Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2014

CHƯƠNG IV_MÁU ĐÀO NƯỚC LÃ


IV


Ban đầu tôi định đi thẳng vô trường xin nước uống, vậy mà khi đến nơi rồi tôi lại chùng chình không dám. Tôi sẽ gặp bà Đốc hay bọn học trò? Sẽ gặp thầy tôi? Chết mất! Tôi không đủ can đảm nhìn mặt thầy tôi. Chưa chi, tôi đã tưởng tượng ra cái vẻ kinh ngạc đầy hờn trách của thầy tôi, chắc thầy tôi sẽ hỏi khi thoạt thấy mặt tôi: "Sinh! Sao con bỏ học?". Mới nghĩ đến đó tôi đã nghẹn cứng cổ rồi. Tôi đã đi dọc theo bờ tường, vòng về phía lớp học tôi năm ngoái. Tường cao quá, tôi chẳng thấy gì, nhưng tiếng giảng bài của thầy tôi vượt qua tường, bay thẳng vào tai.

Vẫn cái giọng hiền hòa, ấm áp ấy! Chắc thầy vẫn mặc cái áo xuyến đen mông mốc ấy? Chắc thầy vẫn mang đôi guốc gỗ tróc cả sơn ấy? Thầy ơi! Con đây! Sinh đây! Con cách thầy có một bức tường thôi! Làm sao con thấy thầy được? Làm sao để thầy biết rằng con ao ước được nhìn mặt thầy biết là chừng nào? Làm sao thầy hiểu được rằng con muốn sà vào lòng thầy mà khóc, khóc cho hả để thầy vuốt tóc và lau nước mắt cho con? Sao con không đàng hoàng đi vào cửa chính gặp thầy? Nào con làm gì nên tội?

Còn cái thơ... trời! Tôi vụt nhớ đến cái thơ tôi nắn nót viết cho thầy, tôi đã xé đi và vứt vào thùng rác. Thầy, con đâu phải vô ơn bạc bẽo, nhưng con còn gởi thơ đó làm chi, khi mà thơ chưa tới tay thầy thì con đã phải vĩnh viễn rời bỏ nhà trường! Uổng công thầy dạy dỗ con, khuyến khích con, lo cho con cái buộc, cất công đến nhà cậu mợ con thuyết phục hai người để con được đi học. Bao nhiêu là công khó của thầy?

Ơi! Cái buộc! Vậy mà con cứ ngỡ là cái buộc đủ sức cột con lại nhà trường! Sự thật thành ra khác hẳn...

Nước mắt dâng lên, trào ra dòng dòng và tôi không hề có ý ngăn giữ như từ trước nay tôi thường làm vậy. Tôi mặc nó chảy dài, ướt đẫm má tôi. Tôi nhắm nghiền hai mắt, gục đầu vào tường, khóc lên rưng rức, hả hê, thích thú, vừa cảm thấy thích thú vừa ngạc nhiên thấy mình không ấm ức như những lần khóc thầm, khóc trộm trước nay. Chắc vì bao nhiêu khổ sở dồn nén được "tuôn" ra hết?

Rồi vụt cái tôi băng mình chạy, không quay đầu lại vì y như có tiếng thầy tôi đuổi gấp sau lưng:

- Sinh! Sao con bỏ học?

*

Thình lình, trong lúc đang băng mình chạy tôi nghe có tiếng rất quen thuộc gọi tên tôi giật giọng. Không kịp nghĩ ngợi, không kịp nhận ra tiếng đó của ai mà hai chân tôi chậm lại. A! Con Cúc! Con đó là con quỉ. Nó cùng học một lớp với tôi năm ngoái. Lẻo mép và ác không tưởng tượng. Tôi hối vì trót dừng chân, song muộn quá. Nếu tôi biết là nó gọi thì đã chạy luôn rồi.

- Ê, Sinh! Về hồi nào vậy?

- Mới về sáng nay.

- Sao về chi vậy?

- À... tại...

Thấy tôi ấp úng, nó hỏi dồn:

- Bộ nghỉ hè rồi sao? (cười) Nói chơi, có buộc mà sao bỏ học vậy?

- Cậu tao đau, tao về thăm.

- Láo (nó lại cười và "xùy" lên một tiếng) láo toét!

- Láo cái gì? Cậu tao đau thì...

- Ờ! Thì tao biết chuyện ổng đau rồi. Mà mầy bị bắt về luôn chớ không phải về thăm...

Đúng là con quỉ: cái gì nó cũng biết! Tôi gân cổ, cãi.

- Bậy, ai nói vậy?

- Úi chà! Còn giấu chớ!

- Ai thèm giấu chi? Thăm cậu tao xong, tao...

Cúc bĩu môi, giọng nó dài ra:

- Còn giấu nữa! Hứ! (Nó vỗ một tay vào ngực) Tao biết hết rồi, Sinh ơi! Tao biết hết...

Tôi cáu tiết lên song còn làm bộ cứng:

- Mầy biết gì?

- Biết mợ mầy ác chứ biết cái gì? Còn làm bộ…

- Mắc gì làm bộ? Đồ con gái nhiều chuyện.



- Không làm bộ! Ha! Không làm bộ (lần này giọng nó thấp xuống ra vẻ thân mật và bí mật) Sinh ơi, tao thương mầy quá, mầy dại quá!

- Dại cái gì?

Tôi chột dạ, ngứa ngáy như có con gì cắn sau lưng. Cúc nghiêm nghị:

- Mầy có buộc đàng hoàng chớ tốn kém gì của họ mà họ bắt mầy về. Sao mầy không biết nói? Sao để họ bắt về "làm mọi" hoài vậy?

Tôi hoa mắt lên, sùi bọt mép vì giận, vì câu nói tai ác đó rất đúng với ý nghĩ của tôi. Tôi không nói tiếng nào, giang thẳng cánh, nghiến răng tát mạnh một cái vào mặt nó rồi cắm đầu chạy biến.

Được một quãng ngắn, tôi dừng lại hổn hển thở, nửa khổ sở, hối hận, nửa bằng lòng vì mình đã có gan trị một con quỉ cái! Con quỉ mà trước nay tôi chỉ biết sợ hãi và né tránh.

Cơn đói lại dậy lên, lần này nó như bào như nạo trong ruột tôi, y như có bàn tay vô hình nào chẹn lấy bụng tôi, ấn mạnh xuống một cái làm tôi đau thắt rồi thả ra, rồi lại đè ấn xuống. Tôi đau lặng người đi.

Mắt tôi hoa lên, tay chân rã rời, bủn rủn song tôi còn kịp thấy cổng nhà hiện ra ngang tầm mắt.

Bóng chiều đã ngã, nhưng tôi không chút vội. Tôi dừng bên vệ đường rồi ngồi phệch xuống và tựa vào thân cây cho đỡ mệt. Đột nhiên tôi nhận ra đó là cái thân cây tôi đã dựa khi vác chuối về nhà, gặp thầy tôi vào buổi sáng chúa nhật nọ.

Tôi muốn khóc song hình như không còn nước mắt.

Tôi thấy dửng dưng, không sợ hãi, không lo âu, cũng chẳng chút buồn rầu hay hy vọng. Chán nản dâng ngập lòng tôi khi lên bộ, còn bây giờ thì tôi trơ ra như gỗ đá vô tri.

Tôi nằm xoài xuống, ngửa mặt nhìn trời. Trời xanh thẫm, những cuộn mây trắng nhẹ nhàng trôi giạt về một góc theo hướng gió. Tôi bỗng ao ước mình được trôi dạt bềnh bồng như đám mây kia.

Gió hiu hiu thổi. Trời đất bao la như vậy mà tôi không có một chỗ dung thân? Hay là tôi bỏ đi, đi biệt? Vô rừng cho cọp ăn thịt hay đi bất cứ nơi nào cũng được.

Ừ! Thì một mình! Lúc nào cũng một mình thôi! Không mẹ cha, bạn bè, không họ hàng thân thích. Đi xin? Ăn cắp? Làm bất cứ thứ gì cũng được, được tất. Không cần biết, miễn hít thở được chút tự do, dù có chết cũng cam. Tôi đã quá khổ, chẳng thiết tha, sợ hãi bất cứ một cái gì chờ đợi tôi ở ngày mai.

Được rồi! Tôi sẽ... nhưng lạ chưa... tôi không nghĩ tiếp được nữa, giấc ngủ kéo đến, hai mắt tôi ríu lại…

*

Chưa bao giờ tôi ngủ được một giấc ngon lành như vậy (trọn đêm trước tôi cứ phải chập chờn cảm thấy mình bị bao vây trong một đêm sâu, dày và dài khủng khiếp). Tôi đánh một giấc thẳng cánh từ nhá nhem cho đến lúc gà gáy sáng vang lên từng loạt. Ngủ đói thật nhẹ nhàng, khỏe khoắn. Vành trăng hạ tuần chênh chếch, vàng ệch, mỏng tanh và cong vòng, y như một bên lông mày của chị Mai, lửng lơ trên nền trời lờ mờ nhàn nhạt. Sao thưa thớt và cũng như ngái ngủ, ít chớp nháy hơn đêm qua. Ðêm qua sao nhiều không tả được, nhiều chi chít trông tựa lũ trẻ lau nhau, lóc nhóc; còn đêm nay thì y như mấy bà già chán chường che miệng ngáp dài.

Tôi ngạc nhiên thấy mình rất tỉnh táo, khỏe và lạ kỳ nhất là không thấy đói chút nào.

Tôi bắt đầu lo ngại về cái tội "ngủ lang" đêm nay. Chắc cậu mợ không dung tha cho đâu. Tại làm sao "nhà" ngay trước mặt đó mà không về? Lại nằm đây mà ngủ chớ? Rõ là tôi có máu đứng đường rồi! Không còn chệch đi đâu nữa.

Nghĩ đến những lời nhiếc nhóng đó, tôi lại uất, lại nghẹn, lại thấy tức dội trong lồng ngực. Thốt nhiên, máu tôi như sôi lên và sự quyết định đến rất bất ngờ, nhanh chóng: đáng lẽ chỉ còn một quãng ngắn nữa là đến nhà, tôi quay lưng về hướng "nhà", đi thẳng.

Tôi không cần biết mình đi đâu. Cốt từ nay khỏi thấy đàn bồ câu no đủ hơn tôi, khỏi thấy đàn chó dữ được cưng dưỡng hơn tôi. Tôi là người sao tôi thua cả chúng?

Gió sớm quét lên người tôi lành lạnh, tôi chợt nghe trong người nhẹ lâng như mọc cánh: từ nay chẳng ai chửi bới cha tôi nữa, không ai lôi mẹ tôi ra mà tỏ lời thương hại nữa. Tôi khỏi thấy những nét mặt đanh ác, không chịu những trận đòn tóe máu, nhất là khỏi nghe những lời nói ray rứt, cay độc làm tôi đau tê điếng hơn cả những lằn roi! Tôi còn muốn gì hơn???

Tôi đi đây! Đói ư? Rách ư? Lạnh ư? Khổ ư? Được! Tôi chịu được tất! Tôi chịu được tất! Tôi chẳng sợ một thứ gì tất. Sá gì những thứ đó? Tôi đương đầu được tất. Ngay sự chết cũng không đủ sức làm tôi đổi ý, chùn chân. Chết? Càng tốt! Tôi sẽ sớm gặp mẹ tôi và lần này tôi quyết chẳng để bà vuột khỏi tay tôi nữa. Tôi sẽ níu cứng vạt áo mẹ tôi, không rời ra nửa bước, ngay cả lúc mẹ tôi đi vào nhà tiêu. Rồi xem!

Dưới ánh sáng nhờn nhợt của sao thưa và của vành trăng cong như hàng lông mày của người tôi ghét, tôi cứ đều chân bước.


 Trí khôn của tôi bảo tôi phải đi gấp ra khỏi vùng này, đến một nơi nào không ai biết đến uy thế của cậu tôi. Có vậy may ra tôi mới có được chỗ nương thân. Đành rằng từ nay tôi sẽ phải đổ mồ hôi để có cái ăn, đem sức vóc của số tuổi mười một mà làm việc mới có cái mặc; nhưng những người biết cậu tôi sẽ không ai dám chấp chứa tôi đâu, tôi biết thế. Tôi vừa nghĩ ngợi vừa đều chân bước.

Trời sáng dần, sáng rõ.

Tôi lại thấy mỏi chân và nghe đoi đói. Chân tôi chậm lại...

Thình lình, có tiếng kêu lên:

- Tránh ra chút, nhỏ!

Tôi vội vàng né sang một bên nhường lối. Một người con gái gánh hai thúng ngô luộc to tướng từ sau lưng tôi trờ tới. Dáng chừng mới vớt ra khỏi nồi nên dù tôi thấy chị ta đậy kỹ mà hơi nóng vẫn bốc lên làm ấm cả lưng tôi. Mùi thơm quyện trong không khí ban mai đưa lên tận mũi làm nước dãi tôi ứa ra đầy miệng. Tôi thở dài, ngầm ước: giá mình được một...

Chị gánh bắp bỗng kêu lên một tiếng: "cha", đặt gánh xuống, ngồi bệch xuống lề đường, bên bờ cỏ, lật bàn chân lên tìm kiếm, săm soi. Ra chị ấy dẫm phải gai. Chỉ một nháy tôi đã bắt kịp chị và cũng ngồi cạnh đó, không phải mục đích để nghỉ mà để ngửi cho đỡ đói... và bớt thèm.

Chị vừa nhổ được cái gai ra, vừa nặn máu vừa thổi phù phù vào gang bàn chân. Thổi xong, chị ấy quay ra nhìn tôi một cách chăm chú làm tôi đâm ngượng.

Không biết sự đói thèm của tôi biểu lộ cách nào mà chị kia nhận ra, lên tiếng:

- Ưng ăn bắp hả?

Tôi không dám trả lời, chị ta tiếp:

- Ưng thì mua ăn đi, em! Chị bán rẻ cho, bán mở hàng. Tao ưng bán cho con trai, con trai mau mắn.

Vừa nói chị vừa lật ngửa cái trẹt đậy trên thúng ngô, kéo mấy tàu lá chuối qua một góc, mùi thơm và làn hơi lại có dịp bốc lên tưởng điếc cả mũi tôi! Tôi quay đầu phía khác, tránh mùi thơm và chớp mau hai mắt cho hai giọt nước rụng nhanh kẻo chị ta trông thấy.

Trông dáng bộ thẫn thờ của tôi, chị tò mò:

- Sao vậy em?

- Em không có tiền.

Tôi buột miệng trả lời.

- Đồ yêu! Làm bộ... mặt mũi vậy mà la không có tiền. Ưng ăn chực phải không?

Chị đậy sập cái trẹt lại, vùng vằng tra đòn gánh lên vai, không quên nguýt tôi một cái sau câu nói.

Được mấy bước chị ta đặt gánh xuống ôm chân xuýt xoa. Tôi vẫn ngồi yên không nhúc nhích.

- Nhỏ, lại biểu nè!

Chị kêu lên nhưng tôi giả vờ không nghe, không thèm "lại" chi hết.

- Em con ai?

-…

- Nhà ở đâu?

-…

- Đi đâu vậy?

Tôi không nín được nữa:

- Đi làm ăn. Chị hỏi chi?

- Đi "làm ăn"? Quỉ thần ơi! Bộ tướng như con cò hương mà nói đi làm ăn... Bộ em không có cha mẹ gì sao?

- Sao không có?

- Cha mẹ em đâu?

- Chết.

Tôi trả lời gióng một. Chị ấy lại kêu lên:

- Chết? Tội chưa! (giọng chị càng dịu dàng hơn) Em đói bụng không?

Tôi không trả lời câu hỏi mà lại:

- Hỏi chi? Tôi không có tiền mà.

Tôi nói thế xong rồi đứng phắt lên, dợm bước đi. Bụng nghĩ : "toàn tụi lẻo mép" trong lúc nhớ lại những lời con Cúc hôm qua. Chị chồm người tới, vói nắm tay tôi lại:

- Ngồi đây! Chị lấy bắp cho ăn, em! Tao chưa bán mở hàng, mà thôi... (chị tắc lưỡi một cái y như kẻ định làm liều) kệ nó, không cần.

Và chị vục tay vào thúng ngô, lôi ra hai trái đưa cho tôi, âu yếm nói:



- Ăn đi em! Tội nghiệp! (như nói một mình) Bây lớn mà mồ côi, (với tôi) em có biết chữ không!

- Dạ biết. (tôi vừa nhai nhồm nhoàm vừa trả lời).

- Giờ em tính đi đâu?

- Đâu biết đi đâu, cứ đi đại, tới đâu thì tới.

- Ý, không được đâu, lang thang như vậy lấy gì mà ăn? Ngủ ở đâu?

- Em ngủ ngoài hiên nhà họ, ngoài bụi, cần gì?

- Rồi lấy gì mà ăn?

- Em đi ở mướn...

- Mẹ ơi! Bằng củ khoai mà nói nghe ngon lành không? Mày làm được giống gì?

- Cái gì mà tôi làm không được?

Đáng lẽ xưng em nhưng tôi hơi tức vì chị ấy kêu tôi bằng mày nên xưng tôi.

Chị tròn mắt lên, tôi biết chị không tin, nói luôn:

- Thật mà, tôi quen khổ rồi, tôi ở với người ta...

- Sao không ở nữa?

- Họ hành hạ quá, chịu hết nổi, chị à!

- Thằng em tao bằng mày, tinh là ăn với phá không, phải chi... phải chi...

- Phải chi làm sao chị?

- Phải chi nhà có của, tao đem mày về nuôi liền. Nhà chị cũng nghèo quá, em ơi!

Câu sau cùng chị thấp giọng xuống làm tôi vừa xúc động vừa sung sướng, vì thấy trên đời này còn có người thương mình, tuy vậy, tôi làm bộ chững chạc nói:

- Không sao đâu, em kiếm việc được mà. Lo gì.

- Mà em nhỏ xíu vậy, ai thèm thuê?

- Nhỏ thì nhỏ, miễn em biết làm công việc thôi chớ, kể gì lớn nhỏ?

- Khó lắm! Ai biết gốc gác em ở đâu? Ai tin em, lỡ...

- Thì em đi xin, đi ăn cắp, sao cũng được, không cần.

- Chết!

Chị kêu lên, lấy tay bịt miệng tôi lại, thêm: "Đừng nói bậy, em!" Tôi không nín được nữa, bật lên khóc. Chị khóc theo...

- Chết cha! (chị vụt kêu lên, thảng thốt) Trưa rồi. Thôi, chị đi chợ. Tội quá!

- Chị đừng lo, em không chết đói đâu.

- Ừ! Thôi, em đi đi! Ăn bắp nữa không? (chị thò tay vô thúng đưa tôi hai trái nữa, tôi muốn từ chối nhưng cái đói mạnh hơn, làm chủ ý muốn tôi) Nhỏ! Cố kiếm công chuyện làm ăn, chuyện gì cũng được, cực khổ mấy cũng được, cùng lắm thì đi xin, chớ đừng ăn cắp, nghe không?

- Dạ, em nghe rồi. Thôi chị đi bán kẻo trưa.

Chị lại tấm tức khóc, vừa khóc vừa tra gánh lên vai, dợm bước đi nhưng rồi lại đặt gánh xuống, bước lại gần tôi, dặn:

- Lỡ như không có công chuyện gì thì em cứ ra chợ P. mà tìm chị, thế nào cũng gặp chị, rồi tính sau, chớ đừng đi bậy, nghe em? Nhớ chưa? Chợ P...

- Dạ, em nghe rồi. Em nhớ rồi.

Chị trù trừ một giây rồi gật gù ra vẻ bằng lòng, tra đòn gánh lên vai. Tôi đứng lặng nhìn theo: bước chân chị càng lúc càng mau, ý chừng để bù lại chỗ thì giờ cà kê trò chuyện với tôi. Thỉnh thoảng, tôi thấy chị kéo vạt áo lên, chắc là để lau nước mắt? Chiếc đòn gánh cong oằn, nhún nhảy theo nhịp chân của chị, song chị không quay lại nhìn tôi lần nào nữa.

Tôi thấy lòng xao xuyến, buồn rầu như vừa mất đi một cái gì quí lắm mà tôi khó lòng tìm thấy.

Tôi thở dài, ngồi xuống, tiếp tục ăn cho xong. Cạp hết hột rồi tôi hút chất nước trong cái cùi bắp. Nước ngọt như có đường trong đó vậy. Hút một lát nước trong cùi bắp cũng hết nhẵn, tôi ngó quanh chẳng thấy ai, liền nhai luôn cả mấy chiếc cùi. Nhịn đói trọn ngày hôm qua, ăn chừng đó đâu đủ no mà làm bộ, kén chọn nỗi gì, kia chứ?

*

Trọn sáng đó, tôi đi đến đâu cũng bị nhìn bằng những con mắt nghi kỵ và nghe những lời tương tự như sau:

- Bộ tướng mày làm lụng gì được mà thuê?

- Làm sao tin mày được?

- Trẻ ranh, cút đi! Ui chao! Cái đời chi mà loạn, quỉ ranh lẫn lộn với người, khó lòng phân biệt.

- Giả đò đi... giả đò đi... không có ai là "chớp" đồ đạc của người ta...

Nếu tôi có mở miệng kêu gọi đến lòng nhân thì lại nhận được những cái lắc đầu quầy quậy:

- Thôi ôn con! Tao thương mày mà có ai thương tao không? Hay là…

Tôi cầu khẩn xin được ở làm việc, ăn cơm không, vẫn không ai chịu nhận, không ai tin và tệ hơn nữa: không ai kiên nhẫn để coi tôi trổ tài làm việc cả.

Tôi đành tiếp tục đi. Cho đến xế chiều thì tôi hết dám bước vô cửa nhà ai để xin ở nữa. Chắc mình phải đi xin rồi. Tôi nghĩ một cách tự nhiên, không chút buồn, tủi và không mảy may hối hận về hành động liều lĩnh của mình. Tôi đã quá xa đường về nhà cậu, tôi đã thoát tất cả những khổ nhục, dù đói, khổ và không biết ngày mai ra sao, tôi vẫn hài lòng.

Khi mặt trời ngả bóng, thì tôi biết rằng tôi đã vô tình chọn con đường lên núi, xa rời miền biển. Càng hay! Mình sẽ hái trái cây ăn đỡ, đến đâu hay đó. Gió núi thổi nghe hun hút, tôi rùng mình một cái, nghe ơn ớn lạnh, nghĩ đến đêm nay không biết ngủ nhờ ở đâu, tôi lại lạnh thêm.

Nhà cửa thưa thớt dần, cỏ cây dày đặc lại. Gió lao xao trên đầu tôi làm tôi bất giác ngẩng nhìn lên: dưới nắng chiều vương sót lại, những đọt cau và một cây thánh giá quét vôi trắng trên nóc nhà thờ lấp lánh như chào mừng tôi làm tôi thấy hy vọng đang tàn, đang chực tắt ngấm trong lòng tôi vụt lại lóe lên. Đột nhiên, tôi thấy mình ấm lại và hăng hái lên một chút. Tôi phải vô đây, may ra... Ờ! Biết chừng đâu?

Ấy, nghĩ như vậy mà rồi khi chân càng lại gần nhà thờ thì tim tôi càng thình thịch đập, một nỗi lo lắng, sợ hãi xâm chiếm lấy tôi, tôi nguội dần ý định. Tôi sợ bị đuổi ra, sợ người ta nghi ngờ, sợ người ta biết rõ tông tích, sợ... ôi! Sao tôi sợ nhiều thứ thế?...

Sau cùng, tôi thu hết can đảm vào chân, bước thẳng lại hiên. Một bà già bước ra, tay xách cái nồi đồng, tay bưng rá gạo, cất giọng khàn khàn, hỏi:

- Đi đâu? Nhỏ?

Gớm, mặt bà trông nhăn nheo như trái táo khô, người như vậy chắc không biết thương xót ai đâu
tôi nghĩ bụng sao tôi không gặp một người con gái như chị bán bắp hồi mai? Sao chị ấy lại nghèo quá như vậy chớ? Hay là những người có lòng tốt đều nghèo khổ hết? Khốn khổ thân tôi chưa?...

- Ủa, đi đâu sao hỏi không nói, thằng kia?

- Dạ, thưa bà...

- Cái gì đó bà Năm? Có ai tới phải không?

Một giọng đàn ông trong trẻo vang lên cắt đứt lời tôi, rồi trên bậc thềm chỗ cửa hông nhà thờ một ông cha cố bận áo đen dài phủ kín cả chân vừa xuất hiện.

Đây là lần đầu tôi thấy một ông cha cố người mình. Thường thường tôi thấy những cha cố người Tây, trông giông giống ông Công Sứ và ông nào cũng làm tôi sợ hãi hơn là kính nể. Râu ông nào cũng dày như tóc, mắt thì xanh lơ, mũi khoặm, giọng nói tiếng mình rất ồ ề khó nghe; đặc biệt ông nào cũng to lớn đồ sộ làm tôi thoạt nhìn là run lên. Tôi cứ tưởng tượng là ông sẽ giẫm nát ngướu tôi ra nếu tôi lớ quớ lại gần mà ông không thấy. Ông Cha Cố! Hình ảnh đó là hình ảnh đáng sợ đối với tôi, ma quỉ đưa đường dẫn lối làm sao mà tôi lại lọt vào đây, trời hỡi!

Chỉ nguyên một cái tên nghe đã dữ rồi: vừa làm Ông, vừa làm Cha, vừa làm Cố chớ ít ỏi gì sao?

Ông Cha Cố này coi bộ hiền hơn, nhưng trước sau gì vẫn là một ông cha cố! Cái áo chùng đen rộng thùng thình đó là biểu hiệu của cái gì tối tăm, bí mật, rất đáng sợ, đáng ngờ mà tôi không hiểu nổi, chỉ lờ mờ cảm thấy thế.

- Dạ thưa cha, có thằng nhỏ nào lạ hoắc lạ huơ...

- Con đi đâu? Hỏi ai?

Ông cha cố lại gần tôi, ôn tồn hỏi:

- Dạ, thưa ông cha cố, con đi kiếm việc làm.

- Kiếm việc làm? Con mấy tuổi?

- Dạ, thưa ông cha cố, con mười một tuổi.



- Khổ chưa! Mười một tuổi gì mà đẹt quá vậy, con? Cha mẹ con đâu?

- Dạ, thưa ông cha cố...

- Đừng có thưa ông cha cố nghe không? Thưa cha được rồi, con!

- Dạ, con không còn cha mẹ, cha mẹ con bị chìm ghe chết hết...

- Chúa ơi! Tội nghiệp chưa...

Bà Năm chen vô một câu, coi bộ bà tin tôi lắm, song ông cha cố thì không.

- Con nói thật không? Hay là chơi hoang trốn học...

- Dạ, thưa cha, con không có trốn học, con nói thật...

- Cha mẹ con tên gì? Ở đâu?

Tôi toan bịa ra hai cái tên, song ngay lúc đó tôi bỗng xây xẩm mặt mày phải dựa vào bức tường cho khỏi ngã, ông thấy vậy, vội vàng hỏi:

- Con làm sao vậy? Hả?

Tôi muốn thưa rằng tôi không làm sao cả, tôi đói và mệt quá thôi... song tôi chỉ nấc lên, nước mắt trào ra, mồ hôi nhơm nhớp ở lưng, ở trán, ở tay tôi và tôi run bây bẩy. Ông hoảng hốt, kêu bà Năm rối rít:

- Bà Năm! Mau coi! Coi sao thằng nhỏ...

Tôi thoáng nghĩ, rất mau: chắc mình chết quá! Rồi tôi lịm đi, chẳng biết đất trời chi nữa.

*
 
Tôi tỉnh lại và nhớ dần mọi chuyện một cách khó khăn. Mơ hay sự thật?

Mình chưa chết? Bỗng tôi nghe có tiếng đàn bà nói:

- Cha đừng lo, thằng nhỏ trúng gió sơ vậy mà, can gì đâu.

- Ủa, chớ sao hồi nãy ông Lý Trung nói nó đói?

- Dạ, thì đói chứ sao, hễ đói thì bụng trống, dễ bị gió độc nó nhập vô...

- À, ra vậy đó. Tôi chỉ sợ nó bị bịnh gì, chớ còn...

- Không sao, cha đừng lo, để nó tỉnh cho nó ăn cháo...

- Ý, đừng bà Năm, đừng cho ăn cháo. Cho nó cốc sữa đi, bà Năm.

Bà Năm nhăn nhó.

- Sữa làm chi, ăn cháo tốt rồi. Để dành sữa cho cha chớ.

- Đừng tiếc mà, bà Năm, (ông cha kỳ kèo) cứ quấy sữa cho nó, tôi đau ốm gì mà phải để dành sữa...

- Dạ! Bà Năm dạ một cách miễn cưỡng.

Tôi đã nhớ và hiểu ra mọi chuyện. Tiếng nói chuyện lại vang lên:

- Tội nghiệp nó, bà Năm.

- Dạ!

- Đừng nói nặng nó nghe không?

- Dạ!

- Đừng đuổi nó đi nghe không?

Coi bộ bà Năm tức lắm, bà nói:

- Chúa ơi! Cha tưởng con là bà chằn chắc? Bộ con không biết thương người sao?

- Không! Là tôi nói phòng vậy thôi.

- Cha cứ đi ngủ đi, mai đi sớm. Con không ăn thịt nó đâu mà cha sợ. Chỉ lo đây rồi cha cưng dưỡng nó quá, nó lại leo lên cổ con mà ngồi như thằng Cu Lân mà chớ.

Ông cha cố cười to lên và bà Năm cũng cười theo. Tôi hí hửng trong lòng, lắng nghe hai người nói chuyện.

- Cha nhứt định lập trường sao?

- Thì tôi đã nói với bà Năm hồi năm ngoái rồi mà, hỏi gì lạ vậy?

- Con chỉ sợ cha mệt thôi, cha tu hành, phận sự cha là lo phần hồn thôi chớ. Chuyện học hành, chuyện phần xác thì có... nhà nước họ lo, mắc gì cha gánh cho cực thân?

- Bà Năm đừng nói vậy. Cứ khoanh tay ngồi chờ nhà nước thì con nít vùng hẻo lánh này dốt nát đến chừng nào? Kỳ này tôi nhất định xin cho được cái giấy phép mở trường...

- Cha lo chuyện phần hồn...

- Vậy chớ bà Năm nói cái nào là phần hồn, cái nào là phần xác đâu, chỉ coi?

Bà Năm tặc lưỡi một cái, không trả lời. Im lặng. Tôi đợi mỏi trở mình nhè nhẹ. Ông cha reo lên:

- Bà Năm! Coi thằng nhỏ... nó rục rịch kìa!

Nhưng bà Năm chưa đến gần tôi, ông đã đến đặt tay lên trán tôi và nhìn tôi bằng đôi mắt hiền từ:

- Con có khoẻ không? Con sốt đây mà...

- Dạ, con khỏe rồi.

- Con uống sữa không?

Không đợi tôi trả lời, ông day qua bà Năm:

- Cho nó uống sữa đi, bà Năm.

Bà Năm vội vàng đi pha sữa. Tôi muốn ngăn lại, xin ăn cháo song nghĩ rằng mình còn có cả một đời để ăn, không vội.

Đón ly sữa trên tay bà Năm, tôi uống cạn một hơi, mặc dù ông cha đứng bên không ngừng nhắc: "Coi chừng, phỏng miệng". Uống xong, tôi tính đứng lên, ông ngăn:

- Con nằm xuống, đang sốt…

Tôi cảm động và hối hận vì mình đã nói dối, muốn thú thật mọi chuyện nhưng rồi lại nghĩ: không nên hấp tấp, thú thật bây giờ cha cố sẽ đem mình về trả cậu. Không! Cứ để thong thả...

- Con biết chữ không?

- Dạ, thưa cha, biết, con có học...

May, tôi ngưng lại kịp. Thong thả, lo gì?

- Con có đi học à?

- Dạ, con mới biết qua mặt chữ...

- Được rồi, cứ ở đây với cha, rồi con sẽ được đi học. Cha sắp có trường.

- Dạ!

- Trong lúc chờ đợi, con phải ngoan, không được cãi lời bà Năm trong lúc cha đi vắng, nghe không?

- Dạ!

- Không được rong chơi, hái phá cây trái ngoài vườn, nghe?

- Dạ!

- Phải tập làm việc, quét sân nhà, lau bàn ghế...

- Dạ, con sẽ làm việc. Con làm được nhiều việc lắm.

- Đừng nói tướng, con làm việc gì mà nhiều lắm?

- Dạ, con xay lúa, gánh nước, xắt chuối heo...

- Không, ở đây không ai bắt con làm những việc nặng nhọc quá sức con như vậy đâu. Chỉ làm những việc vừa sức con thôi. Cần nhất là con phải thật thà, yêu kính bề trên và tin tưởng.

- Dạ.

- Thôi, con ngủ đi! Từ nay con sẽ ở đây với cha, không có đi lang thang nữa. Nhưng con phải nhớ là ở đây không dễ dàng, buông lỏng đâu. Con phải cố gắng để được hay, được tốt. Phải làm việc chớ không lêu lổng được. Mọi người ở đây đều làm việc, chịu không?

- Dạ.

- Chừng có trường thì con sẽ được đi học, nhưng đi học về cũng phải làm việc nữa, chịu nổi không? Ở đây không có nuông chiều, mà chỉ có kỷ luật. Con bằng lòng không?

- Dạ, bằng lòng.

Tôi trả lời, giọng chắc nịch nghiêm trang như người lớn.

- Vậy thì tốt lắm Thôi con ngủ đi.


- Dạ.

Ông cha đứng lên, thổi tắt phụt ngọn đèn.

Bóng tối phủ chụp xuống căn phòng nhỏ, bóng tối êm dịu như lời ru, ngọt ngào như mật. Bóng tối lần này không làm tôi sợ hãi mà làm tôi yên tâm và phấn khởi lạ lùng.


Hình như tôi mang máng cảm thấy thế lần này tôi đã với tay nắm được TÌNH THƯƠNG, tuy tình thương đó do một người mặc cái áo đen rộng thùng thình, có một bề ngoài lạnh lùng bí mật, chứ không dễ dãi, thân thiết, vồn vã như người con gái hồi mai. Tuy tình thương đó không biểu lộ một cách ồ ạt, âu yếm như của một người cha vui, không giống như cử chỉ dịu dàng của người mẹ tốt, tình thương đó không ban phát riêng ai, nó là một tình thương rộng lớn bao la như cây rừng, nước biển và tình thương đó ẩn trong những lời lẽ chừng mực, trang nghiêm, trong kỷ luật, tôi tưởng cũng quí báu vô vàn với đứa trẻ quá nhiều bất hạnh như tôi!

Nào tôi có mong muốn chi hơn nữa? Vì tôi biết từ đây tôi chẳng bao giờ còn phải sống trong những cơn ác mộng, thế chẳng đủ, quá đủ hay sao?


Lần thứ nhất trong những ngày thơ ấu, tôi nằm nghiêng, úp mặt lên gối, thổn thức, rưng rưng khóc vì sung sướng, và cũng lần thứ nhất tôi mường tưởng đến Ngày mai một cách hân hoan tin tưởng.

Vậy mà, suýt nữa tôi nhảy xuống sông, mà suýt nữa tôi... làm mồi cho cá mập, có ghê không? Tôi cười trong bóng tối khi nhớ đến những điều này.

Tôi thấy mình nở bung ra như hạt ngô rang, và tôi đi vào giấc ngủ một cách dung dị, môi chưa tắt hẳn nụ cười, trong bóng tối êm dịu như bàn tay mẹ và tiếng gió rì rào như những lời ru.

 
MINH QUÂN
Hè 66     

Nguồn :  http://tuoihoa.hatnang.com   

Thứ Năm, 27 tháng 2, 2014

CHƯƠNG III_MÁU ĐÀO NƯỚC LÃ


III


Về nhà trọ, chị Mai lầm lì không thèm nói gì nữa, chị thay áo để ra phố sắm sửa, mai về. Chị dặn tôi trước khi đi:

- Hễ anh xe kéo có lại thì nói ảnh mười một giờ tao về nghe không? Nói ảnh muốn chờ thì ngồi chờ, còn không thì cứ về, tới trưa trở lại gặp tao.

Nghe nói, tôi biết ngay là ngày mai chị sẽ về bằng xe kéo. Chắc mình được đi xe kéo quá? Tôi hỏi thầm và rất thích thú trong lòng. Thuở giờ tôi chưa được đi xe kéo lần nào hết. Ngồi trên xe kéo mà ngắm phong cảnh hai bên đường thiên lý thì... phải biết! Thế là tôi quên phắt chuyện buồn trọng đại của đời tôi đi, trong giây lát.

Suốt buổi sáng đó tôi tha thẩn chờ ngóng anh xe kéo, náo nức y như hồi còn mẹ chờ bánh sau buổi chợ, cho đến 12 giờ chẳng thấy tăm bóng anh ta.

Vào khoảng xế trưa, cơm nước xong, tôi ngồi giặt áo, thì anh ta đến. Tôi se sẽ dừng tay, lắng nghe chị Mai mặc cả. Chị trả một đồng, anh ta đòi đồng tư. Chị cao giọng:

- Thôi, một đồng là quá rồi, anh kéo tôi ra tới Mũi chớ mấy? Từ Mũi về Mũi Né tôi phải tốn tiền đi võng nữa, chớ bộ anh tưởng... ăn chi mắc vậy? Anh tính đi: một đồng xe kéo, một đồng võng là hai đồng, ít ỏi gì sao? Không... ấy thì tôi đi ghe cho đỡ tốn, đi ghe anh biết bao nhiêu không? Hả?

Không đợi anh ta trả lời, chị nói tiếp:

- Có một cắc rưỡi thôi, hai cắc là cùng.

- Cô nói! Mùa này Nam lớn, đi ghe khổ chết, đó là chưa kể rủi ro...

- Khéo lo, bộ người đi ghe người ta chết hết chắc? Chưa gì lo trù ẻo…

Giọng chị Mai trở thành chua chát, hằn học. Anh xe đấu dịu:

- Dạ, cô miễn chấp. Đó là tôi nói rủi ro chớ đâu dám nghĩ quấy? Dạ! Con người ăn cơm chớ phải con bò con chó gì sao. Dạ, mà cô nghĩ coi: một đồng tư hai mẹ con... (anh ta vừa nói vừa chỉ vào tôi) thì cũng...

- Không! Đâu phải thằng này, nó là em tôi. Thằng con tôi ở trên nhà bà nội nó kìa, lát nữa vú nó mới ẵm xuống đây. Nó mới ăn thôi nôi, bằng củ khoai mà kể hai nỗi gì?

- Vậy hả? Nãy giờ tôi cứ tưởng thằng này chớ. Vậy sao hồi nãy tôi nghe nói nó cũng về ngoãi?

- Thì nó về chớ sao! Mà điều (tôi nín thở dỏng tai lên) tôi gởi nó theo ghe người quen.

Nghe chị Mai nói, tôi lạnh toát cả người. Tôi sẽ đi ghe? Một mình?

Cái bài hát mà bọn học trò chúng tôi thường hát mừng ông Công Sứ Tây và một ông quan lớn người mình, ông quan bận áo gấm xanh xanh có từng chiếc hoa to tròn lớn bằng cái bát đó, bỗng vang lên mồn một trong đầu tôi, rành mạch, nhịp nhàng:


   "Muôn đội ơn lòng, 
   Hai cụ đồng tâm, 
   Mở con đường mới: 
   Tiện nẻo giao thông 
   Phan Thành Khánh Thiện. 
   Kìa (là kìa) ngày trước 
   Qua mùa Nam khó nỗi (mà) dùng ghe. 
   Sự (cái sự) ra vào trăm bề (là bề) bất tiện..."

Chết tôi rồi! Chị này cố giết tôi mà! Chị này muốn trấn nước tôi đây mà! Tôi nghĩ thầm một cách uất ức, nghẹn ngào. (Thật tình là lúc đó tôi quên rằng mình đã một lần toan nhảy xuống sông). Tôi hết sức lo sợ. Anh xe vụt nói:

- Ối! Nó xương không! (anh ta gục gặc đầu trong lúc ném cho tôi một cái nhìn ước lượng) tôi kéo nổi ba mạng mà. Bây giờ tôi tính vầy, cô chịu không?

- Tính gì nữa?

- Cho tôi thêm một cắc đi!

- Một cắc? Vị chi là đồng mốt phải không?

Anh xe cười hì hì, gãi đầu gãi tai:

- Dạ không, đồng rưỡi chớ.

- Anh này nói nghe kỳ không? Bộ điên sao? Đồng tư ta chưa chịu giờ lại tăng lên đồng rưỡi, anh tưởng đất Phan Thiết này có một mình anh biết kéo xe sao?

- Dạ, tôi nói vậy là tính cho gọn đó chớ, tôi kéo luôn vừa cô, vừa em nhỏ, vừa cả thằng này. Nó khỏi đi ghe, phải khỏe không? Đó, cô coi, như vậy mắc mỏ gì đâu? Cũng như tôi tính phần nó có một cắc chớ mấy, in như đi ghe vậy, cô tính lại coi, coi!

Đề nghị nghe mát tai quá! Biết chừng chị Mai xiêu lòng cũng nên. Tôi quay nhìn chị, mắt đăm đăm không rời miệng chị, song chị lại ra lệnh cho tôi đi ủi áo dài cho chị, vậy là tôi chẳng biết giá cả ra sao. Tuy nhiên, bụng chắc mẩm thế nào mình cũng được đi xe kéo. Ờ! Phải! Mình xương không! Nghĩa lý gì? Thêm có một cắc bạc chớ nhiều nhõi gì mà chị Mai tiếc chớ? Rõ ràng anh xe có nói mà.

*

Cơm chiều xong, chị Mai gọi tôi lại, nói bằng giọng lạnh ngắt:

- Sinh! Sửa soạn ra ghe. Để quần áo sách vở đó tao đem về cho.

Tôi sững sờ, sợ xanh cả mặt. Trời ơi! Vậy là
?... Không cho tôi đi xe kéo thì thà để tôi đi bộ thì hơn. Hồi vô đây học tôi phải đi bộ song tôi không thấy khổ chút nào. Đi dọc theo bờ biển tôi còn thấy thích là khác. Thỉnh thoảng gặp một vườn dừa, ngừng lại ngắm nghía, vui ra phết.

Trưa, ngồi dưới bóng cây, giở cơm vắt ra ăn với muối mè, càng nhai càng nghe vị ngọt của gạo đỏ thấm sâu vào vị giác, ăn không thấy chán.

Rồi trong lúc mấy người lớn lăn ra ngủ, tôi ngồi lặng, lắng tai nghe tiếng sóng vỗ rào rào, bọt trắng xoá tung lên như những dải lụa sáng ngời dưới nắng. Đàn chim bói cá chao lượn rập rờn trên mặt sóng. Gió từ ngoài khơi lồng lộng thổi vào, đập mạnh lên các tàu dừa kêu lên phần phật, soàn soạt...

Cát trắng xóa, trải dài dọc theo bờ biển, thẳng tắp, lấp lánh dưới ánh mặt trời đứng ngọ, nhìn lóa cả mắt đi kìa, trời ạ!

Xa xa, vài chiếc thuyền căng thẳng những cánh buồm trắng ngà, no gió.

Biển thật đẹp song cũng hiểm ác với người ta biết chừng nào. Tôi thường nghe chuyện thuyền chìm người chết hằng ngày: thỉnh thoảng một đứa học trò trong lớp tôi vắng mặt vì cha, anh nó mất tích trong đêm, ở ngoài khơi, trong khi đánh cá hoặc trong một chuyến chở hàng bằng hải đạo. Vậy mà tôi không ngờ có một ngày tôi lại là một nạn nhân của biển cả hiểm ác kia. Tôi đâu muốn làm mồi cho cá mập?

Chị Mai ơi! Tiếc chi một cắc bạc mà không cho em được đi cùng với chị? Tóc chị giống tóc mẹ em, sao chị không biết thương em? Tôi muốn kêu lên như vậy song vẫn làm bộ tỉnh, hỏi:

- Chừng nào chị về?

- Tao với em Tùy mai về, mày về trước đi! Lên ghe ngủ một giấc, sáng sớm ra tới nhà liền, khỏe ru.

Hừ khỏe ru! Khỏe sao chị ấy không đi chỉ bắt mình tôi đi thôi? Đồ quân ác!

- Mày về sáng thì chắc chiều tao mới tới, nhớ thưa cho ở nhà biết, đừng trông.

Tiếng nhà của chị Mai làm cho tôi nhớ tới cái địa ngục đang mở rộng cửa chờ tôi. Thốt nhiên tôi thấy lòng bình tĩnh lạ lùng không chút nào hãi hùng lo sợ về chuyện đi ghe nữa.

Trở về đó hay chết có khác chi đâu? Tôi đã thôi học rồi mà. Còn gì nữa để tôi hy vọng? Không cha, không mẹ, không một người thân thuộc mến yêu... đời tôi kể từ đây coi như là một chuỗi dài những ngày đọa đày, khổ nhục. Tôi muốn chết, không có gan tự tử, thật vậy, nhưng nếu chết bất ngờ thì cũng đành cam, chẳng mảy may luyến tiếc.

Nước mát mẻ sẽ vỗ róc rách vào xác tôi? Sóng dữ dội sẽ quật mạnh vào xác tôi? Cá mập sẽ nuốt trọn thân hình bé nhỏ của tôi? Hàng chục, hàng trăm loài thủy tộc khác, nhỏ hơn cá mập sẽ rỉa rói từng lóng xương, từng mảnh da, sợi tóc? Sao cũng được, tôi chẳng cần chi, bởi tôi đâu còn biết đớn
đau gì nữa? Hồn tôi vượt lên, vượt lên cao, lơ lửng tận trời xanh tựa như những đám mây nõn nà trắng lốp trên trời mà tôi thấy trong những ngày mùa hạ? Tôi sẽ gặp mẹ tôi?

Vâng! Tôi sẽ xa lánh cái cõi trần đầy oan khổ, cõi trần mà các ông văn sĩ thường gọi là "biển khổ" mà trước nay tôi cứ không chịu nhận?

Rồi tôi lại tưởng tượng ra cảnh khác: xác tôi không bị cá rỉa, mà sình trương lên, tấp vào bờ, để cho người ta nhận ra tôi. Người ta sẽ báo tin cho cậu mợ, cả nhà sẽ nhốn nháo lên vì xót thương, sợ hãi và hối hận. Ồ! Không! Thốt nhiên tôi lại thấy nghẹn cứng ở cổ, xót xa thấm thía trong lòng: tôi biết rằng không một ai xót thương và hối hận sau cái chết của tôi đâu. Có chăng là sự sợ hãi, nhưng mà không, tôi cũng không "thèm" nghĩ đến chuyện báo thù. Tôi "mệt" quá rồi muốn được nghỉ ngơi hoàn toàn bên mẹ tôi thôi. Tôi ghét "mấy người" đó cho đến nỗi không bao giờ muốn nghe nhắc đến tên, muốn nhìn thấy mặt, muốn nghe lời họ nói, dù là một lời xin lỗi, một câu tử tế ôn tồn.

Với tâm trạng ấy, tôi lầm lũi ra ghe không thèm cả một lời chào ông bà chủ trọ. Ừ! Ông ấy hãy cứ cho là tôi mất dạy. Tôi cóc cần cải chính, tôi cóc cần lưu lại trong lòng bất cứ ai một chút cảm tình. Tôi sắp chết và muốn xóa sạch trong lòng mọi người tất cả những gì họ có về tôi: lòng thù ghét, sự thương hại, sư dửng dưng, ích kỷ. Ngay cả thầy giáo lớp ba của tôi, tôi cũng không muốn ông nhớ thương đến tôi làm chi nữa.

*

Trời đứng gió. Khoang thuyền hẹp, mui úp chụp xuống như một cái lồng bàn. Trên sàn thuyền cả chục người chen chúc nhau, tựa y như mấy con cá chen nhau trong cái hộp thiếc hình chữ nhật mà đôi khi tôi thấy cậu mợ mua ăn với bánh mì.

- Xích vô một chút cho thằng nhỏ nó nằm với, bà con!

Ông lái du tôi vào khoang thuyền và nói to lên như thế. Bà con càu nhàu không thành tiếng, song rồi họ cũng xích ra. Tôi nghe gan ruột cồn cào lên chực nôn, nên cái khoảng trống mà bà con nhường cho đâu chỉ bằng cỡ gang tay người lớn, song tôi không ngại chi, vội vàng nằm chuồi xuống nằm nghiêng
và cố giữ cho mình nằm yên không cựa quậy, nhúc nhích chi. Tôi hết sức thu mình cho nhỏ lại, im lặng để khỏi làm phiền, làm rộn bà con!

Ấy thế, nhưng mà bà con vẫn không vừa lòng, ba bốn tiếng "xùy" nổi lên rồi tôi nghe tiếng "hừ" và một giọng nói đầy phẫn nộ:

- Cha chả! "Nhà giàu" mà cũng chen xuống đây giành chỗ kẻ nghèo làm chi cà?

Tôi không dám mở mắt nhìn xem người thốt ra câu đó là ai. Một thứ mùi rất đặc biệt xông lên, ập vào hai lỗ mũi làm tôi càng khó chịu: tanh tưởi, hôi một thứ hôi rất đậm đặc của cá, dầu cá và dầu trét ghe trộn lẫn nhau; khê nồng, chua chua của mồ hôi người thấm sâu vào quần áo lâu ngày không giặt giũ; ngai ngái là mùi lưới cũ...

Ruột gan tôi bỗng chốc lại cuồn cuộn lên, tôi vội vàng lấy tay che miệng lần ra ngoài, thò đầu trên mặt nước nôn thốc, nôn tháo. Nôn xong lớp này, tôi dựa vào be thuyền nghỉ chưa bớt mệt đã lại phải nôn tiếp thêm lớp khác. Hết thức ăn, tôi nôn cả chất mật đắng mà vẫn chưa hết muốn nôn. Mồ hôi tuôn ra như tắm, tay chân tôi lạnh ngắt, bủn rủn cả người. Tôi bò vào khoang thuyền, nằm vật xuống, xong tôi thấy ngạt thở vì cái mùi hôi đậm đặc, tanh nồng đó. Ngay dưới lưng tôi, từng thớ gỗ ván sàn thuyền như cũng thấm sâu mùi đó, "ăn" sâu vào quần áo tôi... Tôi đành lồm cồm bò ra, nằm bừa ngay dưới những tay chèo, mệt lả...

Thuyền tách bến lướt nhẹ trên sông, trườn mình tới thoăn thoắt, êm êm làm tôi liên tưởng đến giọt nước lăn chuồi trên chiếc lá môn mà tôi thường trông thấy lúc ở nhà.

Một hơi gió thoảng qua làm tôi nghe khoe khỏe được một chút và tôi thiếp đi.

Rồi lại tỉnh. Cứ chập chờn như vậy mà mỗi bận mở mắt lại thấy mình bị nhồi lên nhồi xuống như viên bột, thấy bầu trời đen thẫm, đặc nghịt những vì sao lấp lánh, nháy nhó nhau một cách kênh kiệu chế giễu tôi.

Tôi không còn mê say ngắm như thói quen trước nay, không còn cho đó là một cảnh đẹp và kỳ diệu nữa.

Biển lặng. Tiếng rì rào từ ngoài khơi vọng lại nghe đầy đe dọa y như một kẻ hiểm ác đang vờ làm bộ hiền lành, nhưng nét mặt hắn không thể nào che giấu được.

Thỉnh thoảng mấy tay chèo vung vẩy làm nước biển bắn tung cả vào người tôi, vào miệng tôi mặn chát.

Tôi thấy đêm sao dài quá là dài. Tôi ngủ đến "no" đến "ứ". Trước nay đối với tôi đêm luôn luôn ngắn, đông cũng như hè, mùa nắng chẳng khác mùa mưa, không bao giờ tôi được ngủ cho đẫy giấc. Lúc nào tôi cũng cảm thấy như vừa mới chợp đi một lát đã bị lôi cổ dậy để hoặc xuống bếp, hoặc lên vườn nếu không là tưới cây, ra ruộng.

Nước va vào mạn thuyền nghe ranh rách thật êm tai. Những mái chèo đều đều khuấy nước, dây quai chèo bị vặn chặt kêu lên rít róng như một quỉ dữ nghiến răng, nghe lạnh cả người.

Trời vẫn đứng gió và không có sóng. Thuyền lướt êm như còn ở trên mặt sông theo nhịp chèo. Các cánh buồm đều cuộn tròn lại như những cuốn lụa mợ tôi thường mua của mấy người Cao Miên bán dạo.

Tôi hồi hộp nằm chờ sóng nhưng sóng không tới mà gió hiu hiu làm giấc ngủ lại phủ chụp lấy tôi.

Bỗng, tôi giật mình, mở choàng mắt vì có ai dẫm lên cánh tay tôi. Gớm! Tôi tưởng nếu tôi không tỉnh dậy và kêu lên kịp thì bàn chân to lớn kia sẽ làm gãy vụn cả xương cánh tay tôi.

Nghe tôi kêu lên oai oái, chủ nhân bàn chân kia sừng sộ:

- Bộ chỗ này là chỗ thằng dịch vật nằm ngủ hả? Nằm trong kia kìa, ôn con! Ta đạp dẹp ruột mày ra chớ la rống gì?

Tôi riu ríu bò dậy nhưng vẫn không chịu bò vô khoang thuyền.

Sóng cao dần, các mái chèo đều gác lên. Buồm hạ xuống. Ông lái ngồi sừng sững đằng lái, miệng ngậm điếu thuốc đang cháy dở, mỗi lần ông bập bập thành tiếng, điếu thuốc cháy đỏ rực soi rõ khuôn mặt sạm đen của ông ta làm tôi lại nghĩ rằng nắng với nước biển làm da ông mặn và khô quéo lại!

Sóng càng lúc càng cao và thuyền chao đảo nghiêng hẳn về một phía, bọt sóng tung ướt cả ông lái lẫn tôi. Tôi muốn kêu lên mà lưỡi ríu lại khi thấy mực nước cách be thuyền cỡ nửa gang tay người lớn.

- Mẽ! Kỳ này chở "khẳm" quá! Ham chi dữ!

Một anh bạn ghe lên tiếng, lập tức anh dẫm tay tôi gạt liền:

- Khẳm cái khỉ khô! Đi biển cả đời mà cũng còn ngu!

- Mắng ai ngu? Mậy?

Giọng ông lái cất lên, át cả tiếng hai người cãi nhau:

- Ganh! Ganh! Bay! 



Lập tức tiếng cãi nhau im bặt rồi trong chớp mắt tôi thấy một cây gỗ dài được bắc ngang thuyền, chìa ra mặt nước non nửa thước tây. Một trong hai người ấy nhảy lên ngồi chễm chệ trên đó, phía bên be thuyền nhô cao, chìa ra mặt nước y như con chim đậu trên một cành cây trụi lá! Tôi ngơ ngác một phút rồi chợt hiểu rằng họ ngồi như vậy cốt lấy thăng bằng.

Thuyền vẫn phăng phăng rẽ sóng, nhưng con sóng cao lù lù chồm tới, hung hăng như một con trâu điên, như nhấc bổng thuyền lên, rồi nhận chìm xuống dưới cái hang sâu hun hút, đen ngòm. Sự sợ hãi làm tôi đờ người, nhắm kín hai mắt lại, những tưởng phen này thì tận số... Nhưng rồi tôi mở mắt ra vẫn thấy thuyền chưa bị sóng nhận chìm. Kỳ một cái nữa là không ai có vẻ sợ hãi gì, họ hơi nghiêm trang một chút, vậy thôi. Ông lái thì kềm cứng tay lái trong cánh tay vạm vỡ của ông, vẫn một dáng điệu lầm lì, như thách đố những con sóng dữ. Tôi lờ mờ hiểu rằng
tính mạng tất cả mọi người đều giao ở tay ông. Ý nghĩ đó làm tôi thót cả ruột gan.

Điếu thuốc lá to cự đại nằm ngay ngắn giữa đôi môi ông, đỏ bừng lên từng hồi theo hơi rít vào của ông ta.

Tôi chóng mặt dữ tợn nhưng không mệt chút nào, có lẽ sự sợ hãi lấn át cái mệt đi chăng? Tôi không dám nằm mà cũng không nhắm mắt nữa. Ngộ thuyền nghiêng như lúc nãy, nó dám "trút" tôi xuống biển chứ đâu phải lơ mơ. Tôi ngồi yên, tay nắm cái cột chèo, thủ thế.

Lúc đó, thú thật là tôi quên hết, quên tuốt. Bị thôi học, bị hành hạ, đòn bọng, nhiếc mắng, chửi bới... Tôi chỉ còn mong sao cho chóng sáng, vì nghĩ rằng dù có bị rớt xuống biển mà giữa ban ngày cũng dễ được cứu thoát hơn. Không những thế, tôi tưởng mình có thể chịu tất cả hành hạ về tinh thần, thể chất, miễn là được SỐNG.

*

- Dậy đi! Dậy! Tới rồi, công tử!

Nghe tiếng kêu, tôi bàng hoàng dụi mắt ngồi lên. Mặt trời từ dưới nước cũng trườn lên được một nửa, có nhiều tia sáng bao quanh trông tựa cái quạt khổng lồ màu đỏ đang xòe ra vậy.

Cây đòn ganh biến mất, trong khoang trống vắng, mọi người lên bộ từ bao giờ.

Tôi thoáng nghĩ: chắc mình nằm mê? Chợt, ông lái cười hề hề, hỏi:

- Hồi khuya mày sợ không, con?

Câu hỏi đó làm tôi biết ngay rằng không phải tôi mơ, mọi chuyện đều là sự thật! Hú vía! Tôi cũng cười lỏn lẻn:

- Dạ, sợ chớ! Ghê quá đi.

Tôi khát khô khốc cả cổ, bèn lại gần vại nước, vơ cái gáo dừa khoắng vào trong, khoắng tận đáy, vậy mà vẫn chưa thấy đụng tới nước. Ông lái lại cười:

- Hết nước rồi, con ơi! Thôi rán về nhà uống, nghe con!

Tôi buồn rầu, lặng lẽ buông gáo đứng lên không cả chào ông và nói cảm ơn, (tôi biết rằng chị Mai "gởi" tôi đi không, chứ không tốn xu nào hết). Bước ra thanh gỗ dài bắc từ be thuyền thẳng lên bờ, thanh gỗ oằn xuống cong vòng dưới mỗi bước chân, làm tôi lại một phen kinh hoảng.

Được đặt chân lên đất liền, đáng lẽ tôi mừng lắm, song chẳng hiểu tại sao tôi lại dửng dưng, không mảy may vui thích.

Tôi nhìn quanh rồi cúi đầu rảo bước. Đầu óc trống rỗng, thân thể mệt nhoài, tâm trí hoang mang, tôi cứ bước tràn không cần suy nghĩ...

Đi một lát tôi mới hoàn toàn tỉnh táo, nhìn quang cảnh xung quanh, thấy lạ quá, tôi đâm lo. "Coi chừng lạc" có một tiếng nói mơ hồ vọng đến tai tôi làm tôi gờn gợn sợ, lại dừng chân nhìn quanh lần nữa. Chẳng một bóng người quen. Cho đến chòm cây, bụi cỏ, con đường, nhà cửa... tất cả đều có một vẻ lạ lùng bí mật.

Tôi còn đang ngơ ngác thì từ xa một cô gái thoăn thoắt đi lại phía tôi, vai vác cái rựa và miệng thì nhai trầu chanh chách, chanh chách không ngừng. Môi chị ấy đỏ quạch lên, trông chị ấy nhai, tôi phát thèm và cơn đói như ngủ quên vùng chồm dậy, cắn xé trong bụng tôi. Tôi vội ru ngủ nó lại bằng ý nghĩ này:

- Ối! Ngon lành gì thứ đó, đừng thèm!

Và tôi hỏi chị ấy con đường về nhà cậu. Tôi đoán rằng nhà cậu tôi giàu có lớn, chắc ai cũng biết. Quả vậy, nghe tôi hỏi chị ấy vui vẻ:

- Nhà ông C. đâu ngả này? Em đi lộn rồi đó. Trở lại phía kia, cứ đi thẳng một mạch chừng nào cho tới động cát, qua khỏi động cát, tới cái xóm nhà rồi em cứ việc đi thẳng óng tới...

- Dạ đi thẳng hoài?

- Ờ! Cứ đi thẳng cho khỏi xóm một đỗi thì tới cái điếm canh. Nhớ không?

- Dạ em nhớ rồi.

- Nhớ cho kỹ, tới điếm canh thì quẹo qua tay trái, đi một đỗi nữa là tới nhà trường...

- Cảm ơn chị, (tôi reo lên) từ trường về nhà thì em biết rồi, khỏi chỉ.

- Ờ, vậy thì tốt. Thôi, đi lẹ lên chớ không, nắng lên mệt lắm.

Chị quày quả đi liền.

Ước gì mình có một người chị như chị ấy? Tôi mơ màng nhìn theo dấu chân chị in trên cát, nghĩ.

Theo hướng chị ấy chỉ, tôi cứ đi thẳng, thẳng óng. Đi hoài...

Thỉnh thoảng ngang mấy ngôi nhà lá dọc đường, tôi thấy vài đứa trẻ bụng to kềnh, tay chân khẳng khiu, đứng trố mắt nhìn tôi một cách tò mò. Vài người đàn bà ngồi trên bậc thềm xõa tóc, bắt chí cho nhau, hoặc cho mấy đứa con gái bằng cỡ tôi. Tụi nó đứa nào tóc cũng khô rốc, hoe đỏ y như râu ngô dưới nắng, dơ dáy không kém mấy đứa trước sân. Tụi nó áo quần coi lại còn tệ hơn tôi, đứa thì mặc quần đùi bạc phếch của cha kéo lên tận ngực, kiêm luôn áo, đứa thì mặc áo cánh của mẹ dài chấm gối, thế luôn quần.

Nhưng mà nhìn chúng, tôi biết rằng chúng sung sướng hơn tôi, vì những người đàn bà nhìn chúng bằng cái nhìn rất là âu yếm làm tôi thở dài, vừa ước ao vừa ganh tị. Tôi chợt nhớ lời phê phán của cậu tôi mỗi khi ông nhìn thấy cảnh ấy:


- Dân An Nam dơ dáy! Hèn chi Tây người ta khinh cũng phải!

Và lời mỉa mai của mợ tôi:

- Đẻ! Đẻ như heo mà không biết nuôi, biết dạy.

Ban đầu thoạt nghe, tôi cũng nghĩ theo cậu mợ tôi, cho là Tây người ta chê phải lắm. Bây giờ không thế. Tôi chống đối lại, dĩ nhiên chống đối thầm thôi! Giá nói được, tôi nói thế này với cậu:

- Còn cậu, cậu là dân gì đó mà chê dân An Nam, cậu dân Tây chắc?

Và với mợ:

- Còn mợ, nuôi dạy tử tế gì đâu mà chê người ta?

Nhưng tôi không bao giờ dám nói câu trên với cậu, còn với mợ thì tôi biết rằng mình nói sai: mợ đâu có coi tôi là con, đâu sinh đẻ tôi mà nuôi dạy tử tế như con mợ?

 Vài con chó gầy guộc bày những bộ lông xơ xác thấy tôi liền chồm tới, hực hực lên vài tiếng rồi lại nằm xuống như không đủ sức làm dữ hơn. Chúng làm tôi nhớ đàn chó nhà cậu tôi, con nào cũng to lớn, lông dày kịt, láng mướt như có bôi dầu, lúc nào cũng sẵn sàng lao vào người lạ nhất là khi thấy người lạ đó rách rưới nghèo nàn. "Chó cũng biết khinh người". "Chó nhà giàu có khác" nhiều người nói vậy. Thoạt nghe tôi giận lắm, dần dần thì tôi thấy họ nói đúng, hết bất bình.

Chỉ khổ thân tôi: không phải là con nhà giàu để mà được hưởng sự sung sướng, lại còn bị xung quanh nhìn bằng con mắt đầy ác cảm. Lại cũng không được làm con nhà nghèo, con hạng đẻ như heo để cam chịu thiếu thốn về vật chất mà được bù đắp về sự thương yêu.

Tại làm sao tôi lại chịu nhiều thiệt thòi như vậy? Sao tôi khổ vậy? Tôi thua cả Nghi Xuân, Tấn Lực trong vở tuồng Phạm Công, Cúc Hoa: tụi nó còn được mẹ hiện hồn về vuốt ve, bắt chí cho. Chớ tôi chưa thấy một lần nào mẹ hiện về an ủi vỗ về!

Mãi nghĩ lan man tôi đã ra khỏi xóm nghèo kia và tiến lại gần động cát. Cát trắng xóa, mịn màng, mênh mang, thẳng tắp.

Nắng cao dần, mồ hôi bò xuống cổ, xuống lưng, xuống áo. Tôi bắt đầu thấm mệt, mỏi chân. Dần dần mỗi bước chân tôi y như bị cát lún xuống và kéo lại một chút. Không một bóng cây. Động cát trước mặt cao lên, che khuất tầm mắt tôi, vài bụi cỏ lơ thơ, héo quắt dưới ánh mặt trời miền biển.

Cát nhấp nhô từng lượn như lượn sóng, như sắp hàng đuổi theo nhau nhưng không bao giờ bắt kịp nhau, luôn luôn cách nhau một khoảng giữa đều tăm tắp. Cát sáng trưng, lấp lánh trong nắng chói lòa.

Càng thấy mỏi tôi càng phải nhanh chân hơn, cát nóng bỏng y như vừa trút ra khỏi nồi rang. Cát càng phút càng nóng dữ dội, mặt trời càng chói chang hơn. Bóng tôi gần đứng thẳng theo người tôi, tôi muốn nằm lăn xuống đó, nghỉ một lát cho đỡ mệt, mà không dám. Chân tôi chai dày thế kia còn không chịu nổi làm sao tôi dám nằm xuống kia, chứ?

Tôi thất thểu bước, vừa bước không ngừng vừa hối hận: tại sao ban sáng đi ngang xóm nghèo lại không tạt vào xin nước uống? Mấy con chó gầy trụi lông, ốm đói với đàn trẻ thiếu áo thiếu quần và cả những người đàn bà xõa tóc nữa, chắc họ đều rộng lượng, không chỉ tiếc gáo nước lã đâu. Vả lại, họ có gì để mà nghi ngờ, mà sợ mất? Chống cửa lên, gió lọt vào cửa trước chạy thẳng thông thống ra cửa sau.

Cổ, môi, mắt tôi đều ráo hoảnh. Cơn đói bây giờ chồm lên lần nữa, mãnh liệt hơn ban nãy và tôi không biết làm gì để ru ngủ nó như lúc gặp chị nhai trầu.

Mặc kệ đói, khát, mỏi, mệt, tôi cứ bước tràn. Con bóng dưới chân ngã nhoài ra phía sau, ruột gan cồn cào lên dữ dội.

Trước mặt tôi thấp thoáng những ngọn cau cao lêu đêu, thẳng tắp. Thôn xóm kia rồi. Như được tiếp sức tôi lại cắm cúi bước mau. Bây giờ tôi thấy yên lòng lắm, chân chậm lại, tôi đi dưới vòm cây xanh, hơi nóng trong áo quần tôi bốc ra hâm hấp. Không biết còn gần hay xa mới đến trường? Gió lao xao chạm vào lá cây trên đầu tôi, ánh sáng được lọc qua màn lá cây trở thành dịu lại, làm tôi khoan khoái. Thôn xóm nơi này có vẻ sung túc, tươi mát hơn xóm nghèo ban sáng. Trong lúc tôi còn đang so sánh thì bỗng từ xa vang lại một loạt trống trường.

Tôi mừng cuống, chạy bay về hướng đó như muốn đuổi theo nó vậy. Tôi quên cả mệt, chạy mỏi, lại đi, đi thấy lâu quá, lại chạy.

Thế mà hồi trống vô lớp vang dội lại tai lần nữa, tôi vẫn chưa ra khỏi xóm. Tuy nhiên tôi quyết định chừng nào thấy trường rồi mới dừng lại nghỉ chân.

______________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG IV

Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014

CHƯƠNG II_MÁU ĐÀO NƯỚC LÃ


II


Bỡ ngỡ buổi đầu qua đi, tôi vừa mới quen thầy, mến bạn thì hung tin đến. Tôi còn nhớ rõ: hôm đó nhằm ngày thứ năm, tôi nghỉ học. Trên cành cây trước sân nhà trọ chim ríu rít hót vang, tiếng dế gáy ròn rã trong lùm cỏ, tôi tha thẩn dõi mắt theo một cánh bướm vàng có mấy chấm đen xinh đẹp, liên tưởng đến bài quốc văn lúc còn ở trường làng mà tôi thuộc nằm lòng: "Một con bướm kia cánh vàng rực rỡ, lại có những đốm đen, đốm đỏ...".

Và tôi thấy lòng rạt rào thương con bướm vô tội đó, không, tôi không bắt bướm đâu! Để nó bay trông đẹp mắt nhường nào! Ai bắt mình mà mình bắt nó?

Thỉnh thoảng, tôi nghếch mắt nhìn trời, trời cao vút và xanh ngăn ngắt, từng đám mây nõn bồng bềnh trôi nhè nhẹ thay hình đổi dạng một cách lẹ làng quá đỗi: mới trông như một kỵ sĩ cúi rạp trên mình ngựa, thoáng cái đã thành con trâu trắng một sừng, vừa nhìn giống một bà tiên xiêm y lả lướt, nháy con mắt đã biến ra lão già chống gậy! Tôi thích thú theo dõi những hình ảnh đó, lòng nhẹ lâng lâng...

Một cơn gió hây hây thổi đến và tôi chợt có ý nghĩ rất văn hoa: hạnh phúc cùng đến với tôi trong cơn gió sớm kia! Vâng, lần thứ nhất trong cuộc đời côi cút khổ sở của tôi, tôi dám táo gan: không chỉ nghĩ đến mà còn nghĩ rằng mình đang nắm được hạnh phúc trong tay! Tôi bật cười cho là ông văn sĩ nào đó nói: "Hạnh phúc có cánh và cánh hạnh phúc mong manh như cánh bướm" là ông ta nói láo, là phịa, là sai.

Lan man, tôi lại nghĩ đến sự kỳ diệu của cái buộc mà tôi đang hưởng, nó đã thay đổi cuộc đời khốn khổ, cực nhọc của tôi, nó đã kéo tôi trở lại học đường, nó đã giúp tôi, nhiều quá là nhiều... Tôi nên cảm ơn nó hay cảm ơn nhà nước? Hay là cảm ơn thầy giáo lớp ba của tôi đây? Không

tôi tự trả lời Nhà nước nào biết đến tôi? Cái buộc đâu có chân mà tìm đến tôi? Đó là công khó của thầy tôi chớ!

Bỗng nhiên tôi thấy rằng tôi do dự vì mắc cỡ trong mấy tháng nay, không chịu viết thư về thăm thầy là một sự vô ơn, một sự bội bạc đáng ăn hai chục roi song cho tóe máu ra mới phải!

Lập tức, tôi bỏ mặc trời trong, gió mát, cảnh đẹp mà quay vào nhà lục bút giấy viết thư cho thầy. Chuyện gì mà mắc cỡ? Biết chừng đâu thầy tôi sẽ không mang thư tôi ra đọc to lên cho bọn học trò nghe mà phục đứa trẻ có chí, đứa học trò đáng yêu của thầy tôi? Chẳng gì, tôi cũng lớn rồi mà. Tôi nắn nót:

"Jeudi, le 23, octobre, 1936

Thưa thầy,

Con là Sinh, con xin viết thư này thăm thầy được mạnh khỏe và xin cảm ơn thầy, nhờ thầy con mới được đi học như vầy. Mà con không chịu viết thư thăm thầy liền, xin thầy vui lòng tha lỗi.

Thưa thầy, về sự học hành của con thì cũng thường, bị vì ở trong này học trò giỏi quá con theo chưa kịp, và con làm luận còn dở lắm. Nhưng mà, xin thầy yên tâm, con xin hứa sẽ cố sức học theo lời thầy dặn dò con.

Thưa thầy, vắn tắt mấy hàng con kính thăm thầy, đến đây con xin dừng bút".


Tôi cẩn thận ký tên ở ngoài bìa cuốn vở cũ nhiều lần, sau đó mới ký tên vào bức thư sắp gửi. Đọc lại, tôi lấy làm vừa lòng lắm tuy thư có hơi ngắn, nhưng tôi còn biết nói gì cho nó dài ra? Ít nhất tôi cũng tự hào là tôi không tệ lắm, vì tôi biết dùng hai chữ "dừng bút" một cách chính đáng, thích hợp. Gớm! Hai chữ mới hay ho làm sao, tôi vớ được ở đâu đó đã lâu mà chưa hề dùng đến vì không có dịp. Tôi còn đang băn khoăn về hai chữ nay thơ hay nên viết nay kính thơ thì nghe có tiếng kêu ngoài ngõ:

- Có dây thép đây! Ra lãnh!

Tôi vội vàng buông bút, chạy ra. Một ông già cau có trông phát ghét, mang cặp kính trắng, gọng đen sì, (bẩn nên đen chứ không phải tự nó đen, tôi cam đoan như vậy) đang chăm chú kiểm điểm một tập giấy màu xanh nhạt trên tay ông, tờ nào cũng được xếp gọn bằng hai cái bao diêm. Chợt ông ngẩng phắt lên, hỏi với giọng hách dịch:

- Có tên Dõ-dăn-Diên ở nhà không?

Võ-văn-Viên! Cái tên bị đọc trại nghe thật buồn cười mà bộ mặt ông ta càng có vẻ ngộ nghĩnh hơn, nhất là khi ông ta ngẩng lên, đôi mắt ông ta như lồi thêm ra, ông ta nhìn tôi lom lom bằng hai con mắt đó   kính bị trễ xuống tận sống mũi làm tôi nghĩ ngay đến một đôi mắt ếch! Nhận xét đó làm tôi phì cười, quên cả trả lời. Vẫn bằng giọng đã đớt và hách dịch vừa rồi, ông ta tiếp:

- Hả? Võ-dăn-Diên ở nhà không? Bộ câm xao? Ta hỏi mà chơ mắt ếch da đó?

A! Đồ vô học! Tôi mắng thầm ông ta trong bụng, không thấy nể nang ông ta một chút nào nữa, dù ông ta có mang kính trắng và nhà trường dạy tôi phải lễ phép với người tuổi tác. Tôi buông xõng:

- Có! Ông chủ ở trong nhà. Ông hỏi chi?

- Biểu ổng da nhận dây thép.

- Dây thép? Đâu?

- Đi! Mày con nít biết gì mà hỏi? Phải ký tên mới nhận được chớ. Phải kêu chủ mầy. Nói có dây thép, gấp.

- Mà dây thép đâu?

Tôi rắn mắt hỏi lại vì tò mò muốn thấy cái dây thép ra sao, đến nỗi quên để ý rằng ông ta cả gan liệt tôi vào hạng tôi tớ ông Viên.

- Đây!

Ông già mang kính trắng vừa nói vừa chìa ra cho tôi thấy một trong những cái giấy xanh xếp nhỏ trong tay ông. Kỳ quái chưa? Chẳng thấy dây nhợ gì mà nói là dây thép. Tôi vừa quay lưng vô nhà vừa nghĩ thầm.

Ông chủ trọ có vẻ ngạc nhiên khi nghe tôi nói có dây thép, song không phải thứ ngạc nhiên như của tôi, ông lầm bầm:

- Của ai vậy kìa? Lạ chưa... lạ chưa...

Ông đứng lên, lê đôi guốc mòn vẹt gót nghe sền sệt trên nền nhà, ra cửa. Trong lúc ông chủ nhà lúi húi ký tên, tôi liếc trộm ông già kia một cái và chợt nhớ mấy lời: "phải kêu ông chủ mày" tôi giận sôi lên. Tôi muốn nói cho ông biết rằng tôi không phải hạng đứa ở, tôi là học trò ở trọ, nhưng đã quá muộn vì ông ta đã phóc lên xe đạp ngay sau đó.

Thình lình, ông chủ trọ quay lại, gọi giật tôi mà nói:


- Sinh! Cậu mày đau nặng biểu mày về.


Tin đó làm tôi đứng chết sững một giây như chôn chân bên vệ cửa, tôi tưởng mình vừa nghe một tiếng sấm lớn, nổ dữ dội giữa trưa hè! Biểu mày về?! Chắc là tôi phải bỏ học mất thôi! Trời ơi! Sao cậu tôi đau yếu làm chi vậy? Mà cho dù ông có đau yếu thì can hệ gì đến tôi đâu? Tôi ở học hay về thì ảnh hưởng gì đến bịnh tình của cậu tôi? Thiếu gì người ở nhà săn sóc ông kia chớ? Tôi, đứa cháu mới hơn mười tuổi, đứa cháu không hề được thương xót lúc ở nhà, không có lý nào ông nhớ muốn tôi về thăm đâu, tôi biết.

Từ khi lên tỉnh đến nay, tôi nhờ có buộc không tốn kém của cậu mợ đồng nào, sao còn nỡ tìm cớ bắt tôi về? Nhưng rồi tôi cãi lại với tôi: biết chừng đâu… Ờ! Biết chừng đâu trong lúc đau ốm, nằm một mình cậu tôi suy nghĩ nhớ lại những hành động đã đối xử với tôi, ông hối hận? Ông kêu tôi về tỏ lòng hối hận ra đặng rủi có chết ông sẽ được yên tâm nhắm mắt. Hoặc là ông không có hối hận chi cả, nhưng biết mình khó qua khỏi ông sợ xuống "suối vàng" ông ngoại và mẹ tôi rầy rà, giận dỗi nên ông cần gặp gấp tôi, hầu có thể có cớ mà chống chế rằng đã gặp mặt tôi thăm, trước khi về dưới?

Và tôi còn đoán già thêm rằng : nhất định tôi phải ở nhà cho đến khi chôn cất cậu tôi xong xuôi mới vô học lại được. Chắc chắn khi theo sau linh cữu cậu tôi, tôi sẽ khóc mùi y như các con của cậu, làm cho mọi người đều tưởng tôi nhớ tiếc ông. Đâu phải? Chính là tôi khóc cha mẹ tôi đó chớ, nhưng mặc kệ, ai nghĩ sao tùy họ, tôi không cần cải chính. Ai cấm tôi tưởng tượng rằng cha tôi nằm trong cái áo quan chật hẹp kia? Tôi khóc vì người sắp bị vùi sâu vào lòng đất lạnh, tối bưng như mẹ tôi ngày trước? Tôi sẽ tha hồ khóc bằng thích, chẳng cần lén lút, không sợ khinh chê, mai mỉa. Chao ôi! Lại được khóc hả hê chứ không phải khóc lặng lẽ, thầm lén như lâu nay chắc là sung sướng, dễ chịu biết chừng nào!

Dự đoán như vậy đáng lẽ tôi thấy thích thú vui vẻ mới phải, song tôi cứ bị ám ảnh về nỗi lo ngại sắp phải thôi học... Nghĩ đến đó, tôi bỗng lạnh toát cả người. Sự sợ hãi như chồm lên, phủ chụp lấy tôi, như bóng tối sắp vây quanh tôi… Bất giác, tôi ngẩng lên nhìn ông chủ trọ và đột nhiên tôi thấy giận và ghét ông ta hết sức. Làm sao ông ta có thể dửng dưng trước một cái tin ghê gớm cho tôi như thế chớ? Ông này chắc ác chẳng thua chi cậu tôi. Uổng cái là ông không có đứa cháu nào như tôi cả. "Giá ông ta có một đứa cháu?" Tôi ao ước thầm một cách nồng nhiệt, chắc chắn đứa trẻ đó và tôi sẽ thông cảm nỗi lòng nhau, sẽ an ủi nhau cố nhẫn nhục cho đến ngày nào hết chịu nổi nữa. Lúc bấy giờ hai đứa tôi sẽ rủ nhau trốn đi, đi đâu cũng được, không cần tính toán chi, đến lúc đó sẽ hay... chúng tôi sẽ dựa vào nhau, lây lất nơi gầm cầu, xó chợ, bữa đói, bữa no. Song không cần, miễn được tự do, không ai xử ác là đủ vui rồi. Cùng quá, chúng tôi sẽ tự tử chết, có thư để lại hẳn hoi, để họ (mấy ông cậu) bị dày vò suốt đời vì hối hận, râu tóc ông nào cũng rụng sạch cho xem! Đáng đời các ông, chẳng ai thương xót.

Á! Tại sao ông chủ trọ lại không có đứa cháu mồ côi? Nhất định tin này sẽ làm nó xúc động chớ không lạnh lùng như ông ta. Hừ! Giá ông ta nói mấy tiếng "cậu mày đau nặng biểu mày về" bằng một giọng ái ngại và nhìn tôi với đôi mắt xót thương thì có lẽ tôi không cầm giữ được, đã sà vào lòng ông, oà lên khóc... Và chắc ông sẽ vuốt tóc tôi, ngọt ngào an ủi, dỗ dành...

Thốt nhiên, tôi nổi xung muốn hét to lên tự mắng mình: "Để làm chi vậy? Ta cóc cần ai thương hại" rồi tôi muốn đập phá một cái gì, hoặc la to một tiếng, nhiều tiếng cho hả giận và quên được điều lo sợ. Song tôi đâu có cái gì để mà đập phá? Cũng chẳng dám la to. Cơ thể tôi như bị kéo dài, bị căng thẳng ra, rồi bất thình lình buông chùng lại làm tôi mệt mỏi, rã rời...

Bấy giờ, tôi biết tôi đã giả dối khi nghĩ rằng: tôi cóc cần ai thương hại... Sự thực tôi đã lớn lao gì cho cam, sao tôi cứ làm bộ anh hùng, can đảm? Đành rằng ông ta có tử tế đi nữa cũng chẳng giúp được gì cho tôi, nhưng tôi biết rằng những lời nói ngọt ngào, cử chỉ ưu ái sẽ giúp tôi đủ sức để mà chịu đựng, chịu đựng như trước nay từng chịu đựng ...

*

Suốt ngày hôm đó tôi ngơ ngẩn, buồn rầu nhai cơm nghe nhạt nhẽo chẳng ngon lành chi hết. Bà chủ trọ đâm để ý, bà nói với tôi:

- Sinh! Sao mày không ăn muối đậu đi? Mấy hôm tao thấy mày thèm lắm mà?

Tôi cúi gầm mặt, nước mắt mọng lên mi chỉ chực ứa ra nhưng cố nén, không cho nó chảy.

- Cậu nó bịnh nặng, biểu nó về đó.

Vẫn bằng giọng thản nhiên, lạnh ngắt, ông chủ nhà trọ báo tin cho vợ. Cổ tôi nghẹn cứng, cố sức vẫn không nuốt trôi được búng cơm, vậy mà tôi nghiến răng, tự nhủ: "Đừng! Đừng khóc trước mặt hạng người như vậy, uổng nước mắt đi!". Rồi, với tất cả cố gắng phi thường, lần này tôi nuốt ực búng cơm nhuyễn nhừ trong miệng mà có cảm tưởng rằng cùng một lúc, tôi nuốt luôn cả những dòng nước mắt kia, đoạn tôi buông đũa đứng lên.

*

Đêm đến, tôi đi ngủ sớm, nói là ngủ song kỳ thật tôi nằm thao thức mãi không sao chợp mắt được. Bỗng nghe tiếng gõ cửa, thường thì tôi nhanh nhẹn lắm, nhưng lúc bấy giờ tôi chẳng buồn cất nhắc tay chân, mặc trong nhà ra mở cửa, vẫn nằm yên, không nhúc nhích.

Khách chính là chị Mai, con gái thứ hai của cậu tôi chị ấy ít ác hơn hết trong nhà.

Trông mặt chị buồn rầu, đăm chiêu làm tôi chợt hối hận vì trọn ngày tôi chẳng hề có một phút nào lo nghĩ đến bịnh tình của cậu tôi mà chỉ nơm nớp sợ bị bắt về thôi.

- Sinh! (chị hỏi ngay khi tôi chưa kịp chào chị) Mày xin nghỉ học chưa?

- Dạ thưa chị, em chưa...

- Chưa? Sao lạ vậy? Dây thép chưa tới hả?

- Dạ rồi.

Tôi trả lời và nuốt ực nước bọt một cái, thầm mong có một phép mầu nào đó xui khiến cho ở nhà đổi ý và chị sẽ bảo tôi rằng: "Thôi, đừng xin nghỉ làm chi".

Song chị Mai cau mặt lại, nhìn tôi một cách khó chịu làm tôi biết ngay là tôi ao ước hão. Chị hỏi:

- Rồi? Rồi sao không xin phép nghỉ? Còn đợi gì nữa? Coi bộ mày không muốn về nhà phải không? (giọng chị chì chiết) Đồ bạc bẽo, đồ phản phúc! Đồ...

Tôi đổ quạu, cãi lại:

- Bữa nay thứ năm, nghỉ học, dây thép mới tới hồi sáng này, để mai đã chớ, chưa gì chị đã mắng em...

Không hiểu sao tôi lại lưu loát, rành rọt như vậy. Trước nay tôi vốn ít lời. Chị Mai coi bộ phật ý lắm, chị gắt lên:

- Chà! Bây giờ mày giỏi há? Trả lời đôm đốp. Ai cho phép mày táp ngược, táp xuôi lại tao như vậy? Tưởng bảnh lắm rồi phải không? Mày không cần ai hết phải không? Ỷ có buộc rồi phải không?

- Dạ, em đâu dám... để mai em lên xin thầy...

Tôi thấy hối vì mình quá lời, vội vàng nhỏ nhẹ để chị nguôi đi, song chị sừng sộ thêm lên:

- Hừ, không có ỷ, không có ỷ mà nói xấm xẳng như xát muối vào mặt người ta. Tao biết mà! Đồ quân phản! Đồ ong tay áo! (như nói một mình) Bà già nói vậy mà biết chừng đúng, ngữ này rồi đủ lông đủ cánh là...

Tôi ù tai vì nghe những lời nhiếc mắng riết róng của chị Mai, tủi thân quá, nức lên khóc. Chị nghiến răng, lại gần tôi, gằn giọng:

- Ai làm gì mày mà khóc? Nước mắt đâu sẵn như nước đái vậy? Hả? Tới nhà người ta, nửa đêm, nửa hôm, mà làm rầy như vậy hả?

Đã lâu lắm, tôi thoát bị dằn vặt bằng những lời cay nghiệt, bằng cách bị ví nước mắt mình với nước đái, một cách ví rất là tàn ác, xúc phạm tới cái gì cao quí, thiêng liêng tôi nghĩ thế tôi hầu như nguôi đi. Đêm nay, những lời chị Mai làm tôi có cảm tưởng như sống lại những ngày cũ, những dằn vặt cũ, đòn bọng cũ... những lời lẽ y như mũi dao nhọn chọc sâu vào vết thương chưa hàn kín miệng làm máu lại tóe ra; tôi đau thấm thía, đau tê dại, đau lặng người đi!

- Không cần mai này xin phép xin tắc gì hết, mau sửa soạn đồ đạc đi. Tao lôi đầu mày về rồi mày biết...

Giọng chị lại cất lên, lần này đầy đe dọa và sau đó, chị bỏ mặc tôi ti tỉ khóc, vào nhà trong trò chuyện với ông bà nhà chủ trọ, vui vẻ như thường.

*

Tuy chị nói không cần xin phép, sáng hôm sau chị lại bảo tôi:

- Đi với tao, tao xin phép thầy cho.

Tôi "dạ" một tiếng nhỏ, lo rửa mặt, thay quần áo, rồi đi với chị.

Lầm lũi theo sau lưng chị Mai, tôi chẳng khác chi tên tù nhân có người lính đi kèm trên đường áp giải.

Vậy mà đất trời vẫn vô tình trước sự khổ sở của tôi. Chẳng thần tiên nào thương xót hiện ra giúp đỡ. Mà quang cảnh cũng chẳng buồn theo tôi hay xấu bớt đi chút nào. Rõ là mấy ông văn sĩ nói khoác khi họ viết: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!".

Trên cành phượng, những con ve cuối cùng vẫn so giọng hợp ca inh ỏi. Không một bóng mây, nền trời xanh ngắt. Gió từ sông quạt phe phẩy lên người tôi, dưới bến tiếng cười nói lao xao, ròn rã. Mặt sông không gợn một chút sóng, những mái chèo nhịp nhàng vờn nước nghe rong róc, rong róc... Những chiếc xe kéo chạy ngược chiều chúng tôi, kêu lên "ếp ê, ếp ê", và những tiếng chuông xe đạp lanh canh. Từ đằng xa, một chiếc xe ô tô vút tới cuốn theo những bánh xe hàng loạt bụi mù và mùi xăng nồng nồng. Đó là thứ mùi mà tôi và lũ bạn bé bỏng của tôi ưa thích, tranh nhau hít lấy, hít để mỗi lần bắt gặp ô tô chạy ngang trên đường đi học.

Tất cả, tất cả tạo nên một quang cảnh và âm điệu quen thuộc, ấm áp, thân mật... thế mà tôi sắp lìa nơi này đấy!

Ngôi trường đã hiện ra phía trước, tôi như bị một sức mạnh nào trì níu đôi chân. Mái ngói đỏ, hàng phượng xanh, những cây me đã bắt đầu rụng lá những chiếc lá nhỏ li ti như những chấm hoa giấy màu vàng đan dày trên mặt đường trải nhựa bày từng chùm trái cong y như những chiếc liềm hái ngày mùa.

Trên thảm cỏ óng mượt của một công viên gần trường, nổi bật mươi chiếc hoa sứ trắng vừa rụng xuống.

Đầu óc tôi hoang mang, lộn xộn, quay cuồng...

Tiếng thước kẻ thầy tôi đập canh cách lên bàn giấy, viên phấn trắng trong tay thầy lướt đều, nhanh lên bảng đen, lúc chấm câu, đánh dấu thì lại nghe phát ra tiếng kíu kít giòn và ngắn thật là ngộ nghĩnh.

Một tiếng chim vụt cất lên lanh lảnh trên cành cây ngoài cửa sổ, một chú ong vò vẽ từ đâu lạc vào lớp học, kêu lên vo vo vo... Sự huyên náo khi thầy vừa buớc ra khỏi cửa lớp. Và cái cảnh im phăng phắc cho đến một cơn gió tạt ngang y như bàn tay vô hình táy máy lật những trang sổ điểm trên bàn thầy kêu lách xách, lách xách trong khi chúng tôi đang chăm chú làm bài hay khi thầy đang cáu giận...

Rồi, tiếng trống! Ôi! Tiếng trống mới lạ lùng kỳ diệu làm sao! Mỗi lần nó vang lên là tim tôi thình thịch đập theo; tiếng trống ra chơi sao mà hòa hưỡn ung dung làm mình phơi phới trong lòng. Còn tiếng trống đánh vào những buổi sáng thì gấp gáp, vội vàng, hối hả, nhất là những lần tôi đi học trễ thì càng thêm đe dọa, tưởng như cắm cổ chạy cũng không đuổi theo kịp nó. Tiếng trống đầy hứa hẹn mà lại nghiêm trang... Tôi như mê đi: những âm thanh, hình ảnh đó lần lượt, lần lượt vây quanh, gợi lại, nhắc nhở làm tôi càng thêm đau xót.

- Mau lên, Sinh! Mau lên coi! Làm gì mà rờ rờ như đàn bà gần ngày vậy?

Tôi choàng tỉnh vì giọng nói gióng giả của chị Mai. Cùng một lúc tôi thấy mình rất ngu nên mới thương chị lúc vừa gặp mặt đêm rồi, và tôi càng tức tối hơn khi nhìn nét mặt cau có của chị. Vụt cái, tôi nhớ tại trận đòn năm ngoái.

Một điều lạ kỳ là tôi hầu như chai lì vì đòn bọng, gần như rất ít biết đau khi bị đánh, song luôn luôn tôi đau tê, đau dại vì những lời tàn ác kèm theo ngọn roi. Những lời đó lúc nào cũng đủ sức làm tôi đau lặng người đi, dù rằng những lời đó bay mất không dấu vết, còn những lằn roi thì in đậm, hằn sâu trên da thịt!...

Tôi thề rằng thời kỳ đó tôi chưa hề nhận một trận đòn nào nhẹ như trận ấy, ít như trận ấy, mà lại có sức đau dai dẳng thấm thía như trận ấy.

Hôm đó cậu tôi đi chơi vắng. Mợ thì đang xếp vàng hương vào quả để lên lễ chùa. Mấy anh chị nhảy dây, đá bóng hay đi chơi đâu ngoài xóm hết, nhà vắng hoe.

Ngồi bên gốc cây khế, cạnh giếng nước, chị Mai đang gội đầu. Tôi đứng đó, có phận sự dội nước cho chị ấy.

Công việc này đối với tôi quả nhẹ nhàng và thú vị. Tóc chị Mai trông khô, xốp là thế mà khi tôi dội lên một gáo nước bồ kết nóng là nó rạp xuống, mịn óng, sủi bọt lên... Chị Mai dùng cả hai tay cào xát mạnh vào da đầu, mười đầu ngón tay của chị tung tăng chạy tới, vờn lui y như những cái que, cái càng chở hai con cua đùa chạy, đuổi nhau trên ghềnh đá!

Tóc chị thoáng cái lại rối tung lên, khô xốp. Ấy thế rồi, tôi lại múc, dội, múc, dội... Mùi lá dứa hòa trong nước bồ kết bốc thơm ngào ngạt... Tôi nhắm mắt hít mạnh mấy cái, mũi hếch lên để thưởng thức mùi thơm, tưởng tượng tới những chiếc bánh lá dứa ngon lành mà tôi thường được… ngửi.

(Tôi tệ thế đấy: một mùi thơm, một câu nói hoặc bất cứ một cái gì thoang thoảng, dính dấp đến thức ăn, dù gần, dù xa đều có sức hấp dẫn phi thường, làm tôi thèm rỏ dãi ra. Chẳng hạn nghe ai nhắc đến: màu y như màu "đường mỡ gà", "ngọt như mật", thơm như "xôi nếp mới" hoặc nghe những câu hát ví, như:

- Mẹ già như chuối ba hương...

- Thương chồng, nấu cháo chim câu...

 

Chỉ nghe thế thôi, cũng đủ gợi cho tôi những món ăn ngon lành đó, cũng đủ sức kích thích dạ dày tôi mãnh liệt.

Tôi cứ xuýt xoa một mình khi nhớ lại bài học thuộc lòng chuyện Lưu Bình, Dương Lễ. Nhớ nhất là mấy câu này: "Dọn lưng cơm với một quả cà, ăn chẳng được anh liền phẫn chí. Cửa nhà sa sút, biết lấy gì đèn sách học hành? Nàng phải đi nuôi bạn thay anh, công đức ấy xem bằng non Thái". Có ai sướng hơn Lưu Bình không? Cửa nhà sa sút thì đã có vợ bạn nuôi ăn học thế mà còn kêu khổ! Lại là một thằng kén ăn quá sức! Tôi ấy à? Tôi mà được có người cho lưng cơm với một quả cà coi, tôi phủi chân ngồi chén sạch sành sanh ấy chứ. Lại còn vờ vịt kêu là phẫn chí.

Thậm chí nghe người mù hát rong ngoài chợ, lên cái giọng khê nồng:

- Con người ta ăn những món gì? Ăn toàn mày bắp, xác mì trộn vô. Nào bẹ dăm cá liệt kho khô, rưới ba hột muối như đồ chó ăn. Anh em mình chép miệng than rằng: ba mươi đời dì ghẻ sao bằng mẹ ta...

Một bài hát rong kể tội một bà mẹ ghẻ ác nghiệt, cho con chồng ăn mấy thứ đó mà cũng làm tôi thèm thực sự. Vì bắp là thứ tôi ưa và tiếng "mày" ông ta ngâm nga chệch qua thành tiếng "mè" nên tôi càng thích. Trời ơi! Tôi ao ước có một bà mẹ ghẻ như vậy biết chừng nào! Được ăn mè, bắp, xác mì lại còn cá liệt kho khô như vậy là đại phước rồi còn kêu ca chi, kia chứ?)

- Ranh con! Đui rồi sao? Xối tràn vô mắt người ta vậy hở?

Tôi giật mình đánh thót một cái, mở choàng hai mắt. Bậy thì thôi: mùi lá dứa đã đưa tôi rong chơi bằng tưởng tượng quá nhiều!

Chị Mai lại cao giọng hơn:

- Tiểu quỷ! Mười lần dội nước gội đầu là hết chín lần dội vô mắt người ta! Đưa cái khăn đây coi, lẹ lên!

Tôi "dạ" một tiếng, phóng ba bước lại dây thép phơi áo rút cái khăn đem trao cho chị. Từ phút đó tôi tỉnh hẳn, không còn lơ mơ tưởng tượng đến bánh dứa nữa, dù mùi thơm vẫn phảng phất bên mũi không thôi.

Lau xong đầu tóc, chị Mai đứng lên, chải.

Tôi lặng lẽ ngắm: tóc chị dài gần chấm gót, khi suôn sẻ rồi lại càng đen nhánh, óng ả thêm dưới nắng sớm. Tôi ao ước được sờ vào mái tóc đó, (tóc mẹ tôi cũng dài và óng ả như thế) nhưng không dám.

Ðột nhiên, chị lên tiếng hỏi tôi:

- Tóc tao đẹp không mày, Sinh?

- Dạ đẹp! Tóc chị giống tóc mẹ em ghê! Em nhớ...

Tôi sung sướng vì được hỏi câu đó, trả lời giọng ngọt như vừa uống nước dừa! Chị Mai nói, giọng chị vừa kiêu hãnh vừa trìu mến:

- Ừ! Cô cháu ruột làm sao không giống? Mà... tóc mẹ mày còn đẹp hơn tóc tao nữa kìa. Mỗi lần gội xong...

Nghe chị nói tôi bỗng thấy như màu nắng tươi hơn, trong vắt. Giọng chị ấm áp lạ lùng, tôi yêu chị quá đi thôi.

- Úi chà! Nhưng mà tóc dài cũng cực lắm, mày ơi! Mỗi lần tắm gội, chải gỡ phát mệt, bực mình lắm, sung sướng gì?

Giọng chị lần này nhẹ và êm như một lời ru. Tôi nghĩ thầm: tưởng gì chớ muốn khỏe thì khó khăn gì? Và tôi nói phăng ra điều tôi nghĩ:

- Chị sợ cực, sợ mệt thì cạo trụi đi, như em này! (tôi vừa nói vừa chỉ tay lên đầu tôi, dạo đó tôi được lệnh cạo trụi cho mát mẻ) Có gì đâu mà lo? Chị…

Nhưng tôi bỗng ngỡ ngàng, ríu lưỡi lại, biết mình lỡ lời khi thấy thái độ chị: chị đặt cái lược trên thành giếng kêu lên một cái "cạch", quay phắt lại phía tôi, mặt chị bừng đỏ, mắt long sòng sọc, quát:

- Sinh! Mày nói cái gì vậy? Ai bày mày nói vậy? Trời ơi! Trời ơi!...

Và chị làm như đứa trẻ cần che chở trước một kẻ lạ, mặt mày hung ác: chị hướng về phía mợ tôi trong nhà, kêu thất thanh:

- Má! Má ra coi thằng Sinh nè! (giọng chị lạc đi như hụt hơi).

Mợ tôi khăn áo chỉnh tề rồi bà sắp lên chùa mà!
song nghe con gái kêu bà vội lột cái khăn trùm trên đầu, sấn sổ đi ra trước hiên, hỏi lớn:

- Cái gì vậy? Hả? Cái gì?

- Nó nói, nó biểu con cạo đầu đi cho khỏe, cạo trụi như nó vậy.

Chị Mai nói như rên. Tôi thì run tựa như một cái giẻ phơi trước gió: biết rằng cái miệng mình đã hại cái thân mình, song quá muộn.

- Ai xui mày vậy? Vô đây, vô đây, biểu! Tiểu yêu!

Nằm sấp trên cánh phản trước hiên, tôi hứng chịu những ngọn roi tưới lên mông, lưng, cổ, tay, đùi. Tôi nghiến răng chịu đau và tự hứa từ nay phải câm như hến để giữ mình.

Nắng sớm bỗng thôi rực rỡ, sầm tối lại, cảnh vật nhòe đi qua màn nước mắt và tai tôi vang dội những tiếng khác lạ: phạm thượng, coi ông bà tổ tiên như rác, coi trời bằng vung, ngạo mạn, khinh người và hàng tràng, hàng tràng lời nhiếc mắng ray rứt quen thuộc khác.

*

Hai chị em bước lên bậc thềm vừa lúc các bạn tôi đang trả bài học thuộc lòng. Giọng thằng Tị vang tận dãy hành lang rộng, vắng:

-Bầu trời cảnh bụt.

Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay,

Kìa non non, nước nước, mây mây...


Tôi thoáng một chút tiếc rẻ trong lòng, vì tôi đinh ninh sáng nay thế nào tôi cũng được bảy điểm về bài đó (Cả lớp chúng tôi rất ưa giờ Việt văn, mà giờ đó rất hiếm trong chương trình nhà trường. Ngay khi mới vào lớp năm chúng tôi đã phải và đã biết đề ngày tháng theo lối: le lundi, le mardi, octobre, novembre, v.v… Và lên lớp tư thì mỗi lần thầy kêu lên bảng đen mà đứa nào vừa đi vừa nói được: "Je vais au tableau" mới là học trò ngoan, có nhiều hy vọng được ông Công Sứ mắt xanh, mũi nhọn vò đầu! Chúng tôi không bao giờ nói: "học thuộc lòng" "chính tả", "luận văn" mà toàn là nói: récitation, dictée, rédaction, dù là chúng tôi không phải học sinh trường Pháp).

Giá tôi được vào lớp, học nốt buổi sáng nay? Buổi học cuối cùng? Tôi ao ước... ao ước một cách vô vọng, lòng xót xa thấm thía.

Nhác thấy tôi, thầy tôi gằn giọng hỏi ngay:

- À! Trò Sinh! Trò phải trả lời cho cả lớp, cả lớp chứ không phải chỉ riêng tôi, nghe rõ chưa? Câu hỏi này: trò làm gì đến tận giờ này trò mới...

Nhưng thầy tôi ngưng bặt khi nhận ra sau lưng tôi có một người lớn kèm theo. Hẳn thầy tôi đoán ngay đó là chuyện bất thường. Cả lớp vụt đứng lên đều tăm tắp. Tôi đến gần cái bục gỗ kê bàn giấy của thầy, lột mũ cầm tay, ấp a, ấp úng:

- Thưa thầy, con...

Rồi thôi, tôi không còn nói được tiếng nào nữa y như có gì chẹn ngang cổ họng. Chị Mai tiến lên, dõng dạc:

- Thưa thầy, tôi đến xin cho "em" Sinh nghỉ học.



Tôi đang buồn tê, đau điếng mà vẫn để ý đến tiếng "em" êm ái của chị Mai. Tiếc thay! Tiếng em quí báu và hiếm hoi đó được dùng trong trường hợp tôi không vui vẻ chút nào!

- Nghỉ mấy bữa?

- Dạ, nghỉ luôn!

- Nghỉ luôn?

Cả lớp nhộn lên, lao xao, nhấp nhỏm sau tiếng "luôn" của chị Mai. Thầy tôi hỏi lại, giọng sửng sốt:

- Nghỉ luôn? Nghĩa là thôi học?

- Dạ phải, thôi học...

- Sao lại thôi học? Có chuyện gì?

- Dạ, thưa, cha tôi bịnh nặng.

- À, (thầy tôi thở dài đánh sượt một cái, ngập ngừng) nhưng mà nó nhỏ quá, nghỉ ở nhà thì giúp được gì? Lại lêu lổng thôi. Tốt hơn, nên...

Tôi hồi hộp, nín thở, liếc trộm chị Mai một cái, dò chừng phản ứng của chị và nghĩ thầm: biết đâu chừng chị lại không nghe lời thầy? Đổi ý? Song giọng chị lạnh ngắt như đá tắm sương đêm:

- Dạ, nó phải về nhà, chừng nào cha tôi mạnh sẽ vô học lại, không sao.

- Chà! Xa xôi quá!

Thầy tôi nói một câu vô thưởng vô phạt như vậy bằng giọng bùi ngùi.

- Dạ, cảm ơn thầy đã dạy dỗ em Sinh. 


Giọng chị Mai lễ phép một cách giả tạo.

- Có gì đâu mà cô phải cám ơn? Ðó là bổn phận của tôi, mà.

Chị Mai quay sang tôi, giục:

- Sinh! Cám ơn thầy rồi chào các bạn đi chớ, em!

Lại "em"! Giọng chị cố ra vẻ ôn tồn, âu yếm. Tôi cặp cái mũ bên hông, vòng tay lại, cúi đầu, lí nhí:

- Thưa thầy...

Một lần nữa tôi lại nghẹn cứng họng, đứng trơ ra đó. Cả lớp im phăng phắc, một cơn gió nhẹ tạt vào cửa sổ, lật những trang sổ điểm trên bàn thầy nghe lách xách, lách xách...

Tôi như người nằm mơ bị đánh thức bất ngờ chưa tỉnh hẳn. Bỗng một bàn tay đặt lên đầu tôi và giọng thầy tôi hiền hòa vang lên:

- Nó học được lắm. Mà lại có buộc, uổng quá!

Luôn luôn như những lần trước: hễ sắp khóc là tôi gượng lại, cúi gầm mặt xuống không dám nhìn lên, cố nén nhưng nước mắt mọng tràn mi, tràn ứ, trào ra, bò dài xuống mặt... Song tôi không dám lấy tay áo gạt đi, cũng không dám nhìn các bạn. Rồi thình lình, như bị một sức sai khiến ngoài ý muốn: tôi quay lưng đi thẳng. Mặc thầy, mặc bạn và mặc cả chị Mai. Chị Mai kêu giật ngược phía sau:

- Sinh, Sinh! Sao không chào...

Giọng chị biểu lộ tất cả giận dữ cố dồn nén từ nảy, không cần che giấu nữa. Tai tôi ù lại mà tôi còn nghe được tiếng thầy tôi:

- Thôi mặc nó, để nó đi, cô!

*

Chị Mai không thèm nhìn tôi, song chị biết là tôi đang khóc phía trước. Chị rất căm. Tôi đi mau quá, chị theo không kịp. Chị hét dựng lên:

- Tiểu quỉ! Đi đâu như ăn cướp vậy? Mày điên hả? Hồi nãy thì đi như rùa bò, bây giờ thì...

Tôi không đứng hẳn mà chậm chân chờ chị. Vượt lên bằng tôi, chị nhìn đăm đăm vào mặt tôi, gằn giọng hỏi:

- Mày định làm nhục tao, phải không?

Tôi đâm bướng:

- Em làm nhục chị cái gì? Em khóc mà chị cũng cấm nữa hay sao?

- Hừ mày khóc! (chị nghiến răng) mày khóc trước mặt thiên hạ như vậy mà còn kêu là không làm nhục hả? Mày nghẹn họng sao mà tao biểu mày thưa thầy, chào bạn mày, mày cũng không làm? Được rồi, để về nhà rồi mày già họng với bà già nghe không? Đồ khốn nạn! Đồ ong tay áo! Phải mà! Tao biết quá mà! Cái giòng...

Tôi tụt lại sau chị, mong cho gió bay lời chị, đừng vọng tới tai tôi. Vậy mà chúng vẫn chui vô mồn một. Tôi lặng lẽ đi, mắt ráo hoảnh, bụng tức tối, thầm thách đố: "Tao cóc sợ! Tao cóc sợ! Dọa tao chi? Tao cóc sợ!".

Lên đến cầu, tôi nhìn trước nhìn sau toan nhảy đại xuống sông, nhưng nhìn giòng nước cuồn cuộn chảy xiết dưới chân cầu tôi đâm hãi, lại thôi. Tôi tự nhủ: cái gì khó, chứ còn muốn chết thì... không vội gì. Tôi chết ư? Dễ quá! Song ít nhất phải làm cho "họ" sợ vì cái chết của tôi, tôi mới hả.

_______________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG III
oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>