Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

CHƯƠNG 9, 10, 11_BÊN HÀNG GIẬU

9
 
 
Tôi nằm dài trên bãi cát, bên cạnh Thủy, cô em họ. Thân thể tôi đón từng đợt nắng hồng tươi mơn man dễ thương một cách lạ lùng. Hôm nay là ngày thứ bảy chúng tôi ở Vũng Tàu.
 
Ba tôi đã quyết định cho tôi đi nghỉ mát để lấy lại vẻ khỏe mạnh mà sau hơn nửa tháng miệt mài viết lách, tôi đã xanh xao hẳn đi, hầu như tôi không thấy được ánh sáng mặt trời. Mùa hè vẫn còn trên sóng nước trong xanh, trên những làn cát mịn. Tôi đùa với nắng, với nước như một đứa trẻ vô tư. Tiếng cười của tôi hòa tan trong gió đại dương lồng lộng.
 
Đôi khi, tôi nằm cả nửa giờ không nói câu nào. Những lúc đó, Thủy thường trêu tôi là nữ sĩ hay mơ mộng. Tôi chỉ mỉm cười, không cải chính mà cũng không xác nhận những ý tưởng của mình.
 
Thật ra, tôi đang nghĩ đến những thành công mà cuốn sách đã mang lại cho tôi. Sự thành công không phải là vấn đề tiền bạc, mà là về tinh thần. Cuốn tiểu thuyết của tôi đã được gởi biếu bạn bè, những người thân, và tôi đã nhận được những lời khen ngợi hết sức nồng nhiệt. “Uyên, mày đã thành công rồi đó. Mày viết thật hay, thật lôi cuốn. Tao thành thật chúc mừng mày… “ – “Thật mình không ngờ một người bạn học của mình lại có thể trở thành một nữ văn sĩ với tác phẩm đầu tay đang nằm trên bàn mình kia. Uyên, mình đã đọc sách của bồ một cách say mê”… Đại loại đó là những lá thư mà tôi nhận được. Tâm hồn tôi sôi lên trong niềm hạnh phúc triền miên. “Mình đã là một nữ văn sĩ”. Tôi muốn reo lên cho sóng biển nghe được sự sảng khoái của mình. Tôi muốn mọi người chia sớt niềm vui với tôi, và trên bãi biển, tôi là cô gái cười nhiều nhất và cười tươi nhất với… tất cả mọi người.
 
Nhiều lúc, tôi tha thiết ao ước rằng, vú già có đâu đây để tôi hỏi vú “Có ai đến tìm tôi không, tìm nữ văn sĩ Ý Yên không ?” Tôi muốn được nhiều người biết cái tên mới của tôi. “Ý Yên ! Tên hay đấy chứ ! Hẳn là một cái tên định mệnh ! Định mệnh đã dành cho tôi cái tên đó và định mệnh sẽ làm nổi bật cái tên ấy lên… nhất định thế !”
 
Sự thành công đã đến mà tôi không ngờ. Trong niềm thoải mái đó, tôi quyết định ở lại Vũng Tàu thêm một tuần lễ nữa.
 
Khi tôi trở lại Đà Lạt, ba tôi đã có dịp phải đi Qui Nhơn. Chỉ có vú già ở nhà. Vú ôm chầm lấy tôi, mếu máo :
 
- Con đi lâu quá. Nhà thật hoang vắng, Uyên ạ.
 
Tôi vỗ về :
 
- Thôi con không đi nữa. Nhưng con cảm thấy mệt quá. Vú xem, con đã làm việc…
 
Vú già ngắt lời tôi :
 
- Vú hiểu. Vú có trách con đâu. Con làm việc nhiều và con cần phải nghỉ ngơi chứ. Nào, đứng yên cho vú ngắm nhìn con chút xíu coi. Chà, da ăn nắng sạm lại rồi, coi con khỏe mạnh lắm. Vú mừng.
 
Tôi nôn nóng :
 
- Ở nhà có ai đến tìm con không hở vú ?
 
- Tìm con thì không ai tìm. Nhưng có mấy lá thư.
 
Tôi reo lên :
 
- Thế hở vú ? Vú để đâu rồi ? !
 
- Trong hộc bàn của con.
 
Tôi buông vú già, chạy nhanh vào phòng bằng tâm trí thật rộn ràng. Hai chiếc phong bì màu xanh nằm trong hộc bàn. Tôi cầm lấy chúng vuốt ve một cách trìu mến. Tôi xé lá thư thứ nhất.
 
Đó là thư của ông Quý, chủ nhà xuất bản, là ông bạn của ba tôi, người đã xuất bản “Cái vạc của con quỷ” cho tôi. Ông ta tính phí tổn việc in sách. Tôi hơi buồn, gấp bức thư lại quẳng vào hộc và tự nhủ sẽ không đụng đến một đồng nào tiền bán sách.
 
Tôi xé nốt bức thư thứ hai. Thư ngắn, chỉ năm hàng, nhưng không dễ thương chút nào. Tác giả bức thư phê bình “Cái vạc của con quỷ” là “một truyện dở, từ cốt truyện đến lối hành văn”. Tôi lịm đi trong nỗi bực tức một hồi lâu.
 
Nhưng rồi tôi gượng dậy được. Tôi vùng đứng lên tự an ủi : “Đây đâu phải là lá thư thứ nhất, và đâu phải cuốn sách của mình chỉ được một người không biết chút gì là văn chương đọc !”
 
Buổi chiều, khi tôi đang đứng nói chuyện với chú Sỹ bên hàng giậu, thì vú già lại mang đến cho tôi một bức thư nữa. Lần này tôi e dè hơn khi tiếp nhận. Chú Sỹ nhìn tôi :
 
- Chắc là thư của độc giả ?
 
Tôi chậm chạp xé phong bì. Những giòng chữ mực đen như nhòa nhạt trước mắt tôi…
 
“Tuần này chúng tôi vô tình đọc được cuốn tiểu thuyết mang tựa đề “Cái vạc của con quỷ” của tác giả Ý Yên. Chúng tôi không hiểu tại sao người ta lại có can đảm xuất bản một cuốn tiểu thuyết tồi tệ như vậy ? !... “
 
Tôi hoa mắt, không đọc tiếp được nữa. Tôi nhìn vú già bằng tia nhìn hằn học :
 
- Sao vú đưa thư này cho con ? Hả ? Sao vú ác thế ?
 
Vú già không hiểu gì cả, ấp úng :
 
- Thư của con…
 
Tôi gào lên :
 
- Không, không phải. Người ta sỉ mạ con. Vú cũng thế. Vú…
 
Vú già hoảng hồn. Chú Sỹ lượm bức thư tôi vừa đánh rơi dưới đất, liếc nhanh rồi bảo vú :
 
- Thôi vú vào đi. Để tôi dỗ cô ấy cho.
 
Tôi tựa người vào thân cây ngọc lan quen thuộc, hai tay bưng lấy mặt. Nước mắt đẫm ướt má tôi ; tóc tôi rũ rượi. Chú Sỹ khẽ lắc đầu :
 
- Tội nghiệp cô bé !
 
Bất giác tôi gục đầu vào vai chú Sỹ. Chú dang tay ôm nhẹ lấy thân thể tôi. Bàn tay chú mơn trớn tóc tôi. Chú âu yếm dỗ dành :
 
- Nín đi Uyên ! Không có gì phải khóc cả.
 
Tôi im lặng. Những tiếng nấc nghẹn ngào vẫn thoát ra làm rung đôi bờ vai. Tiếng chú Sỹ vẫn êm đềm :
 
- Nghe lời chú. Bắt đầu lại hết đi, đừng thất vọng.
 
Tôi chán nản lắc đầu :
 
- Hết rồi chú ơi ! Uyên khổ quá. Bao nhiêu cố gắng, bao nhiêu tin tưởng đã dồn cả vào đó… bây giờ…
 
- Bây giờ đã có gì để buồn đâu ?
 
- Họ chê Uyên tàn nhẫn như thế, còn gì mà hy vọng nữa chú ? Họ không có một chút thương hại nào dành cho cháu… nhưng… nhưng tại sao những người thân lại khen Uyên dữ vậy ? Họ khen vì thương hại ? Chú Sỹ, cả chú nữa, chú cũng khen vì thương hại Uyên phải không ?
 
Chú Sỹ lấy khăn tay chặm nhẹ lên mắt, lên má tôi. Chú nâng cằm tôi lên, nhìn vào mắt tôi thật lâu :
 
- Uyên, nghe chú nói ! Tất cả những người thân của Uyên, không ai khen Uyên vì thương hại, cả chú cũng thế. Tất cả là vì cảm tình, là vì thương mến đã dành cho Uyên. Còn những người đã viết cho Uyên những lời phê bình cay độc đó, là những người vô ý thức. Có thể là họ ganh ghét, tị hiềm. Tại sao lại phải tin họ ? Chú rất tiếc là không giúp gì cho Uyên trong lúc này. Nếu có thể, chỉ là trong tương lai…
 
Tôi ngước nhìn chú Sỹ, lời lẽ êm đềm của chú đã xoa dịu những bực tức trong tâm hồn tôi. Tôi dịu đi. Tôi thấy niềm tin trở lại. Tôi thấy ánh mắt chú Sỹ trìu mến vô cùng, và tôi bỗng thấy chú trẻ trung lạ thường, chú không còn mang vẻ lạnh lùng khắc khổ nữa. Tự dưng, tôi mỉm cười với chú Sỹ, nụ cười trong nước mắt. Chú cúi thấp xuống như muốn hôn khiến tôi phải qua một giây bối rối. Nhưng rồi bàn tay chú chỉ lùa nhẹ tóc tôi. Tôi nghe tiếng thở dài rất nhẹ của chú, và chú thì thầm :
 
- Uyên, nhớ rằng lúc nào cũng có chú bên cạnh Uyên.

 
 
10
 
 
Chống hai tay vào cằm, tôi ngồi suy nghĩ hàng giờ khi quyết định chọn một chiếc áo để đi dự buổi thuyết trình hôm nay. Ông Quốc Sinh, người mà một thời gian trước đây đã cho rằng tôi khó mà trở thành một nữ văn sĩ, đã chính thức gởi thư mời tôi đến dự đại hội các nhà văn, được tổ chức hai ngày liền tại Sàigòn.
 
Niềm tin tưởng như tàn lụn trong tôi bỗng dưng bùng lên mãnh liệt. Có thế chứ ! Rốt cuộc rồi người ta cũng biết đến tôi. Người ta đã không bỏ quên tôi trong dịp đại hội quan trọng này. Có nghĩa là tên tôi đã được sắp ngang hàng với những nhà văn khác ?
 
Tôi quyết định chọn chiếc áo dài màu xanh ngọc. Da tôi trắng, mặc màu xanh hẳn là phải hợp. Tôi thắt tóc bằng hai cái nơ cũng màu xanh. Tôi tô chút phấn hồng lên má, kẻ một đường chì đen lên mắt và cảm thấy mình đẹp, mình “tư cách” hẳn lên.
 
Tôi đến nơi hẹn. Quốc Sinh nhìn tôi trân trối :
 
- Trời ơi ! Nữ sĩ Ý Yên ! ! Thật tôi không ngờ cô quá kiều diễm như vậy. Cô sẽ là cái đinh của buổi họp mặt hôm nay.
 
Tôi cười tươi tắn :
 
- Tôi cũng hy vọng người ta không quá lãnh đạm với tôi.
 
- Dĩ nhiên. Làm sao lãnh đạm được với một bông hoa tuyệt sắc. Cô cứ tin tôi, mọi người sẽ đổ xô đến chiêm ngưỡng dung nhan cô.
 
Tôi muốn nói cho Quốc Sinh biết rằng điều tôi hy vọng không phải là làm người ta chú ý đến mình bằng sắc vóc, mà là bằng tài năng của mình trên lãnh vực thi văn kìa. Nhưng tôi thấy không ích gì, nên thôi. Quốc Sinh nói với tôi :
 
- Trong buổi họp mặt này, người ta sẽ lần lượt giới thiệu những tác phẩm mới và sẽ có cuộc nói chuyện của đại văn sĩ Mặc Uy. Cô biết Mặc Uy chứ ?
 
- Dạ biết.
 
- Tốt lắm. Ông ta là một nhà văn có tài. Cô ráng thu thập những lời ông ta nói, để có thể thành công sau này.
 
Tôi đáp nhỏ :
 
- Tôi sẽ cố gắng.
 
Quốc Sinh mở cửa xe, đưa tôi vào một thính đường rộng lớn. Tôi đang đi, chợt sựng lại trước một người đàn bà cao lớn, đang hoa múa chân tay diễn tả theo lời nói với hai người đàn ông. Tôi nhận ra bà Mai Văn.
 
Tim đập thình thịch trong lồng ngực, tôi cảm thấy hồi hộp lạ lùng. Tôi tiến đến trước mặt bà Mai Văn và run giọng :
 
- Hân hạnh gặp lại bà.
 
Mắt người đàn bà mở lớn. Bà ta ngập ngừng :
 
- À, em… cô bé. Em biết tôi à ?
 
- Thưa bà, đã có lần tôi đến nhà bà và tôi cũng đã nhận được những lời khen vô cùng quí giá của bà. Tôi có gởi cho bà cuốn tiểu thuyết “Cái vạc của con quỷ” cách đây nửa tháng.
 
Bà Mai Văn gật gù :
 
- A, tôi nhớ rồi. Cô Ý Yên đây mà. Nữ văn sĩ bé nhỏ và xinh xắn của tôi đây mà.
 
Rồi bà ta phá ra cười. Hai gã đàn ông cũng cất tiếng cười theo. Quốc Sinh kéo tôi đi. Tôi cúi chào bà Mai Văn để đi đến ghế.
 
Buổi đại hội đầu tiên thật sôi động. Người ta thuyết trình, người ta giới thiệu những sáng tác mới. Người ta giới thiệu nhau một cách nồng nhiệt. chỉ có tôi và tác phẩm của tôi là không ai nói tới.
 
Nhưng tôi chưa thất vọng. Còn ngày mai nữa mà. Ngày mai mới là quan trọng, vì có Mặc Uy nói chuyện. Tôi phải biết mặt ông ta để có thể xác nhận lại với chú Sỹ sự hiểu biết của tôi về các tác giả và tác phẩm.
 
Tôi nhận lời đi ăn cơm với Quốc Sinh. Ăn xong hắn đưa tôi về nhà trọ của hắn, bảo là để bàn bạc lại chương trình giới thiệu tác phẩm tôi vào ngày mai.
 
Trong căn phòng nhỏ xinh xắn, Quốc Sinh tươi cười bảo tôi :
 
- Ngồi đó đi cô Uyên. Chúng ta sẽ bàn một vài chuyện.
 
Tôi ngồi xuống ghế chờ đợi.
 
- Ngày mai sẽ giới thiệu tác phẩm của cô.
 
- Ông chắc chắn như thế chứ ?
 
Quốc Sinh gật mạnh đầu :
 
- Dĩ nhiên. Chính tôi ghi danh sách mà.
 
Tôi cảm thấy yên tâm. Tôi nhìn Quốc Sinh bằng ánh mắt thiện cảm hơn :
 
- Ông cố gắng giúp tôi. Tôi sẽ không quên ơn !
 
Quốc Sinh cười mơn trớn :
 
- Ơn nghĩa gì ! Nếu cô biết tôi mến cô đến ngần nào. Cô đẹp quá cô Ý Yên ạ. Nếu tôi biết cô đẹp như thế này, tôi đã không từ chối đăng bài của cô.
 
Tôi cố gượng cười :
 
- Ông nói vậy chứ tôi mà đẹp gì.
 
Quốc Sinh nham nhở :
 
- Cô đẹp, cô đẹp thật mà, cô Yên. Bây giờ tôi giúp cô thì đâu đã muộn. Bây giờ tôi trở thành bạn thân của cô thì đâu đã muộn…
 
Tôi bắt đầu lo ngại. Tôi đứng bật dậy lùi lại một bước :
 
- Xin ông nói chuyện đứng đắn hơn. Chúng ta nên bàn chương trình để ngày mai có thể giới thiệu…
 
Quốc Sinh cười hộc lên :
 
- Thôi, dẹp chuyện đó đi. Chúng ta hãy sang lãnh vực khác. Ý yên, nếu cô biết rằng cô đã làm tôi mê đắm từ phút đầu… cô… tôi… yêu cô.
 
Tôi biết không yên được với gã đàn ông nham nhở này. Tôi cảnh cáo gã :
 
- Ông nên thận trọng, ông Sinh. Tôi đến đây vì mục đích gì ông đã biết. Xin ông cho tôi được giữ sự kính trọng ông từ phút đầu.
 
Gã đàn ông cười gằn :
 
- Hừ ! Kính trọng. Tôi không cần em kính trọng. Tôi chỉ cần em yêu tôi, tôi chỉ cần chừng đó em hiểu chưa ?
 
- Nhưng tôi muốn trở thành một nữ văn sĩ, tôi không muốn trở thành một cô gái hư hỏng. Tôi đến đây để gặp các nhà văn, để giới thiệu tác phẩm của mình.
 
Quốc Sinh cười hộc lên, cắt ngang :
 
- Cô mơ ước viển vông quá cô Yên ạ. Tôi nói thật cho cô biết để cô khỏi mơ tưởng, là không ai thèm biết đến cô đâu. Dù cô có nói gì, dù cô có giới thiệu gì đi nữa thì cũng không ai nghe đâu. Tốt hơn cô nên ngoan ngoãn nghe lời tôi, may ra tôi sẽ giúp được cô…
 
Tôi muốn đấm vào bộ mặt nham nhở của gã. Nhưng tôi không làm thế được. Tôi chỉ biết quắc mắt :
 
- Im ông đi ! Tôi sẽ không cần ông nữa. Ông tồi lắm. Ông lợi dụng lòng tin của tôi. Tự tôi, tôi sẽ đi gặp những người đó. Bà Mai Văn đã biết tôi, và ông Mặc Uy rồi cũng sẽ biết tôi…
 
- Đừng có hòng, cô bé ơi ! Cô còn thơ ngây lắm. Cô nói bà Mai Văn biết cô và bà ta đã khen cô, đã khuyến khích cô chứ gì ? Tôi đã thuộc lòng hết những lời lẽ đầy cảm động, đầy chân tình mà bà ta đã từng trả lời. Nhưng bà không đọc một giòng văn nào của cô đâu. Và bức thư bà ta gởi cho cô thì bà ta cũng đã gởi cho hàng ngàn người khác.
 
Tôi cố cắn môi cho khỏi bật khóc. Sự thật có thể phũ phàng đến thế sao ? Bà Mai Văn, trời ơi ! Bao nhiêu là tin tưởng ! Tôi tin ai bây giờ đây ? Chung quanh tôi là dối trá, lừa lọc. Tôi chỉ còn sự cô đơn bao quanh…
 
Ánh mắt gã đàn ông bỗng long lên dữ tợn. Tôi sợ hãi thụt lùi gần đến cửa. Hai bàn tay to lớn của gã chờn vờn như muốn chụp lấy tôi. Tôi rú lên :
 
- Buông tôi ra ! !
 
Vừa hét tôi vừa đẩy mạnh. Bản năng tự vệ khiến tôi khỏe hẳn lên. Gã đàn ông loạng choạng. Thuận đà, tôi giật mạnh cách cửa và vọt nhanh ra ngoài. Tôi nghe tiếng gã nhào theo cánh cửa. Tôi đâm đầu chạy.
 
Ra đến lộ, tôi vẫy nhanh chiếc taxi và gieo mình xuống nệm xe. Tôi nói nhanh địa chỉ nhà dì Tân. Chiếc xe chồm lên, lướt nhanh trong sự mệt mỏi, chán nản tột cùng của tôi.
 
*
 
Sau một giấc ngủ vùi, tôi cảm thấy lấy lại sức khỏe, tươi tỉnh trở lại. Tôi đã có một quyết định. Tôi sẽ không đi dự buổi họp ngày mai nữa. Tôi sẽ trở về Đà Lạt, và tôi sẽ sống trở lại cuộc sống êm ả của mình.
 
Tôi đã chán chường những cuộc đuổi theo ảo ảnh. Nếu tôi có tài, hẳn là tôi sẽ nổi tiếng. Người ta sẽ biết đến tôi. Nếu không, tốt hơn tôi giữ cuộc sống bình thường của trăm ngàn đứa con gái ở lứa tuổi tôi.
 
Tôi nhất định không chạy chọt, cầu cạnh ai nữa. Tôi cũng sẽ không tin ai, những lời tán dương cũng như những câu phê bình độc ác. Tôi sẽ là tôi, sống cho tôi, không cần biến mình trở thành thần tượng nữa.
 
Hơn nữa, từ trong tận cùng tâm khảm tôi, tôi cảm thấy như có một cái gì thay đổi. Sự nhớ nhung, phải rồi. Tôi cảm thấy nhớ chú Sỹ, nhớ thật sự. Tôi chợt lo nếu tôi trở về Đà Lạt mà không gặp chú ?
 
Chợt dưng tim tôi đập rộn ràng khi nhớ đến gương mặt chú Sỹ. Gương mặt khắc khổ và dịu dàng, ánh mắt dửng dưng mà trìu mến. Tôi thèm được nép vào ngực chú, để bàn tay chú dịu dàng vuốt tóc tôi, để nghe giọng chú trầm ấm dỗ dành. Bên người đàn ông đó, tôi tìm thấy trọn vẹn sự bình yên, thoải mái.
 
Tôi nhớ đến những lần tôi đứng bên hàng giậu, cạnh chú Sỹ. Tôi tâm sự với chú những ước mơ của tôi, và những lần thất vọng làm tôi tràn nước mắt. Chú Sỹ an ủi dỗ dành. Chú cảm thông đến từng nỗi buồn vụn vặt của tôi.
 
Chắc chắn, mỗi lần tôi vắng mặt, chú Sỹ buồn lắm. Tôi đã đọc được niềm vui dâng tràn trong mắt chú mỗi lần tôi ở Sàigòn lên. Chú như muốn trách tôi, nhưng rồi chú lại dằn được. Tôi đọc rõ sự trách móc trên những cái nhăn mặt nhẹ nhàng của chú.
 
Mắt chú luôn luôn là một niềm đăm chiêu không dứt. Nhưng chú hay cười, và nụ cười khiến gương mặt hơi dài, dáng quí phái của chú rạng rỡ hẳn lên.
 
Tôi để ý nghĩ trôi trong hình ảnh chú Sỹ như thế không biết bao lâu. Về Đà Lạt kỳ này, tôi sẽ thành lập một trại chăn nuôi, và tôi sẽ nhờ chú Sỹ trông coi cho tôi. Có được một nếp sống bình thường bên cạnh chú Sỹ, tôi tưởng không còn gì hơn.
 
Tôi mỉm cười khi nghĩ là mình đã lớn, đã biết rung cảm trước người đàn ông. Chắc chắn đó là một nguồn rung cảm bắt nguồn cho tình yêu. Gương mặt chú Sỹ hiện chập chờn trong trí khiến tôi nao nao chỉ muốn mau đến ngày mai để về Đà Lạt.
 
- Chị Uyên ơi, ra coi ti vi đi ?
 
Tiếng Thủy gọi lớn. Tôi đáp :
 
- Thủy coi đi. Chị lười quá.
 
- Nhưng có trực tiếp truyền hình buổi đại hội các nhà văn nè.
 
Tôi ngồi bật dậy. Dù không đến đó thì mình cũng nên xem một chút. Tối nay có Mặc Uy nói mà.
 
Tôi bước ra phòng khách. Thủy nhường ghế cho tôi :
 
- Ngồi đây đi chị Uyên.
 
- Thủy để chị.
 
Tôi ngồi xuống. Tôi nhìn thấy trên màn ảnh nhỏ tất cả những gương mặt mà tôi đã thấy hôm qua. Tôi chợt cảm thấy tâm hồn lạnh băng, không còn một chút háo hức nào nữa. Họ, những người đã tự nhận là những nhà văn, thần tượng của thiên hạ, thật ra chỉ là những con người vị kỷ, tầm thường và đôi lúc hèn hạ. Tôi nhìn bà Mai Văn, phục phịch đi vào, toe toét cười và thấy không có chút thiện cảm nào với gương mặt bị thịt đó. Tôi thấy cả Quốc Sinh, và tôi lợm giọng khi nhớ đến những hành động khốn nạn của hắn.
 
Tôi nói với Thủy :
 
- Thủy ạ ! Nếu em đã từng hâm mộ một nhà văn nào thì em nên đứng xa mà nhìn, đừng lại gần họ, đừng tìm hiểu họ, đừng nhờ vả họ. Em sẽ thấy một sự thật tàn nhẫn và em sẽ mất đi tất cả những niềm tin. Em cũng không còn có thể nhìn thần tượng của mình bằng ánh mắt ái mộ nữa. Chỉ nên nhìn những nhà văn qua những thiên tiểu thuyết của họ trên báo thôi.
 
Mắt Thủy mở lớn. Tôi biết con bé đang ngạc nhiên khi nghe tôi đưa ra nhận xét đó. Nó lắp bắp :
 
- Nhưng chị cũng là một nhà văn ?...
 
Tôi lắc đầu :
 
- Không. Chị chỉ là một cô gái tầm thường, hiểu văn chương, yêu văn chương, nhưng không phải là nhà văn. Những người mến thương chị sẽ không phải thất vọng khi hiểu rõ con người thật của chị. Và đó là cái hạnh phúc vô giá của con người bình thường. Đừng nên làm người của đám đông khi mình không thể sống cho vừa ý tất cả mọi người.
 
Vừa lúc đó tiếng xướng ngôn viên trong đài giới thiệu :
 
- Thưa quý vị, nhà văn Mặc Uy đã đến.
 
Người đàn ông cao dong dỏng, tướng đi khoan thai, tiến vào thính đường giữa tiếng hoan hô vang dậy. Ông ta đi từ tốn, môi nở nụ cười.
 
Tôi chợt có cảm tưởng như mình vừa thu nhỏ lại, thật nhỏ để lọt hẳn vào trong chiếc ghế bành. Mắt tôi giương lên gần như muốn nứt khóe, như muốn thu gọn hình ảnh trên ti vi. Tôi dằn nén một tiếng kêu kinh ngạc : Người đàn ông mà xướng ngôn viên vừa giới thiệu là nhà văn Mặc Uy đó, không ai khác hơn là chú Sỹ, người đàn ông làm vườn, người bạn láng giềng ở Đà Lạt của tôi.
 
Chân tay tôi lạnh buốt. Một cảm giác vừa bâng khuâng vừa náo nức xâm chiếm hồn tôi. Tôi lịm người trong một sự thật ngoài dự tưởng !
 
Chú Sỹ là nhà văn  Mặc Uy ? Có thể như thế sao ? Tôi như trên trời cao rớt xuống. Nhưng làm sao được, chính chú Sỹ đang hiện diện trước mặt tôi. Chú không thấy tôi, nhưng tôi thấy chú, rất rõ.
 
Suốt gần bốn mươi phút chú Sỹ thuyết trình, tôi ngồi yên trong tư thế bất động. Tôi nghe như uống từng lời nói dịu dàng, trầm ấm của chú Sỹ. Cử tọa im phăng phắc. Thỉnh thoảng, tràng pháo tay lại nổi lên rồi tất cả lại yên lặng nghe.
 
Khi Mặc Uy dứt lời, tôi muốn nói lại với Thủy “Những nhà văn thật sự là khi mà họ có lớp vỏ bề ngoài tầm thường, và không tỏ cho người ta biết mình là nhà văn. Họ sống cuộc đời bình dị, và họ không làm thất vọng những người yêu mến họ. Nhưng đó chỉ là một con số rất hiếm, và con số hiếm đó, chị đã được biết”. Nhưng rồi tôi không nói gì cả, sợ con bé lại cho mình lắm lời.
 
Thủy không ngớt lời khen Mặc Uy duyên dáng, giọng nói dễ thương. Và tôi bỗng dưng ngấm ngầm hãnh diện với chính mình.
 

 
11
 
 
Tôi nằm trong canapé. Cuốn sách rời khỏi tay tôi không buồn nhặt. Tôi lan man với nhiều ý nghĩ.
 
Từ hôm về Đà Lạt tới nay, tôi không ra khỏi nhà. Tôi sợ gặp chú Sỹ, đúng hơn là Mặc Uy. Tôi không biết mình nói sao với chàng khi gặp lại. Và tôi trốn luôn trong nhà, không dám ra hàng giậu.
 
Có tiếng chân người. Tôi quay lại và kêu lên :
 
- Mặc Uy !
 
Người đàn ông chùng chân lại, ngạc nhiên vì tiếng kêu của tôi. Nhưng rồi ông ta lại tiến đến.
 
- Sao lại Mặc Uy ? Chú Sỹ đây mà…
 
Tôi nhìn Sỹ trân trân. Đúng, đây là Sỹ của tôi. Chàng đang đứng trước mặt tôi với chiếc áo sơ mi ngắn tay quen thuộc, mớ tóc bồng bềnh và gương mặt thân yêu. Nỗi nhớ nhung đè nén chỉ muốn tràn ra khỏi cổ họng thành những lời nói say lòng. Nhưng tôi dằn lại. Sỹ nói :
 
- Uyên ! Sao không nói gì với tôi đi ?
 
- Anh Sỹ !
 
Tôi kêu lên, không còn dối lòng được nữa. Nước mắt ngập mi. Tôi gục đầu trong tay Sỹ. Chàng bàng hoàng rồi dang tay ôm lấy tôi.
 
- Uyên ! Sao em trốn anh mấy hôm nay ?
 
- Em sợ…
 
- Sợ gì ?
 
- Sợ anh cười em. Em đã coi thường anh trong khi anh mới chính thật là một người đáng quí. Anh là một nhà văn, anh là một nghệ sĩ, một thần tượng không phải chỉ trên báo chí, tiểu thuyết mà cả trong tâm hồn. Khi em cảm thấy nhớ anh, yêu mến tâm hồn anh, thì em chạm trán với sự thật. Anh không phải con người trong ý nghĩ của em lâu nay. Anh là… Mặc Uy. Anh là nhà văn. Bây giờ thì em mới hiểu một nhà văn thật sự phải như thế nào…
 
Sỹ nâng mặt tôi lên. Giọng chàng nhẹ như hơi thở :
 
- Anh giấu Uyên chỉ vì nói ra không ích lợi gì. Anh muốn mình hiểu nhau qua con người thật và tâm hồn thật của mình, không bị một lớp vỏ nào bên ngoài… nhưng thôi, bỏ chuyện đó đi. Ở đây chỉ có anh và em, Sỹ và Uyên… Uyên, em có biết anh nhớ em chừng nào không ? Anh nhớ muốn điên lên, đến nỗi không dằn được phải sang đây…
 
Tôi bật khóc vì sung sướng. Tôi nhìn gương mặt Sỹ và thấy chàng trẻ trung hơn bao giờ.
 
Chuông đồng hồ điểm 10 giờ sáng. Bên ngoài hàng giậu, nắng bắt đầu trải hồng khung trời Đàlạt.
 
 
Ý YÊN

_______________________________________________________________________________ 
 BÊN HÀNG GIẬU 

Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013

CHƯƠNG 7, 8_BÊN HÀNG GIẬU

7
 
 
Tôi đã chạy đến phờ người vì việc phân phối sách của nhà phát hành. Tôi nhờ ba tôi can thiệp, vì ông quen lớn nhiều, để “cái vạc của con quỷ” được bày bán trong nhiều nhà sách, nhất là ở Sàigòn.
 
Tôi sung sướng thấy tên mình được để ngang hàng với những nhà văn đương thời. Dù không cần biết nội dung cuốn sách thì tên tôi cũng đã có trên bìa một cuốn sách. Tôi đương nhiên là một nữ văn sĩ.
 
Tôi lại bỏ Đà Lạt, bỏ ba tôi, vú già và chú Sỹ để đi Sàigòn. Chuyến đi này ngắn ngủi nhưng không bận bịu, vì tôi đã hoàn thành xong tác phẩm. Mục đích của tôi là đi ngắm tên mình trên những cuốn sách bày ở quầy.
 
Những buổi sáng, những buổi chiều tôi lang thang trên vỉa hè Lê Lợi, nhìn vào hàng sách, đôi khi lại vào làm bộ hỏi mua một cuốn sách… tưởng tượng. Sau cùng, tôi nẩy ra ý định thử dò hỏi xem tiểu thuyết của mình bán có chạy không .
 
Nghĩ là làm, tôi vào một tiệm sách khá lớn. Cô bán hàng đon đả :
 
- Cô muốn tìm cuốn chi ?
 
- Tôi muốn mua một cuốn tiểu thuyết.
 
- Thế ạ ! Cô chọn nhà văn nào ? Mai Thảo ! Mặc Uy ! Hay Túy Hồng ?
 
- Không ! Một cuốn tiểu thuyết mới của một nữ văn sĩ trẻ. Cuốn “Cái vạc của con quỷ” đó.
 
Người bán hàng nhìn tôi với vẻ nghi ngờ :
 
- Cô mua cuốn đó à ?
 
Tôi hỏi lại :
 
- Sao cô hỏi vậy ? Mua cuốn sách nào là tùy sở thích của tôi chứ !
 
Cô bán sách có vẻ bối rối :
 
- Vâng, thưa cô. Nhưng tôi chỉ hơi ngạc nhiên thấy cô biết tới cuốn đó. Từ hôm tôi bày bán đến nay, chưa thấy ai hỏi đến nó cả.
 
Tôi thấy mình như bị tạt một gáo nước lạnh vào mặt. Tự ái bị tổn thương, nhưng tôi không tìm ra kẻ thù đã hạ nhục tôi. Cô bán hàng gói cuốn truyện. Tôi hậm hực lấy tiền trả rồi ôm sách bước ra khỏi tiệm.
 
Tôi ghé Viễn Đông uống một ly nước mía. Chất nước ngọt lịm lan nhanh trong cổ họng khiến tôi cảm thấy tỉnh táo chút đỉnh. Nỗi buồn khổ, tuyệt vọng chợt dưng vơi đi một phần.
 
“Cũng chưa đến nỗi tuyệt vọng lắm đâu”, tôi nhủ thầm. Đâu phải chỉ có một tiệm này bán. Còn những tiệm khác, nhiều tiệm nữa kìa ! Biết đâu người ta lại không mua rần rần ?
 
Bước chân thả dài trên phố của tôi nhẹ hơn sau ý nghĩ đó. Tôi tự đưa mình vào những niềm hy vọng mới. Dù sao tuổi tôi hãy còn quá trẻ. 18 tuổi đã trở thành một văn sĩ, dù là văn sĩ chưa nổi tiếng, không phải là một niềm kiêu hãnh lớn hay sao ?
 
Buổi chiều hôm đó, trở về nhà dì Tân, tôi nhận được một phong thư của một người lạ ký tên là Nguyên Sinh. Y mời tôi đến dự buổi hội thảo của một nhóm văn nghệ sĩ trẻ về một đề tài thời trang : “Làm thế nào để hiểu được tuổi trẻ ?”. Tôi mừng đến suýt nữa thì bật khóc : Như thế là người ta đã nói đến tôi, đã biết đến tôi và đã nhớ đến tôi ! ! ! Sung sướng biết bao khi tôi sẽ đến buổi hội thảo đó và người ta sẽ niềm nở giới thiệu : Đây là nữ sĩ Ý Yên. Tôi sẽ đi trong danh vọng và những tràng pháo tay không ngớt. Tôi mang lá thư đi khoe với dì Tân :
 
- Dì ơi, người ta mời con đi dự hội thảo nè.
 
- Hội thảo về vấn đề gì đó Uyên ?
 
Tôi đáp với một chút kiêu hãnh :
 
- Của một nhóm các nhà văn về đề tài “Làm sao hiểu được tuổi trẻ” dì ạ. Họ mời con vì con là một nữ văn sĩ đầy triển vọng.
 
Dĩ nhiên đó là những lời do cá nhân tôi chứ ông Nguyên Sinh nào đó không có nói trong thư. Mà ai lại nói lên một nhận xét kém tế nhị như vậy bao giờ ? Nhưng lời mời của ông ta đã chứng minh một cách hùng hồn rằng : tôi đã có một chỗ đứng trên văn đàn.
 
Thủy, cô bé con dì Tân vội xen vô :
 
- Chị Uyên cho em đi theo với nghe.
 
Tôi lắc đầu :
 
- Thủy đi sao được. Em phải là một nhà văn, phải có giấy mời này thì mới đi được chứ.
 
Cô bé tiu nghỉu :
 
- Nếu vậy chị đi một mình. Em thích đi để làm quen với các văn sĩ.
 
Dì Tân cười :
 
- Thì văn sĩ đang nói chuyện với con đó thôi !
 
Câu chuyện của chúng tôi xoay quanh môi trường văn nghệ. Tôi là người nói hăng say nhất. Thỉnh thoảng, Thủy chen vào một câu đầy thán phục.
 
Tối hôm đó, tôi quyết định đi ngủ sớm để giữ sự tươi tỉnh cho ngày hôm sau.
 
*
 
Tòa nhà tráng lệ trước mắt khiến tôi ngần ngại. Những cánh cổng mở rộng đón mời. Tôi thấy bên trong lố nhố nhiều người, có cả người gác cửa nữa. Tôi lấy hết can đảm, bước những bước nhỏ, cố tạo nét khoan thai trên lối sỏi hồng thật đẹp.
 
Người gác cửa lễ phép tiến lại :
 
- Xin cô cho coi giấy.
 
Tôi chìa tấm “các” mời ra, gã nhìn vào, liếc sơ qua rồi reo lên :
 
- Cô là nữ sĩ Ý Yên ?
 
Tôi hơi hoảng :
 
- Vâng… Sao ?
 
Gã tươi cười :
 
- Thì ra tôi đang đứng trước người tôi hằng hâm mộ mà không biết. Tiểu thuyết của cô hay quá. Tôi không ngờ cô còn trẻ đến thế.
 
Tôi đỏ bừng mặt trước lời khen tặng đầu tiên mà tôi nhận được. Tôi cảm thấy mình như nhẹ hẫng đi. Tôi lấy giọng khiêm nhường, nhỏ nhẹ :
 
- Cám ơn ông quá khen. Tôi xin phép vào trong kia kẻo các bạn chờ.
 
Tôi nói thành thạo, lịch lãm như đã quen với những cuộc tiếp tân như thế này. Tôi bước vào căn phòng rộng tráng lệ. Màu sáng của những ngọn đèn trên trần nhà hắt xuống, ánh lên màu áo hồng của tôi một ánh mờ tuyệt đẹp.
 
Một người đàn ông tiến lại nghiêng mình :
 
- Xin hân hạnh được biết quí danh !
 
Tôi giữ cho giọng khỏi run :
 
- Ý Yên.
 
Mắt người đàn ông mở to đầy thán phục :
 
- Ồ, cô Ý Yên. Cô đẹp quá, cô lộng lẫy quá. Cô trẻ, đẹp và có một chân tài vô biên. Chúng tôi đang chờ cô và trong khi chờ đợi chúng tôi đã mạn phép bàn về cuốn tiểu thuyết của cô.
 
Tôi nở nụ cười dễ thương nhất :
 
- Có lẽ là những lời phê bình đầy thương hại ?
 
- Không ! Hoàn toàn tốt đẹp. Mọi người đều đồng ý rằng là đang có một khám phá về một ngòi bút mới.
 
Ông ta nhẹ nắm cánh tay tôi :
 
- Cô vào đây cho tôi được hân hạnh giới thiệu cô với những người bạn của chúng ta đang có mặt ở đây. Cô sẽ thấy mọi người quý mến và ngưỡng mộ cô đến đâu.
 
Tôi riu ríu đi theo tay dìu của ông ta. Mọi người đều im lặng khi tôi xuất hiện. Hình như họ đang trầm trồ về tôi. Người đàn ông nói lớn :
 
- Các bạn, tôi xin được giới thiệu một nữ văn sĩ trẻ tuổi và kiều diễm nhất : Cô Ý Yên.
 
Câu nói vừa dứt, một tràng pháo tay như cơn mưa rào bất tận nổi lên. Tôi cúi mặt xuống rồi ngẩng mặt lên, tiếng vỗ tay cũng chưa dứt. Sự xúc cảm quá mức khiến tôi trào nước mắt. Tôi bước theo người đàn ông, nhưng hai đầu gối tôi như muốn run theo chiều gió và chúng tôi dẫm chân lên nhau và ngã soài xuống.
 
Tiếng thét của tôi và của mọi người làm tôi bàng hoàng. Tôi choàng mở mắt và chợt hiểu rằng mình vừa trải qua một giấc mơ tuyệt đẹp. Giấc mơ đầy vinh quang, giấc mơ phát khởi từ lòng ao ước được thành công trong những bước đầu văn nghiệp.
 
Nhớ lại giấc mơ, tôi mỉm cười sung sướng. Tôi nghĩ biết đâu đó không là sự thật ngay trong buổi hội thảo hôm nay. Ý nghĩ đó giúp tôi hăng hái thêm khi sửa soạn.
 
Căn nhà tôi tới để dự hội thảo không tráng lệ như căn nhà trong giấc mơ. Đó là một thính đường nhỏ, cũng không có người gác cửa nào để khen tôi. Tôi đành bậm gan vào một mình. Mọi người đã đến khá đông và người ta đang bàn cãi những vấn đề thời sự, kiệm ước, vật giá leo thang v.v…
 
Tôi tìm được một chiếc ghế ngồi. Không ai chú ý tới tôi cả. Tôi không biết nói chuyện với ai nên chỉ nghe người ta nói. Người ta nói đến thật nhiều vấn đề… chỉ trừ vấn đề văn chương.
 
Tôi hơi thất vọng nhưng cố gắng chờ đợi. Biết đâu sẽ có những biến chuyển hay hơn. Nhưng rồi những diễn tiến sau đó lại càng tệ hại hơn nữa. Không ai biết tới tôi, không ai nói với tôi một lời. Tôi cũng không biết cả ai là ông Nguyên Sinh, là người đã mời tôi đến. Cuối cùng tôi đành nhìn người đàn bà bên cạnh và mỉm cười với bà ta. Người đàn bà hỏi tôi :
 
- Cô còn trẻ thế mà cũng viết văn à ?
 
- Vâng. Tôi viết tiểu thuyết.
 
- Cô đã xuất bản cuốn nào chưa ?
 
- Có – Một cuốn !
 
Người đàn bà nheo mắt :
 
- Tựa là gì nhỉ ?
 
- “Cái vạc của con quỷ”.
 
- Cái tựa nghe lạ quá. Tôi chưa thấy bao giờ. Chắc cô còn đi học ?
 
- Vâng.
 
Bà ta nhún vai, ngồi im.
 
Tôi chẳng biết làm sao hơn, đành quay mặt đi. Dĩ nhiên từ phút đó, bà ta không còn là một láng giềng đáng mến của tôi nữa.
 
Rồi một người đàn ông khoảng gần 50 bước lên micro. Ông ta ăn mặc “không đến nỗi tươm tất lắm”, và tự giới thiệu là Nguyên Sinh, nhà văn Nguyên Sinh.
 
A, đây rồi ! Chính người đã gởi giấy mời tôi. Tôi nhìn ông ta với ánh mắt biểu lộ sự biết ơn, nhưng chắc ông ta không nhìn thấy ánh mắt đó. Ông ta tự giới thiệu là mình đã sáng tác được bao nhiêu truyện ngắn, thơ, đăng rải rác trên các nhật báo, những tờ báo tôi không tìm thấy chút giá trị nào.
 
Sau phần giới thiệu tràng giang đại hải, ông ta thao thao về văn chương. Từ lúc tôi bước vào phòng đây là lần đầu tiên người ta nói đến văn chương, nhưng tôi nghĩ giá ông đừng nói còn hơn.
 
Tôi buồn quá, nhớ đến sự huy hoàng trong giấc mơ ban tối. Giấc mơ đẹp làm sao ! Chợt dưng, tôi cảm thấy muốn được sống lại một lần giấc mơ đó.

 
 
8
 
 
Tôi quyết định trở về Đà Lạt ngay ngày hôm sau. Tôi đã không còn cảm thấy háo hức nữa. Tôi nhớ ba tôi, nhớ vú già và mang mang nghĩ đến chú Sỹ. Vẻ mặt hơi lạnh lùng của chú làm tôi suy nghĩ vẩn vơ. Niềm suy tư như nung nóng tôi.
 
Chuyến xe Sàigòn – Đà Lạt đưa tôi đi trở lại con đường quen thuộc. Tôi về không báo trước cho ba tôi đi đón.
 
Tôi xuống xe. Dốc nắng nghiêng nghiêng màu hồng lên tà áo dài nội hóa màu nâu của tôi. Chiều, tôi thơ thẩn tìm xe về nhà.
 
Chợt tiếng gọi sau lưng :
 
- Cô Uyên.
 
Tôi quay lại và không ngăn được tiếng reo “Chú Sỹ”.
 
Người đàn ông tiến lại phía tôi :
 
- Cô mới lên ?
 
- Dạ.
 
- Ông cụ có đi đón không ?
 
Tôi lắc đầu :
 
- Uyên về không báo trước.
 
Chú Sỹ nhìn tôi :
 
- Cô đưa vali tôi xách cho.
 
- Chú đi bằng gì xuống đây ? Chú đi chợ hả ?
 
- Tôi đi Honda. Đi mua mấy món lặt vặt.
 
- Chú cho Uyên về với chứ ? Chú mua xong chưa ?
 
- Xong hết rồi. Thôi mình về.
 
Tôi trao cái vali nhỏ cho chú. Chú ngẩng cao, xách vali đi một cách vững chãi, và tôi lúp xúp chạy theo. Tôi thấy mình bé nhỏ quá bên cạnh chú Sỹ.
 
Chú để vali ở trước, rồ máy xe và tôi ngồi lên. Con đường dốc nghiêng nắng muộn. Thỉnh thoảng, xe thắng bất thần làm tôi ngã mình vào lưng chú Sỹ.
 
Gió thổi tạt mái tóc tôi ra sau. Tôi mỉm cười đón gió hiền Đà Lạt. Về đến đây tôi cảm thấy yên tâm. Tôi cảm thấy tin tưởng, không lo âu, không chán nản.
 
- Dạo này cô Uyên hay đi Sài gòn quá hả ?
 
Tôi đáp lời chú Sỹ :
 
- Có việc mới phải đi chứ chú ! Uyên cũng không thích đi xa đâu.
 
- Vụ cuốn sách đi tới đâu rồi Uyên ?
 
Một vài đợt mây xám lơ lửng trôi trước mắt tôi. Tôi cảm thấy đau nhè nhẹ trong lồng ngực. Tôi đáp nhỏ :
 
- Buồn lắm chú !
 
- Sao vậy ? Chú Sỹ có vẻ ngạc nhiên. – Tôi thấy cô tin tưởng lắm mà ?
 
- Uyên cũng hy vọng thời gian.
 
- Bây giờ đã tung bán rồi phải không ?
 
- Dạ rồi.
 
Chú Sỹ gật gù :
 
- Nếu đã tung bán thì lo gì, rồi sẽ có người mua. Một người mua rồi nhiều người mua. Người ta sẽ truyền miệng nhau nếu cuốn sách hay.
 
Tôi rụt rè thú nhận :
 
- Uyên sợ không hay !...
 
- Ô kìa, sao bi quan thế ? Tôi đã đọc rồi, được lắm. Nhưng vì cô mới viết lần đầu nên bố cục chưa được gọn.
 
Tôi không để ý đến lời phê bình sành sỏi của chú Sỹ. Tôi nói :
 
- Dù sao, chung quanh Uyên cũng không có người hướng dẫn. Nhưng Uyên sẽ cố gắng. Chú thấy Uyên có thể thành công không ?
 
- Cô mới viết cuốn thứ nhất mà đã ăn chung gì ! Cố gắng lên chứ ! Khi cô đã có cái đà thì thành công khó gì !
 
- Uyên đã có gặp bà Mai Văn, thấy nếp sống của bà ấy Uyên mê quá. Không biết đến bao giờ mình mới được như thế !
 
Chú Sỹ hơi nhếch môi, nụ cười không nở vội :
 
- Nếp sống như thế nào mà cô mê dữ vậy ?
 
Tôi mơ màng hình dung trở lại cảnh biệt thự lộng lẫy của bà Mai Văn, cảnh bà hiện ra uy quyền giữa những người làm công đầy khép nép. Những câu nói đầy kiêu bạc của bà. Tôi nghĩ đến mỗi bước đi của người nữ sĩ đó sẽ được đón tiếp nồng nhiệt. Tôi nói với chú Sỹ những ý nghĩ mà tôi chắc chưa bao giờ chú có. Tôi diễn tả với chú Sỹ những hình ảnh mà tôi nghĩ chưa bao giờ chú Sỹ tưởng tới :
 
- Chú chưa bao giờ biết được cuộc sống của bà Mai Văn sang trọng như thế nào. Bà ta có một biệt thự xinh xắn, có những người hầu và đã ra mệnh lệnh một cách oai quyền. Bà ta thật bệ vệ và không ai dám cãi lệnh. Vào gặp được bà, Uyên có cảm tưởng như mình đi gặp một Tổng Thống cũng chỉ khó khăn như thế là cùng. Tất cả những vinh dự đó là văn chương mang đến cho bà ta.
 
- Như thế, có nghĩa là cô ham thích văn chương vì ham thích những quyền uy, những vật chất đó thôi sao ? Tôi nghĩ một người trẻ như cô không nên sớm có những ý nghĩ đó. Theo cô đã nói, thì văn chương là một cái gì cao thượng…
 
Tôi đỏ mặt. Quả thật chú Sỹ đã nói đúng ý nghĩ của tôi. Nhưng chỉ đúng một phần. Dĩ nhiên là ý tưởng tôi không phải hoàn toàn chỉ có ham thích vì những tiện nghi vật chất mà tôi thấy được ở bà Mai Văn. Tôi nghĩ đó là những phần thưởng mà văn chương đã đem lại cho chủ nó. Trong tôi, tinh thần yêu thích văn chương mạnh vô cùng. Tôi muốn sống với văn chương. Tôi muốn đem tâm sự của chính mình lên văn chương để mọi người cùng đọc, cùng hiểu. Tôi mong mỏi tên tuổi tôi sẽ đi vào lịch sử. Tôi ước ao một ngày nào đó, tôi sẽ được người ta nói đến như đã nói đến Mặc Uy, đã nói đến bà Mai Văn. Những ánh sáng chói lòa của những thần tượng khiến tôi náo nức. Tôi nghĩ đến những phần thưởng tinh thần lẫn vật chất mà sự thành công về văn chương sẽ mang lại cho tôi.
 
Chiếc xe đang lao trên triền dốc. Một chướng ngại vật đột ngột chắn ngang làm chiếc xe chồm lên. Tôi va đầu vào lưng chú Sỹ. Tôi nghe rõ mùi mồ hôi lạ của người đàn ông thoảng qua. Tôi nói :
 
- Không hẳn Uyên chỉ nghĩ như chú nói. Uyên cũng có tâm hồn văn nghệ lắm chứ. Nhưng chưa có dịp để tỏ ra như vậy đó thôi. Chú nghĩ xem, bây giờ Uyên chạy đôn chạy đáo để lo cho mỗi cuốn sách còn không xong nữa là…
 
Chú Sỹ thôi không hỏi nữa. Chú nói lảng sang chuyện khác :
 
- Sàigòn có gì lạ không cô Uyên ? Chắc là vui lắm ?
 
- Chú xa Sàigòn bao lâu rồi ?
 
Tôi hỏi, thêm một chút kiêu hãnh vì sự “quê mùa” của chú Sỹ. Chú nói :
 
- Cũng khá lâu rồi. Sàigòn quanh quẩn cũng chả có gì vui.
 
- Chắc chú biết về Sàigòn nhiều lắm ?
 
- Đi xe thì phải thuộc đường. Tôi biết hầu hết những con hẻm nhỏ nhất.
 
Chiếc xe xuôi xuống con dốc. Nắng nghiêng vào hoàng hôn, nắng nhạt dần trên áo. Tóc tôi bay tạt trên lưng áo chú Sỹ. Bất chợt tôi cười rũ. Chú Sỹ hỏi với giọng thoáng ngạc nhiên :
 
- Gì mà cười dữ vậy ?
 
- Uyên không biết !
 
- Sao không biết ? Giọng cười của cô có hồn lắm chứ phải rỗng đâu ?
 
- Chú nói kỳ. Giọng cười mà cũng có hồn với không !
 
- Dĩ nhiên rồi. Khi cô nghe một người cười, tự dưng cô sẽ đoán biết ngay là họ cười thành thật hay miễn cưỡng.
 
- Uyên cười chú đó chú Sỹ.
 
- Tôi ?
 
- Dạ.
 
- Tôi làm gì mà cô cười ?
 
- Lưng chú lớn quá, che mất cả gương mặt Uyên nè. Tóc Uyên cứ đập vào lưng chú như muốn “khiếu nại” vậy đó.
 
Chú Sỹ cũng bật cười :
 
- Cô ví von hay quá. Nhưng tóc cô mà đập vào lưng chú, đau lưng chú thì cái lưng nó phải kiện chứ !
 
Tôi tự dưng tò mò, muốn đi vào đời tư chú Sỹ, đời tư của người đàn ông mà tôi đã quen nhiều nhưng chưa hiểu chút gì :
 
- Chú Sỹ nè, Uyên hỏi điều này chú đừng giận nha ?
 
- Điều gì cô cứ nói, có gì mà dè dặt quá vậy.
 
- Tại hơi tò mò, Uyên sợ chú giận.
 
- Cô cứ hỏi.
 
Tôi nuốt nước miếng, cảm thấy hơi khó khăn :
 
- Uyên thấy chú sống… có vẻ lạnh lùng quá. Tại sao chú không mang một người về sống bên cạnh cho có bạn. Một người thân trong gia đình chú chẳng hạn.
 
- Tôi không còn ai !
 
- Sao kỳ vậy ?
 
Giọng chú Sỹ nhỏ lại :
 
- Cha mẹ tôi mất khi tôi còn nhỏ. Sống với ông bà nội, tôi chỉ vừa đủ lớn để biết làm nuôi thân thì ông bà cũng đi luôn.
 
- Chú có một mình, không có anh chị em hở ?
 
- Ừ. Có một mình. Bây giờ tôi không còn ai thân thuộc… ngoại trừ một người.
 
- Ai vậy chú ? Tôi hỏi một cách nôn nóng. – Giọng chú Sỹ thật chậm rãi :
 
- Người đó là cô, nếu cô cho phép tôi coi cô là bạn. Người bạn nhỏ mà thân thích vô cùng.
 
Tôi thoáng một chút bối rối :
 
- Chú nói vậy chứ Uyên đâu đáng gì.
 
- Hay Uyên nghĩ rằng tôi…
 
Tôi biết chú Sỹ muốn nói gì. Tôi ngắt lời :
 
- Kìa chú… thôi Uyên xin nhận.
 
Xe chạy hơi chậm lại. Chú chùng tay ga quay lại nhìn tôi, trong ánh mắt lạnh lùng của chú như tỏa ra một tia lửa ấm vô cùng.
 
*
 
- Chị Uyên !
 
Tôi ngừng tay ngắt sâu trên lá cây thược dược, ngẩng đầu nhìn ra. Tôi thấy đứa con gái đứng lấp ló ngoài cổng. Cô ta cười cười.
 
- Cho Nhung vào với chị Uyên. Được không ?
 
Tôi nhận ra cô ta ở biệt thự bên trái nhà tôi, tức nhà tôi nằm giữa nhà cô ta và nhà chú Sỹ. Tôi nói :
 
- Nhung vào đi. Cửa không đóng.
 
Cô ta xô nhẹ cánh cổng nặng, tung tăng chân sáo đến gần tôi. Cô ta đi giữa những luống hoa của tôi, những luống hoa mà chú Sỹ đã hết sức tận tâm săn sóc trong những ngày tôi vắng xa Đà Lạt vì công việc xuất bản sách. Cô ta liến thoắng :
 
- Chị Uyên có một vườn hoa đẹp quá à. Em đi ngang đây luôn thấy hoa đẹp lắm mà tại không quen chị, nên không dám vô xem.
 
Tôi mỉm cười :
 
- Đâu có gì mà Nhung ngại. Láng giềng cả mà. Mình ở đây cũng đâu có bạn bè. Nhung bao nhiêu tổi để mình tiện lối xưng hô ?
 
- Em 16.
 
- Vậy là kém mình… hai tuổi.
 
- Nhung làm em chị, nghe chị Uyên ? Chị Uyên có em gái ruột không ?
 
Tôi lắc đầu :
 
- Không, mình có một mình.
 
Nhung reo lên :
 
- Thích quá nhỉ ! Em lại có một hơi bốn đứa em, mà em không có chị. Thôi vậy chị Uyên làm chị em nghe ?
 
Tôi nhìn Nhung ngần ngại :
 
- Làm chị, nghe “lớn” quá hả ?
 
Nhung van nài :
 
- Đi mà, chị Uyên. Em đi ngang đây hoài, em hay nhìn thấy chị đứng nói chuyện với cái ông vườn nhà bên kia. Em thấy vườn hoa của chị đẹp quá. Em thấy chị dễ thương nữa, em mến chị ghê. Em vẫn ước ao được làm quen với chị.
 
Cô bé nói một thôi dài. Tôi nhìn cô ta bằng ánh mắt thiện cảm :
 
- Bộ làm em chị sướng lắm sao mà ham ?
 
Nhung đưa một ngón tay lên môi, suỵt một cái duyên dáng :
 
- Em còn biết điều này hay lắm nữa nè.
 
Tôi mở lớn mắt :
 
- Gì vậy ?
 
Nhung nhìn tôi biểu lộ sự khâm phục :
 
- Chị viết văn nữa, phải vậy không ?
 
Tôi giật nẩy mình, không hiểu tại sao cô bé này lại biết tới chuyện đó. Ngoài ba tôi, vú già và chú Sỹ, còn ai biết tôi viết văn đâu ? Gia đình dì Tân tôi biết, em Thủy biết thì họ ở mãi tận Sàigòn kia mà… Không lẽ chú Sỹ nói ? Không lẽ chú Sỹ lại quen với Nhung ? Vô lý, nếu hai người quen nhau thì Nhung hẳn phải gọi chú Sỹ bằng tên chứ sao lại gọi “ông vườn nhà bên kia” ? Hơn nữa tôi có thấy chú Sỹ quen ai ngoài tôi ? Nghĩ thế tôi hỏi :
 
- Ai nói với Nhung điều đó ?
 
Mắt cô bé tinh ranh :
 
- Bí mật quân sự. Chị chỉ cần biết là em “biết” chị là một nữ văn sĩ là được.
 
Tôi cảm thấy nóng bừng ở má. Quả thật, những phát giác của Nhung khiến tôi vừa ngượng nghịu, vừa sung sướng. Chưa bao giờ tôi được một người lạ gọi là “nữ văn sĩ”. Nhung là người đầu tiên nói lên điều đó với tôi. Tự dưng tôi thấy cô ta dễ thương hơn. Tôi làm ra vẻ nhún nhường :
 
- Đâu có gì, chị chỉ viết lách cho vui vậy thôi !
 
- Chị khiêm nhượng quá, chị Uyên ạ. Em tưởng một nữ văn sĩ đã từng xuất bản truyện như chị phải đầy kiêu hãnh, người thường sẽ khó mà gặp được và khó mà được tiếp chuyện một cách vui vẻ. Nhưng chị không thế, chị dễ mến quá chị Uyên à. Vú già đã nói với em rằng chị chỉ thích viết văn, và vì sở thích đó, chị đã bỏ một dịp hè để vùi đầu vào công việc viết lách. Chị đã phát hành được một cuốn tiểu thuyết với nhan đề thật hấp dẫn là “Cái vạc của con quỷ”, quyển sách rất đẹp và các tiệm sách đã bày bán…
 
- Đó chỉ là một sở thích…
 
Nhung ngắt ngang :
 
- Nhưng là một sở thích hay, một lý tưởng đẹp. Biết bao nhiêu người ước ao được trở thành văn sĩ mà không được. Bộ chị tưởng dễ lắm sao ? Em đã từng thấy có người cố gắng hết truyện này đến truyện khác mà vẫn không xuất bản được. Trở thành một nhà văn là trở thành thần tượng đấy chị. Nhất là với một cô gái trẻ, xinh xắn như chị. Chị sẽ nổi tiếng như những nhà văn hiện đại ở một lớp tuổi quá trẻ. Trời ơi, em ham thích được như chị quá chị Uyên ạ. Sao chị tài thế ?
 
Nhung nói mà không để tôi có thì giờ giải thích sự lầm lẫn của cô ta. Tôi muốn nói với Nhung là tôi không phải, hay chưa phải là một nữ văn sĩ chính hiệu, như cô ta đã ngộ nhận. Tôi muốn nói với Nhung là có những người họ cố gắng mà không thể xuất bản nổi một cuốn sách là vì họ không có phương tiện, nhưng có thể họ có tài. Còn tôi, tôi không có tài thì cũng xuất bản được vì ba tôi lo việc đó.
 
Nhưng những lời nói muốn thốt ra môi tôi đều nghẹn ngang bởi những lời ca tụng nồng nhiệt và ánh mắt đầy ắp vẻ khâm phục chiêm ngưỡng của Nhung. Tôi chợt cảm thấy mình quan trọng hẳn lên. Tôi chợt cảm thấy mình đang đứng thật vững trên cương vị một nữ văn sĩ nổi tiếng, đang được người ái mộ tán dương bằng tất cả nhiệt thành.
 
Tôi nghĩ, chấp nhận những lời của  Nhung cũng không có hại gì. Chính vú già đã nói ra những điều ấy, thì tôi có im lặng cũng là phải lúc. Giữ được cho mình một niềm sung sướng ảo tưởng thì đâu có gì tai hại ?
 
Nhung nói với vẻ hăng hái :
 
- Em mà khoe với bạn bè là em quen với một nữ văn sĩ như chị và được chị nhận làm em gái thì tụi nó sẽ phục em sát đất. Tụi nó “mê” các nhà văn lắm chị ạ. Có lần tụi em đã viết thư cho mấy nhà văn lớn, nhưng có lẽ họ bận việc quá nên họ không trả lời tụi em.
 
Tôi gật gù :
 
- Có lẽ họ bận việc thật.
 
- Chị thì chị phải biết điều đó hơn ai hết chứ. Cũng như chị bận viết tối ngày vậy mà !
 
- Chị cũng đâu có viết nhiều, chỉ viết khi cần.
 
- Em nghe người ta nói viết văn cũng tùy hứng phải không chị ? Và nhất là phải có thiên khiếu nữa !
 
Tự dưng bị một màn phỏng vấn ghê quá, tôi vừa bối rối, vừa buồn cười mà cũng sung sướng. Tôi cảm thấy mình trở nên một nhà văn thực sự. Tôi nói :
 
- Thường là như thế Nhung ạ ! Viết văn phải có khiếu mới hay được.
 
- Như cuốn tiểu thuyết của chị, chị viết chắc là lâu lắm ?
 
- Không. Cũng không lâu bao nhiêu.
 
- Chị viết vào những lúc nào ?
 
Tôi nhớ đến giờ giấc làm việc của mình :
 
- Bất cứ lúc nào, thấy thích là viết. Có khi vào buổi sáng thức dậy, có khi vào buổi trưa hay tối.
 
- Hay quá chị nhỉ. Lúc nào mình muốn viết cũng được.
 
- Dĩ nhiên. Đâu có ai bắt buộc mình đâu.
 
- Nghề tự do thích quá hả chị ? Em cũng mong sau này em sẽ vào được nghề văn như chị. Chắc là khó lắm. Chị dìu dắt em với nghe chị Uyên !
 
Nhung nói câu đó với tất cả bi thiết van cầu. Tôi cảm động thật sự. Sự cảm động mà tôi không biết là có ở bà Mai Văn không khi tôi đến cầu xin một sự chỉ dẫn của bà. Tôi nghĩ giá như tôi được là một nhà văn có tài như Nhung nói, chắc chắn tôi sẽ không từ chối sự van xin của cô bé. Tôi nói với Nhung :
 
- Thôi được. Em cứ cố gắng học đi. Bao giờ thành tài rồi, muốn viết văn, chị sẽ chỉ cho. Chị cũng mới chập chững vào nghề, còn phải học hỏi ở các bậc đàn anh, đàn chị nhiều lắm.
 
Nhung nói một câu mà tôi tin là cô bé thốt ra bằng sự thật tận đáy lòng :
 
- Chị giỏi quá trời ! Em phục chị lắm.
 
Khi tiễn Nhung ra cổng nhà, tôi đã tặng cho nàng một cuốn tiểu thuyết “Cái vạc của con quỷ”, bản đặc biệt với chữ ký của tôi. Cô bé sung sướng ra mặt. Còn tôi, tôi cũng cảm thấy cõi lòng nao nao khi tự mình được yêu cầu ký tặng một tác phẩm…
 
*
 
Chú Sỹ nói với tôi :
 
- Như thế là có người biết tài cô rồi đấy nhé.
 
Tôi hơi cúi mặt :
 
- Cô bé ấy chưa phải là người mà Uyên mơ ước biết tài mình.
 
- Thế cô bé muốn ai biết nào ?
 
Tôi mơ màng :
 
- Những nhà văn lớn.
 
Giọng chú Sỹ điểm vẻ diễu cợt :
 
- Ai là những nhà văn lớn, theo cô ?
 
- Như bà Mai Văn, như ông Mặc Uy chẳng hạn.
 
Chú Sỹ nhìn tôi chăm chú :
 
- Cô bé biết cả Mặc Uy nữa à ?
 
Tôi vênh mặt :
 
- Mặc Uy mà không biết thì còn biết ai bây giờ. Ông ta là một nhà văn nổi tiếng nhất hiện nay.
 
Chú Sỹ nheo mắt :
 
- Ghê thế cơ à ?
 
Tôi bực tức :
 
- Chú và Uyên không bao giờ gặp nhau ở ý tưởng. Chú không bao giờ chịu đọc sách, chịu để ý tới văn chương cả.
 
- Tôi cũng có đọc, thỉnh thoảng, nhưng chắc rằng không siêng năng bằng cô. Tôi tưởng Mặc Uy là một nhà văn xoàng, rất xoàng.
 
Tôi cảm thấy ấm ách :
 
- Chú có đọc văn ông ta à ?
 
- Hình như có lần tôi đọc một đoạn văn của hắn. Nhưng tôi đâu thấy gì đặc sắc. Cũng như tất cả những tiểu thuyết đăng trên các nhật báo, tuần báo.
 
Tôi kêu lên :
 
- Thế chú còn muốn gì nữa ? Trở thành một nhà văn, được hầu hết các báo mời cộng tác, còn vinh hạnh nào hơn không ? Biết bao nhiêu người mơ ước được địa vị đó !
 
- Kể cả cô ?
 
- Uyên sức mấy mà được như ông ta. Mình chỉ mong có một chỗ đứng nhỏ mà cũng không xong nữa là…
 
- Cô đã biết mặt ông ta chưa ?
 
Tôi phịa đại để chứng tỏ sự hiểu biết của mình :
 
- Biết chứ sao không ?
 
- Ông ta là người như thế nào ?
 
Tôi diễn tả ngay cái hình ảnh mà tôi vẫn vẽ trong trí về Mặc Uy :
 
- Ông ta cao lớn, bệ vệ. đẹp và nghiêm khắc. Ông ta đã khá lớn tuổi, ăn mặc sang trọng, đeo kính gọng vàng, ngậm pipe và ngồi chễm chệ trên một chiếc xe hơi lộng lẫy. Một tiếng nói của ông ta không biết bao nhiêu người tuân theo.
 
Chú Sỹ le lưỡi :
 
- Ghê quá ! Cô diễn tả làm tôi hình dung ra được ông ta như một ông giám đốc hạng bự, có vẻ… tài phiệt nữa.
 
Tôi cãi :
 
- Nghề nghiệp đã cho ông ta vinh dự đó.
 
- Tôi thì tôi thấy ông ta cũng chả có gì cao quí cả. Ông ta cũng tầm thường như bao người tầm thường khác, chỉ tại người ta quan trọng hóa thêm thôi.
 
- Quan trọng hóa sao được ? Ông ta là một nhà văn, một thần tượng mà ?
 
Chú Sỹ nhếch môi, nụ cười kiêu bạc khiến tôi tức muốn điên lên. Chú bướng bỉnh như vầng trán rộng của chú. Chú cương quyết như đôi mắt đăm chiêu của chú. Chú không cùng ý tưởng với tôi. Chú không bao giờ hiểu được tôi. Tôi bực tức vò nát những chiếc lá của cây ngọc lan tôi đang tựa. Nước mắt tôi chực ứa ra. Chú Sỹ không nhìn thấy những cử chỉ đó, chú thản nhiên nói tiếp :
 
- Ở đời không có gì là quan trọng. Một văn sĩ thì cũng như một người làm vườn. Văn sĩ cày xới trí óc để tạo nên những luống hoa văn chương đẹp, thì người làm vườn cũng dùng sức lực đôi tay để cày xới đất đai, gieo những hột giống thành cây và trổ những bông hoa đẹp. Tất cả đều là nghệ sĩ. Nghệ sĩ là tánh tự nhiên trong mỗi con người, không phải là một cố gắng tìm kiếm hay rèn luyện xa xôi.
 
Tôi uất nghẹn. Nước mắt lăn dài trên má. Tôi gào lên :
 
- Nhưng chú không phải là một nghệ sĩ. Không bao giờ chú có thể trở thành nghệ sĩ. Chú chỉ là người làm vườn. Chú không thấy sự lố bịch khi tự so sánh với một nhà văn tăm tiếng sao ? ! !
 
Dứt lời, tôi dợm chạy. Nhưng nhanh hơn, chú Sỹ đã dằn tay tôi lại :
 
- Giận tôi hở cô bé ?
 
- Không ! Tôi không giận.
 
Chú Sỹ cười :
 
- Đúng là trẻ con. Vừa nói chạm tự ái một chút xíu đã khóc rồi.
 
Tôi phụng phịu :
 
- Không thèm nói với chú nữa.
 
Và tôi vụt chạy. Tiếng chú Sỹ đuổi theo :
 
- Uyên ! Uyên !

_____________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG 9, 10, 11 
oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>