Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2018

Giọt Nước Mắt Mùa Tựu Trường


Mi mở nắp thùng gạo, lấy ra 1 bơ đầy đổ vào rá rồi đem ra vo. Những hạt gạo trắng bị chà xát trong nước, cám ra hết. Chậu nước đục trắng như chất sữa đậu nành làm con Mi chép miệng thèm thuồng, nó định lát nữa hái mấy cái lá bồ đề ngâm cho con Bi.

Nấu cơm xong, Mi ra ngồi ở bậc thềm nghĩ vẩn vơ. Giờ này cu Bầu đi học chưa về, nó mới lên lớp tư. Hè rồi, cu Bầu được cô giáo thưởng cho mấy cuốn tập có vẽ hình máy bay sặc sỡ và cái xe hơi nhựa, cu Bầu mừng lắm đem khoe ầm lên trong lúc con Mi nhìn thèm thuồng. Trí óc Mi đi lang thang, Mi nghĩ đến tà áo trắng của những chị học trung học trên tỉnh, thấy mà mê. Nếu Mi đi thi và đậu, Mi sẽ được mặc cái áo dài trắng tinh, trên bâu có mang cái phù hiệu, đi guốc, eo ơi le lói lắm chứ, Mi tha hồ lấy le với mấy đứa nhỏ. Nhưng hiện giờ chưa chắc Mi đã được đi thi dù con bé đã học xong lớp nhất. Mi muốn lắm, Mi muốn đi học cao hơn, nhưng nếu thế Mi phải lên tỉnh trọ học, phải xa làng này, Mi thương má, Mi thương cu Bầu, thương cái nhà tranh nhỏ của má con Mi cho tới những cây cối trong vườn mà Mi đã chăm sóc, tưới bón, bắt sâu. Mi yêu những người dân quê mộc mạc, tốt bụng ở đây, Mi nhớ lũy tre làng, Mi quyến luyến mùi mạ non trên cánh đồng và con đê xinh xắn. Chao ơi! Con đê xinh xắn mà những buổi đi học về với Bi 2 đứa cười khúc khích khi thấy bóng mình đổ dài và đùa nghịch dẫm chân lên bóng nhau. Chao ơi, bao nhiêu kỷ niệm gắn liền đời Mi, tuổi Mi, hồn Mi vào đó, bởi vậy Mi thấy khó lòng xa được cái làng này.

Có tiếng gọi Mi lao xao ngoài ngõ, con bé chạy vụt ra. Cô giáo Mi đến dịu dàng hỏi:

- Má em đâu Mi?

Mi khép nép:

- Thưa cô, má em đi chợ chưa về.

- Vậy hả? Uổng ghê, cô tính lại nói chuyện Mi đó.

Bước chân cô giáo và Mi len qua vuông đất. Nắng nhảy nhót chung quanh vẽ thành những cụm hoa ngồ ngộ trên nền đất. Mi lén nhìn cô giáo, cô Thu của Mi bữa nay kẹp tóc bằng cây kẹp ba lá sáng loáng, tóc cô dài và đen. Mi thấy cô giáo dễ thương hơn bao giờ hết. Tay cô quàng qua vai Mi nghe nhột nhạt và ngượng ngùng ghê.

Vô tới nhà, Mi nhắc ghế mời cô giáo ngồi rồi chạy nhanh vô nhà trong rót nước. Mi làm theo lời má dạy đó, má nói hễ khách tới nhà mà lớn tuổi hơn mình phải rót nước ra mời kẻo họ chê là vô lễ. Rót nước xong, Mi bưng ly ra mời cô giáo rồi khép nép đứng một bên. Cô giáo Thu của Mi dễ thương hết sức, cô cười và bảo Mi ngồi cạnh, nhẹ nhàng hỏi:

- Mi muốn đi thi không em?

Mi cúi đầu đáp phân vân:

- Thưa cô, con muốn quá chứ, nhưng nếu con đi, lấy ai coi nhà lúc cu Bầu đi học, mà con cũng hỏi má con rồi, má nói ở nhà đi, chớ má đâu có tiền lo cho con trọ học.

- Cô sẽ bàn lại với má Mi, không sao đâu.

Mi tính nói với cô giáo điều gì thì má về. Má đặt gánh hàng xuống hè rồi vô nhà. Thấy cô Thu, má nói:

- Ủa, cô giáo. Có chuyện chi đó cô? Dạ mời cô ngồi đi chớ.

- Dạ, cháu qua đây thưa với dì Năm cho bé Mi đi thi, cháu chắc thế nào cũng đậu mà.

Má Mi chép miệng thở dài:

- Dạ tui cũng biết vậy nhưng làm sao bây giờ, nhà nghèo đâu có tiền cho nó học cao, cô giáo.

Rồi má nói với Mi, đang đứng xớ rớ lắng tai nghe chuyện hai người:

- Mi vô soạn gánh hàng cho má đi con.

Ý má không muốn Mi tò mò xen vô chuyện người lớn, biết vậy Mi lẳng lặng gánh hàng vô nhà trong soạn ra. Tiếng má và cô Thu xầm xì ngoài nhà trên. Mi chắc lưỡi thôi kệ, được thì cũng hay mà không thì cũng tốt nữa. Vả lại thi là một chuyện mà đậu lại là một chuyện khác chứ, nếu Mi không thi thì cuộc đời Mi cũng sẽ như những đứa trẻ chăn trâu, như con Tí, cu Mẹo vậy. Cuộc đời người dân làng này từ lâu vẫn vậy, vẫn êm đềm chứ có đói rách gì đâu. Nghĩ luẩn quẩn Mi càng thấy xốn xang, con bé lắc đầu xua đuổi ý nghĩ và bắt đầu làm công việc má giao. Eo ơi! Hôm nay má ế hàng quá trời đi nè, mấy  cây quạt giấy vẫn còn nguyên và những cuộn chỉ trắng chỉ hao hụt chút ít... Mi buồn bã khi nghĩ đến thức ăn ngày mai. Dạo này má hay thở dài với Mi và bảo hàng ế quá mà thức ăn lại mắc không biết làm sao sống đây. Thôi hay là Mi xin má ở nhà đi, ở nhà giúp đỡ má này nọ, cho má đỡ mệt. Tội má, ngày nào cũng gánh hàng, thức khuya dậy sớm tảo tần buôn bán nuôi Mi và cu Bầu, mà má không hề than van. Dạo này Mi thấy má gầy đi, vậy nếu Mi lên tỉnh trọ học nữa chắc má ốm tong teo như bộ xương cách trí mất. Nghĩ tới đó Mi muốn rơm rớm nước mắt, nhưng con bé chưa kịp nghĩ lâu má đã xuống bếp đứng cạnh Mi. Mi ngước lên nhìn má thấy mắt má đỏ hoe, chắc má khóc vì chuyện Mi? Eo ơi, Mi thương má quá đi mất, má sợ má không làm tròn bổn phận với Mi chứ gì. Mi biết mà, Mi biết hết, phải vậy không má? Mi hỏi má, má không trả lời chỉ gật đầu nhìn Mi, Mi cảm động ôm chầm lấy má rồi òa ra khóc, má cũng vậy nhưng má khóc chỉ có nước mắt, nước mắt má ấm một bên má Mi.

Bé Mi ngồi tẩn mẩn bên đống quà tặng của Bi, Mi dốc hết tiền túi để mua cho Bi. Kỳ thi Đệ thất đã qua và Bi, người học trò nữ duy nhất của làng nhỏ bé này đã đậu vào trung học tỉnh. Bi vui lắm và Mi muốn góp thêm vào niềm vui của Bi, ngày mai Bi đi rồi, ngày mai Bi xa Mi rồi, xa cái làng nhỏ bé này rồi phải không Bi? Mi xếp lại mấy cuốn vở Thiên nga, cục tẩy, cái thước kẻ, cuốn sách luận lớp sáu Mi nhờ má mua ôm gọn trong tay rồi lững thững qua nhà Bi. Bi đứng chờ Mi từ lâu dưới giàn bông giấy nở hoa màu đỏ, nụ cười Bi cũng đỏ như màu hoa giấy. Mi thấy chưa bao giờ Bi xinh như thế, chưa bao giờ cô bạn nhỏ của Mi dễ thương như thế và bỗng chợt Mi thấy tủi thân, thấy Bi cao hơn Mi thế nào ấy. Bi đón Mi bằng nụ cười có hai cái lúm đồng tiền trên má lõm sâu, xoáy tròn mà Mi vẫn ưa thích. Bi cười như con sáo nhỏ:

- Mi qua đây tiễn Bi đó hả? Ngày mai Bi đi sớm Mi có ra tiễn Bi không?

- Chưa chắc nữa Bi ạ, lỡ Mi bận.

- Bận gì, bận ngủ ấy à?

- Bận gì chả được, nhưng Bi này, bữa nay mình tâm sự cho đã đi. Mai Bi đi rồi mà.

Mai Bi đi rồi, Mi không muốn nhắc, Mi chẳng muốn nói và cũng chả bao giờ muốn nghĩ tới lúc Mi xa Bi, cô bạn nhỏ bé gần nhà chỉ cách nhau một khoảng vườn cây trái, chơi với nhau mười năm trời từ ngày hai đứa mới lên 2, 3 gì đó. Mi đã nói thế và luống cuống ngăn cho đừng rơi vào sự buồn tẻ giữa hai đứa. May sao Bi đỡ lời:

- Thôi, Mi đừng buồn, Mi ở dưới này còn có bạn bè chứ Bi lên trên đó chỉ có một mình còn buồn gấp mấy lần Mi.

- Ờ há.

Mi ngẩn ngơ, nỗi ngẩn ngơ của Mi chùng thấp, thế nhưng Bi sẽ có bạn, Bi sẽ có bạn nhiều lắm, bạn sang hơn Mi, bạn học giỏi hơn Mi, Bi sẽ không cô đơn đâu Bi, Bi sẽ quên Mi, Bi có bao giờ quên Mi không Bi? Mi im lặng có vẻ buồn làm Bi đoán được hết ý nghĩ trong đầu Mi:

- Mi yên chí đi, Bi sẽ không bao giờ quên Mi đâu Mi, mà quên Mi sao được, mình chơi với nhau từ nhỏ, thân thiết thế thì làm sao mà Bi quên Mi được hả Mi?

Mi đổi buồn ra vui cho Bi bằng lòng. Mi cười nụ nhỏ như bông mười giờ:

- Mi đem qua tặng Bi nè, chỉ có mấy cuốn sách và vài thứ lặt vặt cho niên học mới của Bi đó, Bi nè... đừng chê, đừng cười Mi nha Bi, Mi...

Mi nói tới đó đã muốn nghẹn lời, nụ cười tắt, bông mười giờ chợt héo làm Bi bối rối:

- Mi à, không có đâu, Bi hiểu, Bi thương Mi nhiều lắm Mi biết không?

- Mi biết...

- Bi không muốn xa Mi chút nào hết.

- Mi biết...

Bi cầm tay Mi, mắt Bi nhìn Mi, mắt Bi tròn như hai hột nhãn, mắt Bi long lanh như sắp khóc làm Mi tưởng như mình cũng sắp khóc đến nơi. Mi chặn kịp và từ giã Bi:

- Bi ơi, thôi Mi về nha, mai Bi đi, Bi là cô nữ sinh trung học rồi đấy. À, quên nữa, còn đây nè.

Mi lật chồng tập, một cái lá bồ đề khô trơ gân và cành lá thuộc bài, Mi để dành cho Bi.

Bi chớp mắt cảm động:

- Cám ơn Mi, Mi xem nè, Bi sẽ giữ mãi cái lá bồ đề tượng trưng cho tình bạn chúng mình và lá thuộc bài để luôn luôn Bi được điểm cao, Mi bằng lòng chứ?

Mi gật đầu rồi gỡ tay Bi ra, quay mặt đi nhanh về nhà. Qua khu vườn lá mới bắt đầu trở sang vàng, đã có vài cành lá rụng dưới bước chân Mi và Bi có hay chăng mùa tựu trường năm nay đang làm mắt Mi long lanh, nước mắt Mi sắp sửa rụng xuống rồi đó Bi.


CA DAO           
(bút nhóm Hoa Tiên)  


(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 54, ra ngày 4-9-1972)

Bìa của Vi Vi : Chân dung em Nguyễn Thanh Xuân

Thứ Năm, 30 tháng 8, 2018

Tháng Tám Ngày Xưa























Tháng tám ngày xưa   tháng tám yên bình

Gió nhẹ đầu thu  buổi sáng bình minh

Ngày tháng qua mau  những  năm trung học

Cắp sách đến trường,  em vẫn có anh


Rồi một  mùa thu,  em bước đến trường

Chẳng có còn anh   chung một nẻo đường

Chợt thấy lòng buồn  chẳng còn náo nức

Ngã rẽ cuộc đời,  ngã rẽ tình thương


Tháng tám mùa thu,  tháng tám tựu trường  

Mong anh trở về  mang chút luyến thương 

Chim xưa vẫn đợi  trên cành hoa lựu 

Cất tiếng hót vang  một sáng tinh sương 


Tháng tám mùa thu,  em đã thấy gì 

Trôi theo mây trời,  anh đã ra đi

Bỏ lại phía sau  ngày xanh nắng ấm

Chợt thấm hồn đau,  lệ đẫm bờ mi 


Thu về  xứ lạ   ngày tháng phôi pha

Còn có trong em  những dấu chân ngà

Kỷ niệm vui  buồn   một  thời  nhớ mãi 

Dù đã phai tàn  theo tháng năm qua 

                                                     NHÃ UYÊN


Thứ Tư, 29 tháng 8, 2018

Con Đường Thơ Ấu


Bốn tháng hè thấm thoát qua mau, Lan lại sắp phải đội mưa đến trường trong những tháng đầu niên học. Nghĩ đến ngày tựu trường lòng Lan rộn rã vui. Lan như nhớ lại mùi tập giấy thơm nhẹ, mùi chiếc cặp mới và nhất là những lần đến trường.

Hồi ấy Lan chưa đầy mười một tuổi và chỉ cao có một thước ba mươi mấy thôi nên cả nhà gọi Lan là Bé. Mà bé thật so với bây giờ. Kéo chân lên cao một tí, Lan lim dim đôi mắt để thấy rõ hơn hình ảnh con Bé ngày xưa.

Đây rồi, bé Lan ngày xưa đây rồi. Lan ngày nào mới mười hai giờ mười lăm đã hấp tấp ăn cơm để kịp giờ đi học. Sau đó, một tay xách cặp, nón trên đầu, bé thong thả đi bộ qua vườn Tao Đàn ra Sàigòn đón xe buýt rồi trở vào Gia Định. Trường Bé ở xa nhà lắm. Những năm cây số cơ! Vào đến vườn Tao Đàn bé bỏ nón ra để đầu trần mà đi. Con đường thật râm mát, bé không sợ nhức đầu. Năm ấy, vườn thường hay đóng cửa chính, chỉ chừa một cửa nhỏ cho người đi bộ mà thôi. Bé đi giữa đường bước lên những vũng nắng nhỏ và đạp nát các tấm lá chết khô nằm rải rác đầy đường. Lá khô kêu lào xào dưới chân bé. Đến giữa vườn, bé thường dừng lại ngửa mặt nhìn trời. Không biết mặt trời trốn ở đâu rọi nắng xuống mà bé tìm không thấy. Chỉ thấy một khoảng trời tròn xanh lơ giữa vòm lá mượt. Các ngọn cây này đến hay nhỉ! Xếp đều đặn xung quanh thành một vòng tròn bằng lá đẹp ghê. Chắc ngày xưa người ta đã phải lấy chỗ bé đứng làm tâm, vẽ một vòng tròn khổng lồ rồi trồng lên những cây này chắc. Bé thầm nghĩ như thế!

Tuy không biết chúng tên là cây gì nhưng bé rất thích ngắm chúng. Những thân cây màu bạc thẳng tắp và cao vút, không cành không lá mãi đến quá nửa cây lối gần ngọn mới thấy có cành. Mà cành cây cũng đặc biệt nốt. Chúng như một cái thang thiên nhiên. Cứ bên trái thân cây có một cành thì bên phải không có, rồi đến bên phải có thì bên trái không. Cứ thế tiếp tục đến ngọn. Chúng thật là người bạn tốt với các nàng ve sầu. Chi chít quanh thân cây, nhất là những chỗ có lá vô số ve sầu cắm mũi hút nhựa. Đứng đây một lúc bé muốn điếc tai vì tiếng hát của ve. Chợt bé để ý thấy các chị Gia Long đi qua ai cũng nhìn bé một cái rồi mới đi. Chắc bé đứng giữa đường nhìn trời, nhìn cây, họ tưởng bé điên. Đâm ngượng và sợ trễ học bé tất tả đi.

Đến bùng binh, nhìn đồng hồ thấy mới một giờ kém bẩy tám phút bé mới chậm bước lại. Thường thì đúng một giờ mới có một chuyến xe 41. Buổi trưa đường vắng, hành khách ít, xe chạy mau nên không bao giờ bé đi muộn. Đến bến, bé đã thấy bọn con Hằng, con Thúy... đứng chờ xe châu đầu vào nhau tán gẫu. Bé hí hửng đến nhập bọn.

Buổi học vui tươi qua mau. Hai hồi chuông dài báo hiệu giờ về đã reo. Chà, lúc về 5g30 mới thật là mệt. Xe chật như nêm. Có hôm chen lên không được, bé và các bạn phải chờ đến 6 giờ hơn mới có xe về. Hồi ấy bé thường có tiền ăn quà luôn. Con Thúy cũng thế. Chả là vì tụi bé hên quá, các ông bán vé không thèm lấy vé mặc dù tụi bé có đưa tiền đàng hoàng. Hai đứa thích ghê, dùng tiền ấy đóng thuế cho các hàng quà.

Những buổi học đều đặn trôi qua. Một hôm, cô Việt văn đọc cho tụi bé bài chính tả dịch của Anatole France. Bé thấy vui vui trong lòng khi nghĩ mình cũng gần giống tác giả đi học qua vườn Lục Xâm Bảo. Tiếc rằng vườn Tao Đàn "của bé" không có lấy một bức tượng. Sau nầy bé mà được làm tổng thống, nữ tổng thống, bé sẽ bảo người ta đúc tượng các anh hùng VN đặt vào vườn Tao Đàn mới được...

 Chị tưởng Lan đã ngủ tắt đèn lúc nào Lan không hay. Bây giờ chắc đang giờ giới nghiêm nên cả nhà và toàn khu phố đều lặng trang. Không một tiếng động. Sự yên tĩnh hoàn toàn chợt gợi ra trong trí Lan một mẻ sợ hết hồn do trí tưởng tượng và lo xa của Lan lúc đi học qua vườn Tao Đàn.

Hôm ấy, bé Lan cũng đi học vào giờ thường lệ. Đi một quãng bé mới ngạc nhiên vì chỉ có tiếng guốc bé lóc cóc vang lên giữa sự im lặng của vườn. Giật mình, bé dừng lại dáo dác nhìn chung quanh. Tịnh không một bóng người. Cả khu vườn mênh mông im phăng phắc. Bấy giờ là sau Tết. Không một cơn gió. Chỉ có vài tiếng chim ríu rít đâu đây. Bỗng "sạt" một tiếng trầm và sắc ngay sau lưng bé. Hốt hoảng bé quay nhìn, không có gì cả ; chỉ là một chiếc lá khô nâu sẫm to tướng rụng xuống. Hú hồn. Bé nghe tim đập liên hồi. Bé vội vã bước, mong cho mau ra khỏi vườn, trí miên man nghĩ ngợi. Không hiểu sao hôm nay không có một chị Gia Long nào đi về cả vậy? Ba má bé có dặn là hôm nào có các chị Gia Long về học, bé muốn đi bộ thì đi, không sao, còn hôm nào không có thì chịu khó chờ xe buýt. Càng nghĩ bé càng hối, sao lúc nãy đi, mắt bé ở đâu nhỉ, sao bé không nhớ lời ba má bé dặn nhỉ? Nhỡ bây giờ ai bắt cóc bé thì làm sao. Chắc có nước chết! Cảnh sát ở mãi đường Hồng Thập Tự và Nguyễn Du, làm sao bé kêu cứu cho họ nghe được. Không một bóng cảnh sát hoa viên! Các bụi cây ngày thường hiền lành bao nhiêu giờ có vẻ dữ dằn, hăm dọa bấy nhiêu. Bất giác bé đưa tay sờ vào sợi chuyền vàng đeo nơi cổ. Bé hơi yên tâm vì nó nằm dưới lớp áo dài, chân bé hình như không chịu bước mà con đường lại như dài ra. Bao nhiêu ý nghĩ quay cuồng trong óc bé. Những chuyện bắt cóc trẻ con cướp của giết người, nhất là những cái xác chết từng nằm trong vườn ùn ùn kéo đến dọa bé thêm khiếp. Bé run rẩy bước, miệng lâm râm khấn cầu Chúa, Đức Mẹ cứu bé. Mắt bé dáo dác nhìn xem từ trong ngàn cây hiền lành này có che giấu tên sát nhân nào không. A! Gần đến cửa vườn đường Nguyễn Du rồi. Bé thấy chân bớt run và ríu lại như lúc nãy, bé cố bước mau hơn. Đây rồi! Qua cánh cửa sắt này là yên chí lớn.

Đến ngoài, bé thở phào nhẹ nhõm. Thôi một lần thì "cạch" đến già, bé tự hứa không có đi một mình để phập phồng lo sợ như hôm nay nữa đâu. Bữa cơm tối hôm ấy, kể chuyện lại cho cả nhà, bé được ba má cắt nghĩa cho nghe một lúc. Anh Long lúc đi ngủ còn trêu bé:

- Giá lúc đó anh biết bé đang sợ anh lén lại hù bé một cái chắc Bé dám lăn đùng ra bất tỉnh lắm phải không?

Cô bé đỏ mặt...

Tất cả giờ chỉ còn là kỷ niệm. Giờ bé đã lớn, bé cao hơn cả chị bé thành thử cả nhà vứt bỏ cái tên "Bé" bé bỏng của bé đi. Nay bé là Lan, Ngọc Lan. Lan không còn đi học thơ thẩn trong vườn Tao Đàn như ngày nào nữa. Mấy năm qua, bao nhiêu là thay đổi. Nhưng Lan, Lan và một số bạn vẫn còn đi về xe buýt bốn chuyến mỗi ngày. Lan đã quen đứng chờ xe có khi hàng giờ. Chờ đến dài cổ! Bao năm đi xe buýt, bây giờ mỗi lần phải chờ xe lâu hay gặp xe đông bọn Lan liệu có thể chen lên thì thế nào cũng cố chen cho bằng được. Con Nga thường cười và ra điệu bộ bảo cả bọn:

- Xe bus thế mà ích lợi thật chúng mày nhỉ! Vừa rẻ này, vừa tập cho chúng ta tính kiên nhẫn này, tinh thần tranh đấu này...

Nga chưa nói hết cả bọn đã bật cười ròn tan.

Lan thầm mong trời chóng sáng rồi chóng tối rồi lại chóng sáng cho mau đến ngày Lan đi học. Đồng hồ dưới nhà thong thả buông mười một tiếng quen thuộc. Khuya rồi, tự nhiên Lan buồn ngủ, những hình ảnh trong trí lộn xộn dần. Giật mình một cái, Lan bước vào thế giới của những giấc mộng, giấc chiêm bao.


Chí Nhi     

 
(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 51, ra ngày 15-8-1966)

Thứ Ba, 28 tháng 8, 2018

Những Khuôn Mặt Thân Yêu


Sáng sớm "tinh sương" con bé đã bừng dậy náo nức nhìn thiên hạ tấp nập sinh hoạt như thường lệ. Nhưng bữa nay thì khác hẳn vẻ khác hơn tí ti và có thêm vài chi tiết khá hấp dẫn. Gớm sao mà có gió lành lạnh thế ni, có lẽ là hơi lạnh của "sương thu" đấy mà con bé chả biết hơi sương "vương vấn" ra thế nào? Bên kia đường những cô cậu bé tí cắp sách đến trường đang chí chóe cãi nhau ỏm tỏi. Ừ bữa nay ta cũng đi học rồi chớ bộ, khai trường mờ. Vũ Gi bỗng thấy bật cười, một cậu bé tí xíu kia nhõng nhẽo quá, chắc có lẽ bắt đầu đi đánh vần ABC, làm cho cô chị lớn hơn một tí cuống cuồng vì chú bé ta cứ khăng khăng giữ vững lập trường không chịu đi nữa.

- Thôi kệ hắn, mình còn "trang điểm" nữa chứ?

Vũ Gi nhảy chân sáo lo mọi thủ tục, sau một màn thưa gởi ngoan ngoãn, con bé bèn vác ngay chiếc xe phóng một mạch cho kịp những ai mà con bé nhớ rằng mình đã hẹn nhau từ ba tháng trước ; giờ này chắc mấy nhỏ "trời đánh" tới trường rồi?

Con bé đi muộn quá, vừa đi vừa xuýt xoa. Một dãy hành lang dài chật ních những tiếng hét, tiếng kêu réo. Nhớ trường, nhớ bạn bè, nhớ những ngày vui của thất nương làm Vũ Gi phấn khởi thêm.

- Ê con bé Vũ Gi kia, bọn ta nè!

Eo ơi con bé chả biết mình ra làm răng nữa? Gớm mới mở màn đã bị nhỏ khỉ Vũ hét toáng cả lên.

- Vũ Gi có duyên quá, nụ cười của mi sao mà dễ thương ghê đi, lại đây cho con nhà Dân "mi mi" phát xem sao?

Con bé hồng cả má lên, gặp lại những khuôn mặt đáng  yêu làm con bé muốn hét lên thật to cho nó thỏa niềm nhung nhớ, thất nương của con bé đấy! Này nhé, nhóc tì Vũ hôm nay mới thấy xuất hiện hai cái ngà voi lủng lẳng, mái tóc vừa đen vừa dày cột cao lên thấy "dễ ghét" chi lạ.

Hắn vội  vàng giới thiệu Đàlạt là thiên đường của tuổi trẻ hắn đã từng nghe thông reo, nhìn thác đổ ầm tung bọt trắng xóa và ngắm cả cái lạnh lẽo của miền rừng núi. Núi rừng của hắn rất đẹp, bầu trời của hắn thì trong vắt như pha lê và những vì sao của hắn lấp lánh như những viên hồng ngọc và hắn đã từng tuyên bố rằng hắn đã thở bằng khí O2 của hàng vạn cây tùng, thông, bách... trên mãi đỉnh đồi cao chót vót.

Nghe hắn tán dương mà con bé thấy ghét ghê, hắn cứ làm như hắn rất rành chuyện "thiên văn" không bằng. Nhỏ Tuyết nãy giờ coi bộ cũng ngứa miệng rồi nên bèn sì tốp cái miệng tươi như hoa kia lại và thao thao bất tuyệt đến nỗi Vũ Gi chả biết hắn nói cái khỉ gì nhưng cũng đại khái như là hắn đang tả oán rằng thì là hắn bị phơi nắng đen như lọ lem í và da hắn bi giờ có mùi mằn mặn, và hắn có kể rằng hắn uống ít ra cũng vài lít nước biển, có lẽ giờ này nước biển trong bụng hắn cũng đã bốc hơi hết rồi nên hắn bảo rằng bây giờ ruột hắn đang mặn lắm. Hắn còn kể rằng hắn leo núi chì nhất nước và rất ư là can đảm và còn hơn cả những nhà thám hiểm lần đầu tiên đặt chân lên ngọn núi "Ê vơ rét".

Quên nữa, còn chứ phải không? Chị em cô bé T3 nữa chứ? Cộng với bé Dân "của chị Vũ Gi" thì là những tiếng hót của họa mi, tiếng hót trong và ấm và ngọt như là Chocolate mỗi lần mà con bé ngậm, hắn cũng như thế tan dần và ngấm dần hương vị ngọt ngào thơm tho ấy.

- Nãy giờ bị nghe hơi nhiều rồi nghen, chắc Vũ Gi tức lắm Vũ há?

Chị em con nhà T3 hót lên làm con bé giật thót mình và ngơ ngác vì cứ tưởng là một đàn chim họa mi tới tấn công tới tấp.

- Vũ Gi chả bao giờ thèm "tức" cả, tại vì bữa nay mới hội ngộ nên nói sơ sơ thôi sợ khắc khẩu cho nên mới im hơi lặng tiếng thế đấy chứ!

- Mới xa nhau có mấy tháng mà con bé Vũ Gi " lý sự cùn" nghe phát khiếp, chứ không phải mi có muốn nói cũng không nói được à?

- Ứ ừ. Dân cứ nheo mũi mà chọc tức Vũ Gi nhá, méc cho mà xem...

Nhóc tì Vũ hỏi Vũ Gi là có cái chi chi vui không? Cho hắn tháp tùng nghe mi nhưng Vũ Gi bảo với hắn là Vũ Gi chả có kí gì vui cả. Vũ Gi vui để mà vui nên không kể được cái "vui vẻ" ấy khiến nhóc tì ta chả hiểu mô tê chi ráo. Nói đến nhóc tì Vu, Vũ Gi thấy tức cười ghê đi và bèn kể luôn cho nhóc tì nghe chuyện vui đó làm cho nhóc tì cười trừ một cách tức tối và chả làm gì Vũ Gi được. Số là hồi xa xưa đó, cái thuở mà ngày xửa ngày xưa Vũ Gi quen với cô nàng Vũ trong một trường hợp rất ư là khẩn cấp. Bữa đó cô nàng ta không biết thế nào mà bị té xe lết không nổi bèn cầu cứu và làm quen với Vũ Gi để Vũ Gi tha hắn vào nhà thương để làm phúc. Để cảm kích tấm lòng "đại bác" và nhân hậu đó, cô nàng xin nhận làm em và qua đây ngồi cạnh Vũ Gi để mờ Vũ Gi tha hồ "cốp" mỗi lần trước khi nói một chuyện gì đó. Cô nàng Vũ ghét cái cố tật đó của Vũ Gi lắm nhưng còn "quyền huynh thế phụ" vất đi đâu?

Nãy giờ Vũ Gi miên man mãi không để ý đến sáu cô nàng kia đang giương mắt ếch ngắm nhìn một đấng nữ nhi đang run rẩy trước gió, không biết đấng này ở mô tới mà có vẻ "ma mới toanh". Ơ, mắt của cô bé này tròn và to quá, như mắt của một chú "nai vàng" ngơ ngác nhìn một đám con mắt đang chiếu tướng mình một cách dữ dội.

Cô bé giống như một con cò hương, cái áo len màu nước biển nổi hẳn trên nền áo trắng tinh. Vũ Gi bèn giở cái tài ngoại giao của mình ra (có một không hai đó nhe!) ngoắc cô bé lại đây chơi một tí. Mới đầu cô bé có vẻ khiếp sợ vì lực lượng quá hùng hậu nhưng sau vài phút điều tra lý lịch chắc cô bé thấy thất nương "hiền khô" nên cũng nói như sáo. Còn bọn thất nương thì nghĩ rằng mình nên cứu vớt cô bé này để thành bát nương cho nó xứng bốn cặp. Sau màn giới thiệu các nhân vật, cô bé Phượng Anh đó (có cái tên đẹp đấy chứ? Nhưng thất nương vẫn gọi là cô nương) được cho làm em út, thế là huề cả làng một lực lượng đi đến đâu cũng làm cho thiên hạ khiếp vía. Sau một hồi đấu "hót" và tán "phét" cũng vừa thời giờ cho tiếng chuông vào lớp. Trong lúc những tiếng cười vẫn còn kéo theo vào lớp, lực lượng nhanh chân chiếm cứ hai hàng đầu tạo nên một sỉ số quan trọng. Vũ Gi bấm tay nhóc tì Vũ:

- Vũ cho "chị Vũ Gi" mượn thời khóa biểu một tí.

Nhóc tì Vũ kỹ lưỡng ghê là, hắn cho Vũ Gi mượn một cuốn tập, chu choa ơi nó mới đẹp làm sao, mới toanh hé, mới ghi có vài hàng thứ hai, thứ ba... mà thơm thơm mùi giấy mới. Vũ Gi hít lấy hít để vài cái xả xui mùi thơm quyến rũ và mát rượi như cái bao tập màu hồng phấn, màu hồng đẹp đẽ. Những con mắt nai vàng đều nhìn đời bằng một màu hồng.

- Gi này, sao "chị" hay mơ mộng thế? Ngồi trong lớp mà cứ nhìn ra ngoài thôi.

Vũ Gi cười duyên với nhóc tì một phát và chỉ cho nhóc tì thấy rằng phía bên đồi kia đẹp quá nên con mắt của Vũ Gi mới chu du đấy chứ.

- Ừ, Vũ cũng thấy đẹp ghê đi. Gi thấy không, nhất là ngọn núi đó, phía bên này nè, trên đỉnh cao chót vót vẫn còn một khoảng sương mờ đục chưa  tan quyện lẫn lộn  bay bay với đám mây xanh lơ lửng như quyến luyến không rời nhau, một màu xanh trong sáng tỏa rộng một nửa quả đồi với những đám cỏ xanh rì lẫn với vài vệt dài chạy theo đường chân trời toàn là mầu cỏ cháy vàng như những bông lúa.

- Suýt nữa thì chết nhá! Thầy vào tới lớp rồi kìa nhỏ Vũ huých tay Vũ Gi một cái.

Một màn quan sát diễn ra trong im lặng. Mọi con mắt nhìn thầy giáo mới trong khi đó chỉ có hai con mắt đang chiếu tướng mấy chục cặp mắt hướng về mình làm cho bát nương cứ rúc rích cười mãi làm thầy giáo khớp quá nên có một màn thông cảm đầu năm.

Vũ Gi quan sát một tí: thầy tuy có vẻ lừng khừng nhưng có cái tài ăn nói lưu loát hay hơn cả cái tài ngoại giao của con nhà Vũ Gi rồi, thế thì bát nương đầu hàng mất.

Ông thầy nói dễ thương quá, Vũ Gi lắng tai nghe rồi nghe mãi những lời đó thấm sâu vào tâm hồn, chừng mơ hồ còn nghe tiếng giảng đều đều thì bạn bè đã cắm cúi viết đầy trang vở đầu tiên và những giòng chữ bay bướm của nhóc tì Vũ đã chiếm kín trang giấy trắng dần dần được biến chuyển với nét bút màu xanh. Vũ Gi đang ngơ ngác và bối rối thì được nguyên hàng tặng cho những nụ cười mỉm chi và Vũ Gi thấy rõ nhất cái nheo mắt tinh nghịch của "cò hương".

Mây trên núi vẫn lơ lửng, sương trên núi chưa tan dù những tia nắng ấm đã xuyên qua khung cửa, mặt đất đã nhận tia nắng cho một ngày trong sáng của đầu niên học và cả lứa tuổi ngọc ngà cầm sách đáng yêu nữa.


(cuối hạ một chín bảy hai)
DU CÔN               


(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 183, ra ngày 15-8-1972)

Thứ Hai, 27 tháng 8, 2018

Ngày Đầu Niên Học














Tay cặp sách em đi bằng khép nép
Nắng bên đường vương ngập lối đi quanh
Áo trắng tinh màu bảng nhỏ xanh xanh
Thêu trên áo em mang hồn thơ dại.

Đường hôm nay bướm trắng về muôn lối
Trời mây thu trong đáy mắt học trò
Chút thẹn thùa cho cô bạn tuổi thơ
Em nhớ quá, hôm nay mình gặp lại.

Vào cửa lớp ôi muôn nghìn dấu ái
Mở vào lòng một chút nhớ hương xưa
Trên bảng xanh bàn ghế của ngày mùa
Em ngây ngất cho ngày đầu niên học.

Dấu bâng khuâng trong mùa thu mắt ướt
Khép kín rồi khung mùa hạ thân yêu
Bằng chăm ngoan đi học mỗi buổi chiều
Bên chúng bạn, trường ơi sao thương quá.

Em e thẹn đỏ hồng trên đôi má
Để tóc mây bay lộng giữa đường về
Nghe vu vơ lời bạn nói vui ghê
Gớm cô bé, nhỏ mà học lớp chín?

                         CHƯƠNG HOÀNG THÚY
                                       (Cần Thơ)

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 105, ra ngày 31-8-1973)

Chủ Nhật, 26 tháng 8, 2018

Con Rồng và Hạt Kim Cương


Vào thời xa xưa đó, dân tộc Phổ phù hoa sinh sống trên giải đất của xứ Yến phỉ thi, một giải đất phì nhiêu với non sông cẩm tú tựa hồ như một cảnh thiên đàng hạ giới. Được thiên nhiên ưu đã, những con người sống nơi cõi thiên đàng hạ giới này đã sinh ra lười biếng, mất hết cái chí phấn đấu và trong lòng họ chỉ còn một điều ước muốn là được mãi mãi ăn chơi, tận hưởng thú đời.

Nhưng rồi một ngày kia, một tai họa lớn đã đổ lên đầu dân tộc Phổ phù hoa. Một con rồng thật hung bạo, thật khát máu đã từ vùng núi non U phổ tới, gieo tai rắc họa cho tất cả mọi người. Đánh đuổi con rồng ra khỏi xứ, đó là một việc khó cỡ như cái khó lên trời, còn như bỏ cái xứ phì nhiêu no ấm này mà đi, thì cũng không một ai nghĩ tới! Tình trạng kéo dài khá lâu như vậy, cho đến lúc sau cùng, một vị quốc vương nổi tiếng là khôn ngoan sáng suốt đã thành công trong việc giao kết với con rồng, thỏa thuận hiến cho nó mỗi năm một đứa trẻ sơ sinh trong tuần trăng của vị thần Ramadan để đổi lấy sự bình an cho tất cả dân cư sống trong vùng. Và tất cả chúng dân đều lấy làm hài lòng về giải pháp giao kết đó!

Một đứa trẻ sơ sinh có đáng là bao, một gia đình chịu cảnh tang chế là một điều quá nhỏ nhoi so với sự an ninh thịnh vượng của toàn cả một dân tộc! Một xứ sở khác dĩ nhiên là không bị mắc cái nạn con rồng thực đó, nhưng ở những nơi đó đất lại xấu hơn nhiều, mưa lại ít hơn nhiều và công việc đồng áng lại đòi hỏi nhiều công lao vất vả hơn! Tắt một lời, mọi người đều "vui vẻ nhẹ nhàng" mà "chấp nhận" con rồng nọ, thậm chí có nhiều kẻ (những kẻ này dĩ nhiên không có con cái) còn đi tới chỗ coi con rồng như là một thứ tài sản của quốc gia!

Nhiều thế kỷ trôi qua như vậy, và trong suốt cái khoảng thời gian dài đăng đẳng đó, mọi cá nhân đều tỏ ra cam chịu đối trước tình trạng kia, với trong thâm tâm một niềm hy vọng ngấm ngầm là chỉ có "những người khác" là phải gánh chịu cái tai họa của con rồng mà thôi, còn bản thân mình thì "tai qua nạn khỏi".

Để giữ công bằng, vị quốc vương cũng tự đặt mình vào trong luật lệ, tuy nhiên từ trước tới nay trong gia đình của hoàng tộc chưa từng có một đứa trẻ nào đã bị sinh ra vào cái tuần trăng (của thần Ramadan) ác hại nói trên! Những bức tường của hoàng cung quá cao, những cánh cửa của hoàng cung quá kín, và những lưỡi mã tấu của bọn đao phủ thủ thì quá sắc (sẵn sàng để "chém bay đầu" những kẻ ngồi lê nói mách) khiến cho không một ai có thể nghe thấu (hoặc hồ nghi về) tiếng khóc chào đời của một đứa bé vào tuần trăng của vị thần Ramadan. Ngược lại, những căn lều của bọn cùng dân thì lúc nào cũng hở hang trống trải, gió lùa bốn hướng tám phương, sẵn sàng để "mang đi xa" một cái tin mừng vô cùng bất hạnh, tin mừng về một đứa trẻ mới chào đời, và vô cùng bất hạnh vì sinh nhật của nó nằm trong tuần trăng của thần Ramadan!

Một phụ nữ, nàng Ái Sa, đã thấu hiểu điều đó. vì vậy mà một khi sắp sửa đến ngày khai hoa mãn nguyệt, nàng Ái Sa đã khôn ngoan sống biệt lập trong một khu rừng. Rời bỏ xứ này mà đi thì đã không thành vấn đề đối với một sản phụ gần ngày sinh nở ; huống chi, rời bỏ đàn gia súc, Ái Sa sẽ hết phương tiện sinh sống và chắc chắn là nàng sẽ chết đói ở phương xa. Đó không phải là tình cảnh của riêng một nàng Ái Sa mà là tình cảnh chung của những con người sống trong cảnh "lều tranh vách đất". Còn về phần những gia đình giàu có, dĩ nhiên họ có thể rời bỏ xứ mà đi một cách dễ dàng, nhưng noi gương hoàng cung, những gia đình giàu có cũng không bao giờ "chịu sinh hạ" một đứa con vào tuần trăng của vị thần Ramadan cả!

Nàng Ái Sa thấy rõ cái định mệnh ghê gớm đang chờ đợi mình, vì vậy mà suốt đêm ngày nàng đã cầu khấn Đấng Tối Cao hãy "ban phép" cho một sản phụ nào đó sinh con trước mình! (dĩ nhiên là sinh con trong tuần trăng của vị thần Ramadan!) Cái lời cầu khấn đó xem ra có vẻ hơi ích kỷ để có thể khiến Đấng Tối Cao chấp thuận! Lẽ ra thì nàng Ái Sa nên tìm cách để bắt chước hoàng gia, nhất định không đẻ đái gì vào tuần trăng của vị thần Ramadan mới phải!

Cuối cùng thì kỳ mãn nguyệt khai hoa của nàng Ái Sa đã tới, đúng theo định luật của thiên nhiên, nghĩa là sau đúng chín tháng mười ngày không hơn không kém. Trẻ sơ sinh con nàng, là một đứa bé trai có tiếng khóc chào đời to thực là to! Tuy nhiên vì lúc này nàng Ái Sa đã vào ở trong rừng nên không một đồng loại nào của nàng đã nghe lọt tiếng khóc chào đời đó ; chỉ có những con chim con thú, nhưng những con này thì đều nhất định giữ kín tiếng khóc của con nàng.

Song le, trong khi đó, nàng Ái Sa đã lấy làm lo lắng vô cùng khi trông thấy "Tô-bô-quy-lê" xuất hiện. Nếu như trong những cổ tích và thần thoại của Tây phương, anh chàng cáo đã luôn luôn đóng một vai chính gian hùng thì ở những truyện cổ tích và thần thoại của xứ Phi châu anh chàng sóc "Tô-bô-quy-lê" cũng đóng cái vai chính, nhưng không phải là vai chính gian hùng mà là một vai chính anh hùng, "cứu thế độ nhơn"!
Vậy, anh chàng sóc To-bô-quy-lê đã tìm đến chỗ trú ẩn của nàng Ái Sa mà báo tin cho nàng hay rằng, trong đêm rồi, vị ái phi của nhà vua đã sinh hạ một đứa bé trai, và chính đứa bé đó mới đúng là nạn nhân chân chính "theo luật định" của con rồn! Nàng Ái Sa, với sự khôn ngoan của những người cùng khổ, không tin tưởng chút nào nơi cái việc "theo luật định" đó. Tuy nhiên, phải nói là nàng cũng có hy vọng ít nhiều, coi đó là một điềm triệu tốt...

Vào buổi rạng đông của ngày hôm đó, sau khi sinh hạ được vài giờ, nàng Ái Sa đã đứng lên tiếp tục cái công việc dẫn đi chăn đàn gia súc của mình, lý do để khỏi gây sự nghi ngờ cho mọi người lân cận. Đứa con trai của nàng đã ngủ say, nàng Ái Sa sắp sửa lên đường thì bỗng nghe có tiếng kêu cứu thảm thiết của một con khỉ cái, vốn là "bạn chồm xóm" của nàng và cũng như nàng, nó vừa sinh một chú khỉ con cách đây vài hôm. Nghe tiếng kêu cứu, nàng Ái Sa vội vàng chạy tới ; trước mắt nàng, con khỉ mẹ đang bị treo lơ lửng trên cao vì cái bẫy giật của phường săn ; cũng may là sợi thòng lọng chỉ quấn ngang lưng con khỉ mẹ nên nó không đến nỗi nghẹt thở mà chết. Chú khỉ con lúc này đang đứng dưới đất kêu gào, hai "chân trước" của nó vói lên phía bà mẹ một cách vô vọng. Thấy người lại nghĩ đến mình, nàng Ái Sa nghe lòng quặn đau khi chạnh tưởng đến cái lúc con trai mình, một mai rủi mà bị bắt đi làm vật hy sinh, thì cái tình cảnh của mẹ con nàng cũng sẽ thàm thiết như tình cảnh của cặp khỉ mẹ khỉ con trước mắt.

Vì vậy mà, không ngần ngại một giây, nàng Ái Sa đã vội vàng leo lên cây để gỡ cho con khỉ mẹ thoát khỏi sợi dây thòng lọng. Thoát hiểm, con khỉ mẹ bèn ẵm con dông tuốt. Nàng Ái Sa mỉm cười nhìn bóng dáng "mẹ con nhà khỉ" xa dần. Dĩ nhiên nàng đã không được trông thấy cái ánh mắt biết ơn của con khỉ mẹ trong một thoáng nhìn nàng, nhưng nàng thừa hiểu rằng một con thú, khác với một con người, bao giờ cũng biết ghi khắc một "công ơn".

Ba ngày trôi qua, ba ngày dài đằng đẵng như ba thế kỷ. Đến ngày thứ tư, lúc vừa ra khỏi khu rừng, nàng Ái Sa đã nhìn thấy một đám lính của nhà vua xuất hiện trước cái lều che tạm của nàng. Rồi thì, bọn lính bắt lấy đứa bé mang đi, trước đôi mắt khổ đau và tuyệt vọng của người mẹ!

Nàng Ái Sa, kinh hoàng tột độ, vừa chạy theo bọn lính vừa kêu khóc. Thì ra, một phụ nữ đi kiếm củi trong rừng đã nghe thấy tiếng khóc của con nàng, và bởi vì chị ta cũng đang chờ sinh một đứa con, chị ta đã không ngần ngại mà tố cáo Ái Sa với "người nhà nước". Phải, một người mẹ nào mà không làm như thế? Và gì ở đây, đứa con trai của nàng Ái Sa đã bị bắt đi, và người mẹ thì kinh hoàng chạy theo sau bọn lính mà kêu khóc.

Trong cái sào huyệt khoét sâu vào thân cây, anh chàng sóc "Tô bô quy lê" đưa mắt nhìn người mẹ khốn khổ đang hốt hoảng chạy theo sau đám lính, lòng những ước thầm phải chi mình biến thành một con sư tử để có thể "giữa đường thấy việc bất bằng..." (Chớ như bây giờ, trong thân phận của một con sóc nhỏ nhoi, "Tô bô quy lê" có bất bằng thì cũng đành chịu vậy, chớ biết làm sao bây giờ? Một con sóc, nó có thể nhìn thấy tất cả, nghe thấy tất cả, nhưng dù sao nó cũng chỉ là một con sóc mà thôi!)

Tuy nhiên không phải chỉ có một mình con sóc quan tâm đến tiếng khóc của nàng Ái Sa: cả con khỉ mẹ mà cách đây mấy hôm đã bị mắc bẫy trong rừng, cùng là mọi con thú rừng khác đang có mặt ở quanh đây, đều nghe rõ tiếng kêu khóc đó, và tất cả khu rừng đã đắm chìm trong một sự im lặng đầy cảm thương.

Tất cả họ hàng nhà "Tô-bô-quy-lê" đều lục tục rời khỏi sào huyệt của chúng để "ra nhóm hội đồng" bàn về việc cứu giúp người mẹ khốn khổ. Tiếng gọi của lũ quạ, những con thú rừng khác như là sài lang, hươu nai, chồn thỏ cũng đều tụ tập về một nơi trong cùng một mục đích.

Xúc động nhất là những con bọ rầy, từ lâu chúng vẫn đi theo đàn dê của nàng Ái Sa để kiếm ăn bằng những cục "tể" mà đàn dê không ngớt sản xuất rải rác trên các nẻo đường ; giờ đây, nghe tin dữ, chúng tung cánh bay vù vù giữa không gian, để rồi, quá xúc động, chúng buông mình rơi xuống đất, thân hình nằm ngửa quay tít như những con vụ của lũ trẻ trong làng!

Nhưng, những con bọ rầy, những con sóc, chúng có thể làm được gì để chống lại với sự hung bạo của con người? Mặc dù vậy, nàng Ái Sa vẫn chưa hoàn toàn tuyệt vọng, và nàng vẫn tiếp tục lê gót theo sau đám lính đã bắt con nàng, vừa đi vừa không ngớt khóc than kể kể.

Khi họ bọn lính và nàng Ái Sa về đến chỗ làng mạc đông người thì những lời than khóc của nàng Ái Sa trở nên... bất tiện. Bọn lính nhận ra điều này và chúng đã trói nàng lại, bỏ vào trong một cái cũi để ngăn cản không cho người mẹ phá hoại sự trọng thể trang nghiêm của cuộc lễ hiến dâng tế vật sắp cử hành.

Rạng sáng ngày hôm sau, những người có trách nhiệm trong việc hiến lễ cho con rồng mang đứa bé con nàng Ái sa lên đường đi vào vùng đồng cỏ để chờ đợi con rồng đến.

Về phần Ái Sa, nàng vẫn bị nhốt trong cái cũi. Trong lúc "đám rước" lên đường, nàng nghe những tiếng khóc thét của con nàng vẳng lại, như xé tim gan. Người mẹ khốn khổ tưởng chừng muốn phát điên, nàng vùng vẫy để cố thoát khỏi những vòng dây trói nhưng vô vọng.

Đang lúc đó bỗng Ái Sa nghe có tiếng sột soạt ngay dưới chân nàng, và đột nhiên từ dưới mặt đất, một cái mõm xinh xắn trồi lên, cái mõm của anh chàng "Tô bô quy lê" bé nhỏ mà hào hiệp. Tiếp theo anh chàng là cả một "đại đội" "Tô bô quy lê" lần lượt hiện thân để rồi, không để trễ một giây, họ bắt đầu dùng những hàm răng bén nhọn mà "tạo hóa đã ban cho" để khởi sự cái công cuộc giải thoát cho nàng Ái Sa khỏi những vòng dây trói. Tiếp theo, những "nhà giải phóng", vẫn bằng cách dùng hàm răng của họ, gậm nát cánh cửa cũi... Thế là chỉ trong chốc lát người mẹ khốn khổ đã được giải thoát hoàn toàn để có thể tự do lao mình chạy về phía đồng cỏ, nơi mà "người ta" đang sửa soạn dùng con nàng làm một vật hy sinh để đổi lấy sự "bình an công cộng" - mà trong đó dĩ nhiên không có nàng!

Ái Sa chạy nhanh như một con hươu cao cổ, nàng vừa chạy vừa kêu thét để mong cho tiếng kêu của mình, nhanh hơn cả nhịp bước chân, sẽ sớm lọt vào tai đứa con yêu để an ủi nó trước khi nó tắt thở lìa đời! Thực ra Ái sa có thể làm gì trước định mệnh khắt khe? Nàng lao mình trong một cuộc chạy "nhanh như một con hươu cao cổ" để làm chi, có mục đích gì, có ích lợi gì? Hiển nhiên là để chẳng làm gì được cả, trừ ra là để chết. Tuy nhiên, đó chính là cái sức mạnh của những con sóc và của những người mẹ: cả hai đều không một ai màng đến lý luận. Ái Sa đã không suy nghĩ gì cả, nàng chỉ việc lao mình chạy theo tiếng gọi của tình yêu, của bản năng, và không một cái gì có thể ngăn được bước chân nàng.

Vượt qua đám người đi dự kiến, trước khi đám người này kịp ngăn nàng lại, Ái Sa nhìn thấy con rồng vừa đúng lúc xuất hiện từ huyệt động của nó để tiến dần ra chỗ biên rừng thưa, nơi mà trên mặt cỏ xanh và trong ánh nắng vàng rực rỡ, miếng mồi ngon một đứa trẻ sơ sinh đang chờ đợi nó, tay chân không ngớt ngo ngoe trong lúc đôi môi nhỏ xinh xinh thì nở nụ cười. Thì ra, hơi ấm của mặt trời đã làm chú bé khoái chí ; vả chăng, chú bé với cái tuổi sơ sinh của chú, chú đâu có biết sợ là gì!

Con rồng vẫn từ từ tiến tới. Đó là, theo lời thần thoại, một con thú kinh khủng nhất trần gian, nhưng lại mang trên trán một hạt kim cương rực rỡ.

Nhưng đúng vào lúc con rồng tới sát bên chú bé sơ sinh và há cái họng khổng lồ ra để sửa soạn nuốt
chửng lấy chú thì một con khỉ từ trên một đỉnh cây đã nhanh như cắt phóng xuống, bắn mình tới như một mũi tên mà chụp lấy chú bé, đoạn, vẫn như một mũi tên, phóng mất hút vào rừng rậm.

Ái Sa đã kịp nhận ra vị cứu tinh đó chính là con khỉ cái mắc bẫy mà nàng đã ra tay cứu nạn vào mấy hôm trước. Không trì hoãn một giây, nàng vội băng mình chạy theo.

Biến cố trên đã diễn ra bất ngờ trong chớp mắt đến nỗi những người hiện diện đã không kịp suy nghĩ hay phản ứng gì. Vả chăng dù có muốn gì cũng không kịp nữa, vì con rồng, bị mất mồi ngon nên nổi giận lên thực sự. Quên phắt lời giao kết, nó hùng hổ nhào đại tới đám đông trước mặt... Những kẻ sống sót sau này kể lại nó đã nuốt chửng một lúc luôn mười hai mạng người.

Những vị phù thủy, được hỏi ý kiến, đã tuyên bố rằng cơn giận dữ của con rồng là do từ việc người ta đã tráo đứa trẻ sơ sinh mà Định Mệnh đã chọn sẵn bằng một hài nhi khác. Trước đây mọi người đã không thèm nghĩ đến điều này ; sự đau khổ của Ái Sa cũng như lời tố cáo của nàng đã không được một ai để vào mắt, vào tai. Nhưng bây giờ... tình thế đã đổi khác: con rồng khủng khiếpvô địch đã nổi giận, nó đã nuốt chửng một lúc mười hai mạng người (và trong số đó, có cả hai vị quan chức của nhà vua). Một sự lo sợ đã bắt đầu xâm chiếm toàn thể chúng dân. Khắp nơi thiên hạ tụ họp bàn tán về việc nhà vua đã hành động man trá, giấu giếm cái ngày sinh thực của con trai mình để bắt một đứa trẻ khác phải chịu chết thay! Sự bất bình và bất mãn của chúng dân đã tăng lên đến một cái độ mà cuối cùng, lo sợ một cuộc nổi dậy lật đổ ngai vàng, nhà vua đành phải đem đứa con "nối dõi tông đường" của mình ra hiến cho con rồng theo đúng lời cam kết xưa kia của tiền nhân.

Nhiều năm tháng trôi qua kể từ khi vị quốc vương trong chuyện phải hy sinh con mình làm lễ tế vật.

Ngoài vị hoàng tử sơ sinh và yểu mệnh nhà vua nói trên còn có một ái nữ, và nàng công chúa này, mỗi ngày mỗi lớn mỗi xinh đẹp, đã là nguồn an ủi duy nhất trong cảnh đời chiều cô đơn và phiền muộn của vị vua già.

Nàng công chúa chẳng bao lâu đã đến tuổi cặp kê ; bốn phương, những trang anh hùng hào kiệt bắt đầu dệt mộng sẽ chiếm được trái tim của nàng, con đường dẫn đến hạnh phúc và vinh quang tột đỉnh.

Trước tình hình đó, vị vua già nghĩ rằng đã đến lúc để mình có thể triệt hạ được con rồng, kẻ thù sát hại cậu con trai yêu quý. Việc trả thù này có thể thành hay bại, nhưng trong trường hợp nào thì ông cũng không mất gì cả ; ông chỉ việc khích lệ những tay trai tráng khỏe mạnh đang si tình nàng công chúa ái nữ của ông bằng cách ra điều kiện cho họ hễ ai giết được con rồng hung ác thì sẽ được chấp thuận ngôi phò mã, thế thôi. Như vậy, nếu những tay trai tráng kia thất bại trong việc chiến đấu với con rồng thì chính họ sẽ phải tự trả lấy cái giá của sự tham vọng bằng cái chết, tuyệt nhiên nhà vua chẳng mất mát gì ; bằng như một người trong bọn họ thắng, kẻ đó đương nhiên, với một tài vũ dũng phi thường như thế, cũng rất xứng đáng để "phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cỡi rồng" với con ông!

Nghĩ là làm, vị vua già bèn bố cáo cho "anh hùng thiên hạ" rõ.

Từ nhiều năm nay, chưa một dũng sĩ nào dám có ý nghĩ lâm chiến với con rồng, một con vật khổng lồ và vô địch của trần gian. Nhưng kể từ ngày bố cáo được ban ra, theo với tháng ngày, nơi đồng cỏ trước sào huyệt của ác long, xương trắng của những "vị anh hùng" đã dần dà chất cao thành đống. (Thành đống, chứ thành núi thì hơi quá!) Rất nhiều người đã chết kể từ khi cái bố cáo ác nghiệt của nhà vua ban ra, chết không phải hoặc cho một lý tưởng giúp nước giúp dân mà chỉ vì, chỉ cho một giấc mộng ái tình va vinh quang hư ảo.

Nhưng cái đống xương trắng đó, những cái chết dồn dập của những chàng dũng sĩ khắp bốn phương đó không hề ngăn cản hay làm nản lòng nổi những người còn sống. Hàng ngày, như thiêu thân tìm đến đâm đầu vào lửa, vẫn có mãi, có mãi những "người sống" những chàng trai khỏe mạnh tìm đến vùng đồng cỏ để chết cho một đôi mắt của một giai nhân và ảo ảnh của một ngai vàng. Cứ thế và cứ thế...

*

Trở lại với người mẹ nghèo nàn và bất hạnh: Ái Sa. Từ khi nhờ được con khỉ cái liều thân cứu được đứa con yêu thoát khỏi nanh vuốt của con rồng, lo sợ một sự trả thù của chính nhà vua, Ái Sa đã trốn biệt vào vùng sơn cước Mộ-la-hoa thâm sâu bí hiểm, nơi đó nàng sống những tháng ngày an vui bình dị với "chú bé" con nàng.

Anh chàng sóc hào hiệp "Tô bô quy lê" đã dẫn Ái Sa lên tận đỉnh của một ngọn núi cao thật là cao trên đó có một "vuông" cỏ xanh kỳ diệu luôn luôn tươi tốt vì sương mát của ban đêm và ánh mặt trời của ban ngày.

Những con chim điêu đen và trắng luôn luôn đỗ cánh nơi đó và, không biết vô tình hay hữu ý, đã để lại nơi chúng đỗ cánh những con mồi ngon lành của chúng: những con cừu, những con thỏ... tóm lại là đủ thứ thịt rừng. Về phần những con khỉ, vốn là bạn chí thiết của Ái Sa, dĩ nhiên chúng không thể quên nàng: hàng ngày, luân phiên, chúng "trèo non lội suối" đem đến cho mẹ con nàng những trái cây thơm ngọt, những nải chuối vàng óng ả, những trái mận đỏ hồng ngát thơm... tóm lại là không thiếu một thức hoa quả nào.

Giữa lòng của cái thế giới sơn cước "dã man" mà đầm ấm mà chan chưa tình thương yêu đó chú bé của ngày nào đã lớn lên, mỗi ngày một khôi ngô, khỏe mạnh. Như chú "thạch hầu" (trong truyện Tây du) đã hấp thụ khí thiêng của trời đất chú bé của chúng ta đã hấp thụ khí thiêng của trời đất (và nuôi dưỡng bằng thịt rừng và hoa quả của đám cầm thú anh em nữa chứ!) mà lớn dần lên, chẳng mấy chốc đã trở thành một trang dũng sĩ "mạnh như sư tử và đẹp như thiên thần".

Sống trong cái thế giới "dã man" và đầm ấm đó, chú bé đã học được một bài học lớn: bài học của tình thương của loài vật: những con thú, những con chim... tuy không biết nói cái ngôn ngữ màu mè hoa gấm như loài người, tuy không biết làm điệu làm bộ như loài người, song lại rất biết thế nào là tình tương thân và lòng trung tín. Vả lại, dưới mắt chú bé, chúng - những con thú con cầm ấy - lại đẹp vô cùng, một cái đẹp lành mạnh, tự nhiên và chân thật. Hãy ngó mà coi: con voi kia với "cái vòi đi trước", cặp ngà nó mới hùng dũng làm sao ; bốn chân nó trông oai mạnh và trang nghiêm như gốc cổ thụ đầu non thi gan cùng sương gió. Lại còn cái đuôi của nó nữa chớ, vắt va vắt vẻo theo nhịp đi, trông tinh nghịch quá chừng! Và con ngựa (ngựa rừng)! Chú bé tự nhủ, thực trên "thế gian" này không có con vật nào đẹp bằng con ngựa! Đẹp từ cái bờm, đẹp chí cái đuôi...

Tóm lại, dưới mắt chú bé, mọi con thú con cầm đều đẹp cả. Chẳng những con công con trĩ là đẹp, mà cả con bọ rầy tròn tròn be bé xinh xinh kia nữa, nó cũng có vẻ đẹp riêng của nó, một vẻ đẹp ngộ nghĩnh lạ lùng! Và chú bé đã mở rộng trái tim, mở rộng tâm hồn để yêu hết thảy những con vật đó, coi chúng như anh em đồng loại ; và cũng vì yêu chúng và coi chúng là anh em đồng loại, chú bé đã tập nói tiếng nói của chúng, một thứ tiếng nói thô sơ giản dị nhưng được cái chân thật, không ba hoa lươn lẹo, không phù thủy hoang đường (như cái thứ tiếng nói của con người chẳng hạn!)

Theo với tầm tuổi mỗi ngày một lớn, bước chân của chú bé (thực ra bây giờ chú bé đã là một thiếu niên rồi) mỗi ngày một len lỏi đi xa khỏi "trung tâm" của cái thế giới hoang sơ chưa từng có dấu chân người mà ngày xưa người bạn sóc "Tô bô quy lê" đã dẫn mẹ con Ái Sa tới cư ngụ. Mẹ chú bé đã không ngớt căn dặn chú đừng có đi xa mà hãy luôn luôn ở nguyên trong vùng sơn cước dưới sự che chở của "thần Dị linh" song chẳng hiểu một bản năng nào đã không ngừng thúc đẩy chú, khiến bước chân chú cứ vô tình hướng về vùng đồng nội, nơi mà "bọn đồng loại chân thực" của chú đang sống một đời sống "vừa đầy nụ cười nhưng cũng vừa đầy nước mắt", cuộc sống của con người.


Một hôm, chú thiếu niên đi xa tới nỗi chú đã bắt gặp cái mà định mệnh dường như thế đã muốn cho chú bắt gặp trên đường đời của chú: những tiếng cười, những tiếng cười thánh thót và trong trẻo, nghe như tiếng suối reo thông hát vậy, những tiếng cười mà suốt đời chú thiếu niên chưa bao giờ nghe thấy. Như tiếng con chim sáo xanh lảnh lót ca dưới ánh mặt trời buổi sớm, những tiếng cười vọng vào tai chú gợi dậy trong lòng chú một nỗi niềm gì thật xao xuyến và u hoài khôn tả. Bàng hoàng xúc động, chú thiếu niên vội dừng chân lại, và đứng run run trong bụi rậm, chú lặng thinh chờ đợi, không biết chờ đợi cái gì. Cuối cùng, cái mà chú chờ đợi đã hiện ra: đó là một bầy thiếu nữ (mà, dĩ nhiên, chú không biết đó là thiếu nữ), trong số đó, đúng theo lời thần thoại kể có một nàng... đẹp "tợ tiên nga" đã "đập" vào mắt chú, như... một "tiếng sét ái tình".

"Nàng tiên nga" đó, theo lời thần thoại, chính là nàng công chúa ái nữ của "vị vua già".

Kể từ đó, như nước chảy về nguồn vậy, Huy Sinh (vì chú thiếu niên tên là Huy Sinh) đã mặc nhiên trở lại thế giới của loài người ít ra thì cũng trong phần tình cảm. Những con thú, chúng đẹp thực, chúng dễ thương thực, nhưng dù sao thì chúng cũng chỉ là những con thú. Còn nàng...

Bằng cách nào mà Huy Sinh tìm hiểu được về cái điều kiện để khiến cho chàng có thể xứng đáng với tình yêu của nàng: không biết được (vì thần thoại không nói tới). Chỉ biết là Huy Sinh đã biết thế thôi.

Đồng thời, Huy Sinh cũng được biết rằng nhà vua đã thề sẽ báo thù cho cái chết của con trai ông, không những báo thù qua con rồng mà còn báo thù qua đứa con của nàng Ái Sa nữa, với lý do là chính vì đứa bé này được cứu sống mà con ông phải chết. Mà đứa bé con nàng Ái sa lại không ai khác hơn là Huy Sinh! Như vậy, giữa khoảng cách từ nàng tới Huy Sinh còn có tới hai chướng ngại vật: một chướng ngại vật là con rồng hung bạo, một chướng ngại vật là mối hận thù vô lý của vị vua già!

Tuy nhiên, Huy Sinh không phải là người mà chướng ngại vật có thể ngăn cản bước chân đi tới được. Trái lại, những chướng ngại chỉ thêm thôi thúc lòng can đảm và chí phấn đấu của chàng.

Đúng theo thủ tục, trước tiên, Huy Sinh tìm vào bái yết nhà vua để tỏ bày ý định. Nhưng, mặc dù không biết chàng là ai, nhà vua đã tiếp chàng không mấy niềm nở, căn cứ vào bộ mặt trẻ thơ cũng như bộ quần áo rách rưới của chàng.

Nhà vua khinh thị hỏi:

- Ngươi là ai mà táo gan dám tưởng tượng là mình có thể thành công nổi trong việc hạ sát con ác long, một  việc mà cả hàng trăm anh hùng trong thiên hạ đã không ai làm nổi?

- Tâu bệ hạ, thần là một mục đồng.

- Nhưng tên họ ngươi là gì? Nhà của ngươi ở đâu mới được chớ?

- Tâu bệ hạ, tên thần là Huy Sinh và thần không có nhà cửa chi cả: từ lâu, thần sống trong rừng.

Vị vua già hỏi bằng giọng nửa đùa cợt nửa nghi ngờ:

- Mẹ ngươi có phải là một con khỉ cái không đó?

Chàng thiếu niên thừa khôn ngoan để biết câu hỏi của vị vua già là một cái bẫy. Chàng bình tĩnh đáp:

- Tâu bệ hạ, một đứa con hiếu thảo không có quyền hổ thẹn về mẹ nó, dù cho mẹ nó có là một con khỉ đi chăng nữa! Nếu, dưới mắt bệ hạ, thần có xấu xí như một con khỉ thì bệ hạ cứ mặc tình mà cười, riêng thần thì thần chẳng lấy thế làm hổ thẹn!

- Ngươi vừa nói là ngươi sống ở trong rừng, vậy chẳng hay ngươi có bao giờ nghe nói tới một đứa bé ngày xưa đã bị một con khỉ cái bắt đi đem giấu giữa rừng sâu chăng?

- Thần đến đây với mục đích giúp bệ hạ diệt trừ con ác long. Bệ hạ có cần thần trong công việc ấy không, thế là đủ ; còn những câu hỏi khác thì không quan hệ đến thần!

Vị quốc vương, trước câu trả lời rắn rỏi và dứt khoát của Huy Sinh đã không mở miệng vào đâu được nữa. Chung quanh ông ta lúc này đang có mặt nhiều viên quan lại của triều đình và ông ta không muốn cho họ nhìn thấu nỗi lòng mình, đã nghĩ đến việc tư thù hơn là việc lợi ích chung của quốc gia ; tuy nhiên, trong sâu lòng, vị quốc vương đã tự hứa rồi đây sẽ phanh phui cho rõ xem thằng bé rách rưới trước mặt mình là ai, nếu "rủi ro" (vì biết đâu đấy) mà nó sẽ thắng trong trận đấu với con rồng.

Người ta trao cho Huy Sinh một  cây lao nhọn và một chiếc mộc bằng da tê giác và chàng tuổi trẻ này lên đường ra đi, chẳng bao lâu đã rời xa hoàng thành để tiến sâu vào vùng nội cỏ.

Những anh chàng "Tô bô quy lê" nhỏ bé và hào hiệp đang đợi chàng trên đường. Một trong đám lên tiếng hỏi:

- Huy Sinh, cậu đi đâu với những vũ khí đó?

- Chào anh, tôi đi đánh nhau với con rồng.

- Hừ, hừ, cậu định hạ con rồng với cái lao vô dụng đó thực ư? Cậu không biết rằng con rồng địch thủ của cậu mang trên trán một hạt kim cương đã làm cho thân thể nó hóa thành cứng rắn như gang thép hay sao? Cái lao trên tay cậu thì làm gì nổi nó? Này Huy Sinh, cậu hãy nghe đây: nếu người ta có thể lấy được hạt kim cương trên trán con rồng thì... chẳng qua con rồng vô địch cũng chỉ là một con cóc khổng lồ không hơn không kém! Vấn đề là làm sao lấy được hạt kim cương... Cậu Huy Sinh, cậu nghe rõ chứ: vấn đề là làm sao lấy được hạt kim cương...

- Nhưng làm sao mà lấy được hạt kim cương, hở anh "Tô bô quy lê" thân mến?

- Khi nào con rồng đi tắm, nó sẽ đặt hạt kim cương lên bờ...

Một con bọ rầy to lớn đã nghe lọt câu trả lời của "Tô bô quy lê" trong khi nó đang cặm cụi ủi một hòn đất lên bờ dốc ; nhưng việc làm của nó cũng cỡ như việc làm của một con dã tràng xe cát, bởi vì bờ dốc thì cao, hòn đất thì nặng, và con bọ rầy cứ thế mà trèo lên tụt xuống đôi ba lần, dưới mắt chàng trai trẻ Huy Sinh.

Vốn thương yêu loài vật, Huy Sinh thông cảm cảnh khó khăn của con bọ rầy, ch2ng bèn mỉm cười cúi xuống, dùng ngón tay hất hòn đất lên hộ. Trước sự giúp đỡ của chàng, con bọ rầy vẫn không tỏ vẻ gì cả, nó thản nhiên tiếp tục con đường và việc làm của nó, coi "sự can thiệp" đó như là một sự tự nhiên. Mọi con vật, chúng khác với con người, chúng đều như thế đấy: chúng không ngạc nhiên gì cả, coi tất cả đều là sự tự nhiên của cuộc đời.

Và cả Huy Sinh cũng vậy, chàng coi đó là một sự tự nhiên.

Sau khi chào anh bạn "Tô bô quy lê" hào hiệp và minh triết, chàng tiếp tục lên đường.

Mặc dù suốt đời chỉ sống với loài vật, Huy Sinh thừa sự minh triết bẩm sinh để hiểu rằng điều kiện của sự thành công là thận trọng. Chàng sẽ chỉ ra mặt tấn công con rồng chừng nào đã chiếm được hạt kim cương ; bằng ngược lại, chàng sẽ... không bao giờ...

Ừ, làm cách nào để chiếm được hạt kim cương? Cái khó là ở đó.

Núp trong một chỗ kín, với muôn ngàn thận trọng và kiên nhẫn Huy Sinh lặng lẽ chờ...

*

Vị quốc vương đã cho Huy Sinh một cái hạn mười ngày để thử vận may của chàng ; đến ngày thứ mười, vào đúng nửa đêm cuộc giao ước sẽ không còn giá trị.

Thế mà, lật bật, tám ngày đã trôi qua! Từ một chỗ nấp kín đáo cách không xa sào huyệt con rồng, Huy Sinh đã tê tái trong lòng mà nhìn ánh bình minh của ngày thứ chín hiện ra từ chân trời ở phương Đông. Mặc dù đã tập được tính kiên nhẫn của những con thú rừng song trước một sự thất bại đã hầu như rõ ràng, Huy Sinh không thể không cảm thấy nôn nao và rầu rĩ. Chỉ còn một ngày nữa thôi và thời hạn mà vị quốc vương đã giao ước với chàng sẽ hết ; chừng đó, giấc mộng sánh vai người đẹp sẽ vĩnh viễn tan tành: phải chứ, Huy Sinh không rầu rĩ làm sao được chứ...

Song đột nhiên, giữa một cơn im lặng kéo dài đã từ nhiều ngày qua một triều tiếng động bỗng nổi lên: khắp bốn chung quanh, trên mặt đất, bỗng dậy lên những tiếng bước chân tán loạn. Ngước mắt nhìn, Huy Sinh ngạc nhiên mà trông thấy vô số những sơn dương, những hươu nai đang tung mình bỏ chạy... Thì ra, con ác long mà từ lâu Huy Sinh chờ đợi đã chuyển mình rời khỏi sào huyệt của nó, đang từ từ tiến ra phía bờ sông...

Giây phút chờ đợi đã tới!

Từ chỗ núp, Huy Sinh mở lớn đôi mắt đăm đăm nhìn địch thủ. Quả nhiên, đúng như lời To-bô-quy-lê đã nói: trước khi đầm mình xuống nước, con ác long đã tự dùng một chân trước gỡ lấy hạt kim cương trên trán xuống, cẩn thận đặt trên bờ.

Từ chỗ Huy Sinh núp đến chỗ con ác long đặt hạt kim cương, chỉ cách nhau chừng đôi con sào: nếu phóng nhanh, chàng trẻ tuổi sẽ có thể đoạt lấy hạt kim cương trong chớp mắt

Song le, vốn đa nghi và thận trọng, con ác long đã chỉ lội xuống sông một quãng ngắn, cách bờ chưa tới một con sào. Chẳng những thế, một khi vừa lội xuống, nó còn quay ngay đầu lại, mắt nhìn chăm chăm vào hạt kim cương!

Trước tình thế đó, Huy Sinh chỉ còn một nước  nhăn mặt thở dài... ngỡ rằng mọi hy vọng... đã tiêu tan! Nhưng không, vì đúng lúc đó, một biến cố một "phép lạ" đã xẩy ra: không hiểu được vì nguyên nhân duyên cớ nào, đùng một cái, con quái vật bỗng rống lên một tiếng kinh hoàng rồi... co giò bỏ chạy.

Việc gì đã xẩy ra?

Chàng tuổi trẻ đứng lặng người, sửng sốt mất giây lâu. Đột nhiên, chàng nghe một ngón tay đau nhói. Cúi mắt nhìn, Huy Sinh trông thấy một con bọ rầy đang bám lấy tay mình, dương cặp càng to tướng... Thoáng một cái, Huy Sinh đã nhận ra con bọ rầy trước mắt chính là con bọ rầy mà cách đây mươi bữa chàng đã gặp, trên đường đi tới vùng đồng cỏ, khi đang trò chuyện với anh chàng "Tô-bô-quy-lê". Lúc đó chú bọ rầy này đang lăn một cục đất lên bờ dốc...

Thì bây giờ cũng vậy, con bọ rầy cũng đang ôm một cục đất trong bốn  cái chân mỏng như que tăm của nó. Vốn là "người anh em" của loài vật, Huy Sinh hiểu ngay ra ý của con bọ rầy: thì ra nó đã đem đến một viên đất để tặng chàng... làm kỷ niệm. Rõ ràng là nó muốn đền ơn, đền cái ơn chàng đã giúp nó đem cục đất lên dốc trước kia!

Dù đang ở trong cơn sửng sốt Huy Sinh vẫn còn đủ sáng suốt để mà nhận ra cái "giá trị thâm tình" nơi tặng phẩm hòn đất của con vật bé nhỏ và chàng đã vui vẻ mở rộng lòng bàn tay để nhận lấy nó, đôi mắt rưng rưng vì cảm động.

Con bọ rầy trao tặng phẩm xong, vù cánh bay mất.

Huy Sinh không nỡ vất bỏ hòn đất mà con bọ rầy vừa đem tặng, chàng âu yếm bỏ vào túi áo.

Chẳng bao lâu đêm đã tới. Trong lúc vạn vật đã đi vào giấc ngủ thì, bên bờ sông cạnh sào huyệt của con rồng, Huy Sinh ngồi một mình trong bóng tối dạ rối như bòng bong. Sáng hôm nay, trước mắt chàng, con quái vật đang tắm bỗng rống lên rồi bỏ chạy về sào huyệt. Huy Sinh suy nghĩ mãi mà không sao hiểu được về diễn biến này.

Tuy nhiên điều quan trọng hơn hết là chàng đã không cướp được hạt kim cương như ý định, và như vậy, chàng sẽ không bao giờ còn hy vọng sẽ thắng được con quái vật để...

Trong cơn rầu rĩ, Huy Sinh lại nhớ đến con bọ rầy. Và tự nhiên chàng thò tay vào túi móc lấy hòn đất  ra... Đó là một hòn đất sét được vo tròn trặn như một trái nhãn, trái mù u. Cầm hòn đất trong tay mân mê một lúc chàng tự bảo:

- Thôi, thế là tiêu tan mộng đẹp! Có lẽ duyên phận giữa nàng và ta không có, ta nên trở về với mẹ và với những người bạn thú cầm thì hơn...

Nghĩ đến nỗi phải mãi mãi xa "nàng", Huy Sinh nghe đau nhói trong lòng. Bất giác, bàn tay đang cầm hòn đất của chàng bóp mạnh.

Trong bóng tối, hòn đất vô tình bị bóp nứt, đột nhiên lóe sáng ngời.

Thì ra, hạt kim cương trân quý của con rồng nằm giữa hòn đất đó.

Thì ra, để trả ơn chàng tuổi trẻ, con bọ rầy đã dùng đất sét bọc hạt kim cương lại, vo tròn một cục mà trao cho chàng!

Dĩ nhiên không nói thì chúng ta cũng có thể đoán biết là, liền khi đó, chàng tuổi trẻ đã rời ngay chỗ núp, xông pha vào tận hang ổ con rồng ; một khi đã bị cướp mất hạt kim cương, con rồng sẽ chỉ còn là một con cóc khổng lồ, không hơn không kém! Chính "người bạn Tô-bô-quy-lê" đã nói cho chàng hay như vậy, và dĩ nhiên lời "Tô-bô-quy-lê" đã nói ắt không sai!

Mà, "Tô-bô-quy-lê" nói không sai thực: con ác long, một khi mất ngọc, giờ đây chỉ còn là một con cóc, không phải là một con cóc sống mà là một con cóc... chết.

Thì ra, một khi mất ngọc, con ác long vùng chạy về sào huyệt, để rồi, tiêu tan sinh lực, nó chết nhăn răng ra một cách thảm hại, chẳng khác nào như một lão hôn quân khi đã mất ngai vàng!

Thì ra, con ác long này cũng y như mọi lão hôn quân vậy: một khi mất hạt kim cương, một khi mất ngai vàng, chúng sẽ chỉ hiện thân là một con cóc chết mà thôi!

Giờ đây, việc triệt hạ con rồng đã xong, Huy Sinh chỉ còn việc trở về triều để... gặp nàng công chúa. Dĩ nhiên là chàng đi nhanh như ngựa phi vậy, chẳng thế mà chỉ trong khoảnh khắc người ta đã thấy chàng bệ kiến trước ngai vàng trong tay "thủ" chắc hạt kim cương của con rồng thần thoại.

Nhưng vị quốc vương đã sắp đặt sẵn nước cờ. Bằng một đạo quân hùng hậu, ông ta đã cho bắt được nàng Ái Sa giam sẵn trong ngục để chờ... chàng trai chiến thắng. Nhìn thấy mẹ, tiều tụy trong gông xiềng, Huy Sinh vội vàng chạy tới ôm lấy người, khóc rống lên. Vị quốc vương chỉ chờ chừng đó. Ông ta trừng mắt nói:

- À, thế ra ngươi chính là kẻ mà ta đã tìm kiếm lâu nay. Ngươi là kẻ thù của ta, chính vì ngươi mà con trai ta đã chết...

Huy Sinh, bằng một giọng bình tĩnh và chân thành, đáp:

- Tâu bệ hạ, thần không phải là kẻ thù đã làm con trai bệ hạ chết ; trái lại, thần sẽ là người thay thế con trai bệ hạ để nối tiếp dòng dõi của ngài!

Vị quốc vương sắp sửa nổi trận lôi đình (và những cơn lôi đình của một vị quốc vương thì kinh khủng lắm ; vì những kẻ đã có gan chọc giận tới đức quân vương thì có mong giữ được cái đầu trên cần cổ bao giờ) thì ông ta chợt nghĩ đến hạt kim cương. Phải, trước khi giết hay tha, phải nghĩ đến việc chiếm lấy hạt kim cương đã chớ!

Với ánh mắt giảo hoạt, vị quốc vương phán:

- Nếu vậy ngươi hãy tỏ lòng trung thành bằng cách dâng cho trẫm hạt kim cương!

Huy Sinh vâng lệnh tức khắc.

Vị quốc vương chụp lấy hạt kim cương và liền đó hạt kim cương xẹt ra một luồng hơi vàng sậm, nóng bỏng như luồng hơi từ núi lửa phun ra. Vị quốc vương lảo đảo rồi té ngửa... Hạt kim cương phải chăng có chứa một chất độc ghê gớm? Hoặc giả quyền lực của nó quá mạnh đối với linh hồn của một lão vua già hèn mọn? Chỉ biết vị quốc vương đã tắt thở, lìa đời.

Thần dân xứ Yến phỉ thi, nhìn thấy trước mắt cái chết bất thần của nhà vua mà họ coi như là sự thực hiện của một phép mầu, đồng thanh tôn chàng tuổi trẻ lên ngôi báu.

Người ta kể rằng ngay khi đó, Huy Sinh đã ném hạt kim cương xuống sông để chỉ giữ nàng công chúa "đẹp tợ tiên nga" làm viên ngọc duy nhất của đời chàng. Việc đó có thể là sự thực, bằng cớ là trăm họ đã sống an lạc thái bình trong suốt triều đại của quốc vương Huy Sinh.

Tuy nhiên, cái hạt kim cương bị ném xuống sông đó, nó có chìm hay không thì điều đó hãy còn là nghi vấn: chẳng là từ ấy đến nay, cứ nhìn vào những nỗi khổ của chúng dân trải qua bao thời đại, người ta cũng có thể kết luận rằng hạt kim cương đó vẫn còn là sở hữu vật của vô số ác long cũng như bạo chúa ở trên đời!


2-6-1970                          
TRỤ VŨ                          
(thuật theo truyện thần thoại Phi châu)


(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 135, ra ngày 15-8-1970)

oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>