi vào học đường

Đi vào lớp học

Tôi cúi đầu ngủ gục.

Vài tiếng cười nổi lên và có tiếng phê bình:

- Hay! Độc đáo!

Một anh khác vội đưa tay bịt mũi:

- Thứ thơ ấy không bao giờ ngửi được.

Anh thứ nhất nổi nóng:

- Vậy thì đem nhốt mầy vào Bảo tàng viện đi là vừa. So sánh ba tờ báo trường mình thì tờ Nguồn Sống đặc sắc hơn cả. Văn anh Trọng Khanh giống văn nhà văn hào Nhất Linh, thơ chị Tuyết Hồng giống thơ Thanh Tâm Tuyền.

Anh bị chỉ trích rướn gân cổ cãi lại:

- Đừng đem Nhất Linh, Thanh Tâm Tuyền ra lòe thiên hạ. Văn bắt chước dầu điêu luyện cũng không phải văn hay. Văn nhân, thi sĩ có tài không cần bắt chước.

- Mầy cho thế nào mới là văn hay? Mình đi học đây, toàn là bắt chước cả, bắt chước từ văn chương đến khoa học.

- Nhưng thiên tài phải vượt lên trên. Theo ý tôi, chỉ có tờ Hoa Thiếu Niên đặc sắc hơn cả.

Một anh thắc mắc hỏi:

- Đặc sắc chỗ nào đâu? Tôi thấy bài của mấy em ấy viết còn đầy dẫy lỗi chánh tả và văn phạm.

- Đành rằng mấy em ấy còn nhỏ, hành văn chưa điêu luyện bằng chúng ta, nhưng mấy em biết diễn tả những cảm nghĩ hồn nhiên, chân thật, biết bày tỏ niềm khao khát của tuổi thơ hôm nay trước cuộc chiến tương tàn thảm khốc. Mấy em không biết lập dị, không cần đi tìm những đường hướng độc đáo, nhưng văn mấy em có tác dụng truyền cảm nhẹ nhàng. Đặc sắc là ở chỗ đó.

Giữa lúc ấy, một anh trông thấy bóng Mỹ Phương ngoài cửa. Anh ta vội kêu lên:

- Mỹ Phương kia cà. Nào, mời Chủ bút vào đây thảo luận với các bạn cho vui.

Mỹ Phương biết lánh mặt cũng không kịp, đành bẽn lẽn bước vào. Một anh tươi cười nói:

- Các bạn đây vừa khen ngợi Mỹ Phương đấy. Nữ sĩ có ý kiến gì không?

Mỹ Phương rụt rè đáp:

- Phương có nghe lời mấy anh nhận xét. Phương công nhận văn mình còn non nớt, Phương xin phục thiện và thành thật cảm ơn mấy anh.

Một anh cười mỉa mai:

- Thôi mà, khiêm nhường làm gì, Chủ bút?

Mỹ Phương dịu dàng:

- Phương nói thật đấy. Chúng em chỉ mới tập viết văn, chớ đâu xứng đáng là nữ sĩ. Mấy anh gọi thế, người ta cười chết.

Một anh khác chân thành góp ý:

- Mỹ Phương nói đúng. Ngày nào mình viết báo thật sự cà, mới xứng đáng là văn nhân thi sĩ. Viết báo tay trong trường, chỉ là một cách tập viết văn. Tôi rất mong một ngày gần đây được đọc văn Mỹ Phương trên các báo hoặc tạp chí ngoài đời.

Mỹ Phương đỏ mặt:

- Đó là điều mơ ước của Phương, cũng là điều mơ ước của những ai chọn con đường văn nghệ. Chẳng hiểu Phương có thực hiện nổi điều mơ ước đó không?

Một anh chưa chịu buông tha, hỏi gặng:

- Mỹ Phương nói chưa xứng đáng là nữ sĩ, sao lại tự xưng là Chủ bút trên tờ Hoa Thiếu Niên?

Phương nhoẻn nụ cười duyên dáng:

- Thì Phương cũng đang tập làm Chủ bút đó.

Câu đáp hồn nhiên của Mỹ Phương làm cho cả bọn phì cười. Bầu không khí trở nên vui tươi, thân mật. Phương đã gieo mỹ cảm trong lòng mọi người, cả những người có tính đố kỵ, nhỏ nhen.

Phương đem câu chuyện thảo luận văn chương đó thuật lại cho các bạn trong Bộ biên tập tờ Hoa Thiếu Niên nghe.

Quang cười nói:

- Chị cừ lắm mới thoát được vòng vây một cách vẻ vang như thế.

Duyên cau mày:

- Kể ra các anh ấy vẫn còn nương nhẹ tay đấy.

Xuân trầm ngâm suy nghĩ một lúc mới lên tiếng:

- Tôi nghĩ ra cách này.

Quang hỏi nhanh:

- Cách nào đó, hở “Ông Tướng”?

Xuân nhìn các bạn, thong thả trình bày ý kiến mình:

- Mấy anh ấy nói: “Phải viết báo thật sự mới xứng đáng là văn nhân, thi sĩ”. Vậy tại sao ta không thử viết báo thật sự?

Phương dịu dàng hỏi:

- Muốn viết báo thật sự, mình phải làm sao đây?

Xuân ra vẻ nghiêm trang:

- Tôi có ý kiến này: chúng ta mỗi người chọn những bài ưng ý nhất của mình gởi đăng ở các nhật báo, tuần báo hoặc tạp chí ngoài thị trường. Ai muốn gởi cho báo nào tùy thích.

Duyên lo lắng hỏi:

- Biết họ có đăng bài mình không hay quăng vào sọt rác?

Xuân thản nhiên nói:

- Thì mình cứ gởi thử xem. Đó cũng là một cách trắc nghiệm tài năng của chúng mình.

Đôi mắt Phương sáng rỡ lên, biểu lộ niềm hân hoan, tin tưởng. Nàng nhoẻn cười, nói:

- Ý kiến anh Xuân hay lắm, mình nên thực hành ngay. Mình cứ âm thầm mạnh ai nấy gởi bài đăng báo. Bài nào được đăng, sẽ trình bày cho các bạn xem. Bào nào bị quăng vào sọt rác thì kể như mình không gởi là yên chuyện.

Quang vỗ tay hoan nghênh:

- Phải rồi, mình phải làm cho các “Anh lớn” đừng xem thường mình là bọn cóc nhái.

Duyên cũng cười tươi:

- Ngay ngày mai, Duyên sẽ chọn những bài thơ ưng ý nhất gởi đăng báo.

Thấy các bạn đều vui vẻ tán đồng ý kiến mình, Xuân mừng rỡ phát biểu thêm:

- Các bạn nên chú ý điều này: chỉ nên gởi bài cho tạp chí văn nghệ, phụ nữ; nếu gởi cho báo hằng ngày thì chọn tờ nào có phụ trang Tuổi Thơ, Tuổi Xanh, Tuổi Hồng, Tuổi Ngọc...

Trước khi chia tay, Phương mỉm cười nói:

- Đây là cuộc thi đua thứ nhì, các bạn cố gắng nhé!

Thế là bọn trẻ chia tay nhau, mỗi đứa ôm theo một giấc mộng đẹp.

Chiều hôm ấy, Phương ngồi gò gẫm chép lại mấy truyện ngắn đăng trong tờ Hoa Thiếu Niên. Nàng gác bài vở nhà trường qua một bên, dành tất cả thì giờ đêm nay cho công tác văn nghệ. Nàng nắn nót từng chữ cho có vẻ “người lớn”. Nàng lật lại Từ điển để sửa lại vài lỗi chánh tả trong các bài đã viết. Nàng trau chuốt lại câu văn cho êm ái, bay bướm hơn. Mãi đến nửa khuya, nàng mới chép xong được hai bài. Buồn ngủ quá, nàng mới chịu đi ngủ.

Trong giấc mơ, Phương thấy truyện ngắn “Niềm đau tuổi mộng” của nàng được đăng trên tạp chí văn nghệ đứng đắn nhứt hiện nay. Hai chữ Mỹ Phương nổi bật trên trang báo, trông đẹp và khả ái vô cùng. Các bạn Mộng Duyên, Thanh Xuân, Thanh Quang tranh nhau đọc bài nàng, mặc dầu bài ấy đã đăng trong tờ Hoa Thiếu Niên số ra mắt. Duyên khen văn nàng mướt hơn. Xuân khen bài nàng được trình bày đẹp nhất trong tạp chí. Quang vẫn giọng liến khỉ như bao giờ: “Bây giờ Mỹ Phương xứng đáng là nữ sĩ rồi đấy nhé!” Phương sung sướng nhìn trang báo có đăng bài mình. Nàng thấy yêu đời hơn bao giờ hết. Giữa lúc ấy bỗng Phương nghe có tiếng gọi: “Phương ơi! Dậy đi học con!”

Phương giật mình tỉnh giấc, lòng còn luyến tiếc giấc mơ đẹp vừa tàn.

Trưa hôm ấy, Phương gởi hai bài truyện ngắn, một cho tạp chí văn nghệ, một cho một tuần báo phụ nữ. Phương âm thầm gởi đi, không cho các bạn biết. Gởi đi rồi, nàng băn khoăn chờ đợi kết quả. Tuần nào, đúng ngày tờ tạp chí và tuần báo đó phát hành, nàng cũng ra hàng báo, hồi hộp lật xem có bài mình đăng không. Và liên tiếp bốn tuần rồi, nàng đều thất vọng.

Một hôm, Phương vừa bước chân vào tòa soạn tờ Hoa Thiếu Niên (tức là nhà của “Tướng” Xuân) Duyên đã hí hởn đưa tờ báo Đuốc Nhà Nam ra khoe:

- Thơ Duyên được đăng rồi đây, chị Phương ơi!

Phương tiếp lấy tờ báo, lật ra tìm bài của bạn. Duyên vui vẻ tiếp:

- Thơ Duyên đăng nơi Phụ trang “Tuổi Hồng” ấy.

Rồi Duyên chỉ bài thơ cho Phương xem. Bài thơ nhan đề “Quê hương này đau khổ”, dưới bài ký Mộng Duyên. Bài thơ đó, Duyên đã cho đăng trong Hoa Thiếu Niên, bây giờ Phương đọc lại bỗng thấy hay hơn trước nhiều. Phương mỉm cười bảo bạn:

- Cuộc thi đua này, Mộng Duyên thắng keo đầu rồi đó. Bài thơ trước kia viết tay, đọc không mấy cảm động; nay được in trên báo, sao đọc lên nghe thấm thía vô cùng.

Quang chu miệng, làm ra vẻ cảm động:

- Đọc nội cái nhan đề, Quang cũng đủ thấy “đau khổ” rồi.

Duyên lườm bạn:

- Anh Quang chỉ giỏi tài châm biếm! Đáng lẽ anh mừng giùm Duyên mới phải.

Quang làm nghiêm ngay:

- Thì Quang mừng lắm chớ. Và phục Mộng Duyên nữa.

Phương đọc mãi bài thơ, đầu cúi xuống giấu niềm tủi thẹn. Phương buồn lắm! Thơ Duyên được đăng báo, còn truyện ngắn của Phương có lẽ đã bị quăng vào sọt rác. Mắt Phương chớp chớp. Phương tức lắm nhưng không biết tức ai.

Đoán biết tâm trạng Phương, Xuân tìm lời an ủi:

- Anh Quang và tôi, không ai có bài được đăng cả. Có lẽ vì bài lai cảo nhiều quá, họ không có thì giờ xem đến bài mình.

Quang nói nhanh:

- Đúng như vậy rồi chớ còn “có lẽ” gì nữa.

Phương ngẩng lên, mắt lộ niềm hy vọng:

- Bây giờ mình làm sao đây, anh Xuân?

Quang ranh mãnh:

- “Ông Tướng” kiêm Chủ nhiệm, bây giờ kiêm luôn chức Quân sư.

Xuân ra vẻ nghĩ ngợi. Một lúc sau, Xuân nhìn Quang hóm hỉnh:

- Mà bồ bằng lòng bầu “Tướng” này làm Quân sư không đã? Không bằng lòng thì Xuân bày mưu thiết kế mà làm gì?

Thấy bạn làm nư, Quang đành xuống nước:

- Có kế hoạch gì hay, nói mau đi Quân sư?

Xuân chậm rãi nói:

- Tôi nhận thấy hiện nay, trên các tuần báo phụ nữ cũng như trên Phụ trang nhi đồng các nhật báo, rất nhiều Thi văn đoàn thiếu nhi và thiếu niên ra đời. Nào Văn đoàn Hồn Trẻ, Văn đoàn Én Trắng Mùa Xuân; nào Thi văn đoàn Quê Hương, Thi văn đoàn Áo Trắng Nữ Sinh; nào Bút nhóm Mây Ngàn Phương, Bút nhóm Hoa Thế Hệ; nào Văn nghệ Tuổi Rừng, Văn nghệ Khuôn Mặt Học Trò...

Phương mỉm cười:

- Hiện tượng ấy chứng tỏ tuổi trẻ hôm nay rất thích văn chương.

Xuân hăng hái phát biểu:

- Tôi nghĩ: Tại sao chúng ta không thành lập một Văn đoàn để góp phần vào nền văn nghệ trẻ đang đà phát triển? Có tổ họp thành Văn đoàn, chúng ta mới dễ dàng hoạt động và mới có thể thi đua cùng nhóm văn nghệ khác.

Quang cười ha hả, đưa hai tay lên không:

- Tướng Xuân quả xứng đáng là Quân sư. Tôi hoan nghênh sáng kiến đó cả hai tay.

Duyên cũng mau mắn nói:

- Chúng ta nên thực hành ngay bây giờ. Tôi đề nghị lấy tên là Thi văn đoàn Hoa Thiếu Niên.

Phương cười nụ:

- Tên ấy rất hay, gợi ta nhớ mãi đến tạp chí đầu tiên trên bước đường nghệ thuật của chúng ta. Giờ ta nên bầu Ban Chấp Hành.

Bọn trẻ hăng say trao đổi ý kiến. Sau một giờ thảo luận, chúng bầu xong Ban Chấp Hành Thi văn đoàn Hoa Thiếu Niên như sau:

Trưởng đoàn: Thanh Xuân

Phó trưởng đoàn: Mỹ Phương

Thư ký: Thanh Quang

Thủ quỹ: Thùy Vân

Ủy viên ngành Văn: Thanh Phong

Ủy viên ngành Thơ: Mộng Duyên

Ủy viên ngành Họa: Hoài Minh

Cố vấn: Tố Nguyệt, Thanh Hùng

Sau khi Ban Chấp Hành thành hình, Quang cười to khoái chí:

- Mình làm cái gì cũng đặc biệt hơn thiên hạ. Thi văn đoàn chúng ta gồm toàn chức vụ quan trọng chớ không có Đoàn viên nào cả.

Duyên cười tươi như hoa:

- Vậy mới hay chớ! Từ đây, Trưởng đoàn và Phó trưởng đoàn sẽ hoạch thảo chương trình, chọn lọc bài vở gởi đăng báo. Duyên chắc các “Anh lớn” không còn dám xem thường chúng mình.

Quang nheo mắt hóm hỉnh:

- Sức mấy mà dám khinh thường!

*

Nửa tháng sau, danh tiếng thi văn đoàn Hoa Thiếu Niên vang dậy khắp trường Dân Trí. Vài tuần báo phụ nữ đã đăng truyện ngắn Mỹ Phương, thơ Mộng Duyên, tùy bút Thanh Xuân. Nhiều phụ trang thiếu nhi cũng đã đăng văn, thơ của Thanh Quang, Thùy Vân, Tố Nguyệt. Có báo còn đăng trọn danh sách Ban Chấp Hành Thi văn đoàn Hoa Thiếu Niên nữa.

Xuân, Quang vô cùng đắc ý với thành quả tốt đẹp đầu tiên. Chúng không còn mặc cảm tự ti trước các anh lớp lớn. Nhưng sung sướng hơn cả là Mỹ Phương và Mộng Duyên. Chúng đã bắt đầu thực hiện giấc mộng đẹp ngày xưa. Mỗi lần cầm tờ báo có đăng bài mình, Phương có cảm giác như vừa nhận được một phần thưởng quý giá vô ngần. Riêng Duyên thì suốt ngày ngắm nghía bài thơ mình được lồng khung trên trang báo, ngâm vang lên để tự mình thưởng thức say sưa. Niềm vui văn nghệ ấy chỉ có những tâm hồn thiết tha với nghệ thuật mới biết tận hưởng.

Học sinh trường Dân Trí thích đọc văn, thơ của Thi văn đoàn Hoa Thiếu Niên. Chúng đọc vì tọc mạch cũng có, mà vì hãnh diện đoàn thể cũng có. Dầu sao thì trường chúng cũng có những mầm xanh văn nghệ xứng đáng góp mặt với các trường khác, với các văn đoàn thiếu nhi khác. Các “Anh lớn” mấy lớp trên bây giờ nhìn chúng với cặp mắt đầy thiện cảm. Và vài tuần sau, các anh ấy đã long trọng mời chúng vào Ban Văn Nghệ trường Dân Trí, đặc biệt phụ trách ngành báo chí.

Một hôm, vào giờ Việt văn, giáo sư bước vào lớp với vẻ mặt vui tươi hơn mọi bữa. Giáo sư cầm trên tay mấy quyển sách, vài tờ tuần báo và nhật báo. Trước khi dạy, giáo sư niềm nở bảo với học trò:

- Hôm nay, thầy đọc cho mấy em nghe vài bài thơ và truyện ngắn.

Bọn trẻ mừng rỡ, reo lên hoan hô thầy.

Giáo sư lật một tuần báo phụ nữ, chọn một bài thơ, rồi bắt đầu đọc với giọng trầm buồn êm ái. Bài thơ nói lên tâm trạng của một đứa bé lạc loài trong cảnh quê hương khói lửa.

Đọc dứt bài thơ, thầy dịu dàng hỏi:

- Bài thơ ấy có hay không, mấy em?

Bọn trẻ nhao nhao lên đáp một lượt:

- Thưa thầy, hay lắm.

- Mấy em có biết tác giả là ai không?

Một đứa đứng lên đáp nhanh:

- Thưa thầy, tác giả bài thơ ấy là Mộng Duyên.

Giáo sư đưa mắt nhìn Mộng Duyên trong lúc cô bé bẽn lẽn cúi đầu. Thầy cất giọng đầy vẻ trìu mến:

- Mộng Duyên đâu, lên đây thầy bảo.

Duyên từ từ lên đứng cạnh giáo sư, lòng hồi hộp, phập phồng. Giáo sư cầm một quyển sách đưa lên, hiền lành nói:

- Đây là phần thưởng thầy tặng mầm non bé bỏng Mộng Duyên.

Duyên tiếp lấy tặng phẩm. Nàng cảm động chỉ thốt được mấy tiếng:

- Cảm ơn thầy.

Khi Duyên trở về chỗ rồi, giáo sư lại chọn một bài khác trong tờ tuần báo. Thầy ôn tồn nói:

- Bây giờ, thầy đọc cho mấy em nghe một truyện ngắn nhan đề “Niềm đau tuổi mộng”.

Giáo sư cất giọng êm đềm đọc. Đó là truyện ngắn diễn tả cảnh đau buồn của những đứa trẻ mồ côi trong cô nhi viện.

Khi giáo sư đọc dứt, không đợi thầy hỏi, bọn trẻ đã đồng thanh:

- Hay lắm! Hay lắm, thầy!

Một đứa đứng lên hỏi:

- Phải truyện đó của chị Mỹ Phương không, thầy?

Giáo sư mỉm cười nhìn Mỹ Phương đang sung sướng trước những lời khen của các bạn. Ông vui vẻ gọi:

- Nào, Mỹ Phương lên đây chớ.

Đợi Phương lên đến nơi, thầy đưa tận tay em một quyển sách vừa ân cần khích lệ:

- Phần thưởng này thầy đặc biệt tặng mầm non văn nghệ Mỹ Phương.

Một tràng pháo tay vang lên từ dưới lớp. Phương run run tiếp nhận tặng phẩm, miệng nàng lắp bắp:

- Em cảm ơn thầy.

Phương trở về chỗ ngồi, lòng nàng rộn ràng một niềm vui khôn tả.

Đợi cho bọn trẻ lặng im trở lại, giáo sư mới ôn tồn cất giọng:

- Phần thưởng thầy tặng em Mỹ Phương là quyển “Văn chương tranh đấu Miền Nam” của Nguyễn văn Sâm và phần thưởng tặng em Mộng Duyên là quyển “Khi những lưu dân trở lại” của Nguyễn văn Xuân. Hai tác phẩm này ghi lại sự trỗi dậy rạng rỡ của văn chương Miền Nam trong một thời bi hùng nhất của lịch sử dân tộc. Mỹ Phương và Mộng Duyên là người Miền Nam. Nếu hai em nhất quyết chọn con đường văn nghệ, thầy mong hai em hãy làm sao chứng tỏ rằng Miền Nam ta có rất nhiều văn tài lỗi lạc.

Mỹ Phương và Mộng Duyên vội đứng lên.

Mỹ Phương nói:

- Thưa thầy, em hiểu. Em nguyện không hổ thẹn với những người đi trước.

Mộng Duyên tiếp lời:

- Chúng em luôn luôn ghi nhớ lời thầy.

Giáo sư lộ vẻ hân hoan trên khuôn mặt hiền từ:

- Thầy còn có vài điều này khuyên mấy em. Thầy nhận thấy mấy em gần đây quá say mê văn chương mà xao lãng vài môn học khác. Chẳng hạn các em Xuân, Quang, Vân, Nguyệt, về Việt văn mấy em rất tiếng bộ, nhưng Toán, Lý, Hóa lại thụt lùi. Mấy em nên nhớ lời khuyên thâm thúy này của Gia Cát lượng: “Tài cần phải học, học cần phải tĩnh. Không học, không rộng được tài. Không tĩnh, không thành được học”. Mấy em đừng bắt chước lời thơ này của một thi nhân tiền chiến:

“Chàng trai đi học nghe chim giảng,

Không thuộc bài đâu, ấy lẽ thường...”

Xuân vội đứng lên, thay mặt đồng bạn:

- Chúng em xin vâng lời thầy.

Giáo sư nói tiếp với giọng dịu dàng, trìu mến:

- Hiện nay, thầy thấy hàng trăm Thi văn đoàn ra đời, hàng nghìn bạn trẻ viết văn. Nhưng rồi đây thời gian gạn lọc, thử thách, không còn bao nhiêu kẻ có thể đeo đuổi con đường văn nghệ đến vinh quang. Chỉ những kẻ có chân tài, có chí kiên nhẫn mới đi đến đích cuối cùng. Dầu sao, tuổi của mấy em hiện nay là tuổi hăng say, lý tưởng nhất. Các em hãy tận hưởng những niềm văn nghệ hôm nay. Ngày kia, các em trở thành nhà văn, nhà thơ thật sự rồi, những niềm vui trong lành ấy không còn nữa. Phần đông, đời nhà văn khổ lắm. Mấy em dám chấp nhận sự khổ đó hay không?

Bọn trẻ im lặng. Bầu không khí lớp học trở nên nghiêm trang lạ lùng.

Phương bỗng cương quyết đứng lên:

- Thưa thầy, em vui lòng chấp nhận mọi gian khổ, miễn được trở thành nhà văn.

Duyên, Xuân, Quang cũng đứng lên. Duyên thay mặt nói:

- Thưa thầy, chúng em cũng vậy.

Giáo sư mỉm cười:

- Nói thì dễ nhưng thực hành khó lắm, mấy em ơi! Dầu sao, thầy mong tất cả các em đều sẽ được toại nguyện.

Phương nhìn Duyên, nhoẻn cười sung sướng. Xuân nắm tay Quang như muốn giữ vững niềm tin. Cả bốn trẻ đều thấy lòng phơi phới, lâng lâng như vừa thưởng thức được một làn hương thanh thanh, dìu dịu...

 

Thẩm Thệ Hà      
--------------------------------
1Lớp 6 bây giờ.
2Học kỳ.
3Đệ Lục là lớp 7, Đệ Ngũ là lớp 8, Đệ Tứ là lớp 9.
oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>