CHƯƠNG IV
Trước khi cho phép Khôi, Việt sang chơi bên đảo Chàm, chú Triều Dương đã
cho hai anh em biết qua dân tình trên đảo. Họ là những người ở xa đất
liền, ít tiếp xúc với thành thị, lại sống giữa vùng thiên nhiên hiểm trở
nên tính khí có phần cứng cỏi và trầm kín.
Khôi, Việt cảm thấy e ngại phải tới nhờ họ trong lúc này. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh bắt buộc hai anh em nghĩ không còn cách nào hơn, là tìm đến một trang trại gần nhứt. Cả hai định bụng sẽ vào hỏi thăm xem có ai thấy chiếc lều bị thất lạc giữa cơn giông bão. Bằng không, thì xin phép được ngủ nhờ qua đêm.
Tới nơi, cổng trại đóng kín, rào dậu kỹ lưỡng như không bao giờ mở. Khôi, Việt phải vòng ra phía sau mới tìm thấy một cửa hậu, gài then bên trong nhưng trên cánh cửa có khoét một lỗ hổng đút vừa lọt bàn tay để người bên trong có thể nhìn ra, hoặc người bên ngoài, – nếu là người nhà – có thể tự mở then cửa. Khôi Việt vừa đập cửa vừa ghé mắt qua lỗ hổng nhìn vào. Trong bếp có ánh lửa, và trên mặt bàn kê ở giữa gian kế cận đã bày sẵn mâm bát. Cả gian trên và gian bếp đều không có bóng người.
Việt lẩm bẩm :
- Sao không ai trả lời nhỉ. Trong bếp có lửa đỏ tất phải có người chứ?
Khôi nói :
- Chắc họ ở ngoài ruộng, chưa về... Hay họ về rồi, vì mâm cơm đang chờ kia, nhưng có việc gì đó nên họ vừa ra khỏi nhà.
Khôi đẩy mạnh cánh cửa, tiếp :
- Cậu xem này, cửa không gài then!
Việt gật đầu :
- Hay họ xuống dưới bến? Có lẽ họ xuống đó lúc tụi mình còn ngồi ở trong hang.
- Họ xuống bến làm gì?
- Xuống neo lại thuyền cho chắc vì sợ cơn giông vừa rồi.
Khôi có vẻ như chấp nhận lý luận của Việt. Anh bước hẳn vào trong sân lớn tiếng gọi :
- Có cô bác nào trong nhà không?
Không ai trả lời. Việt đưa mắt nhìn quanh. Mấy con gà thơ thẩn ngoài vườn đang lục tục rủ nhau về ổ. Tuyệt nhiên không một bóng người. Mưa lại lất phất rơi, và bầu trời tối sầm hẳn lại.
Khôi bàn :
- Chắc họ cũng sắp về tới. Trong khi chờ đợi chúng mình hãy vào ẩn đỡ trong nhà chứa rơm kia.
Dãy nhà chứa rơm và dụng cụ ở vào phía cuối vườn. Đây chỉ là một thứ nhà cầu trống trải, có mái lá che mưa cho khỏi ướt. Khôi, Việt chọn một chỗ ngồi nghỉ và quyết định không nấu nướng gì vội khi chưa gặp chủ nhân của ngôi nhà. Hai anh em mở ba lô lấy bánh mì ra ăn đỡ, vừa moi rơm trải xuống đất dùng làm chỗ nghỉ lưng. Cả hai đều đói, mệt, nên không ai buồn nói lời nào.
Mưa nhỏ giọt ở đầu mái lá tí tách rơi xuống hòa lẫn với tiếng gió rì rào ngoài khóm chuối trong vườn nghe dìu dặt như một điệu ru ngủ. Việt ngáp dài, vươn vai nằm xuống, tay quờ quạng vào đống rơm, với ý định bứt lấy một nắm để được ngửi mùi thơm của lúa. Nhưng Việt bổng ngồi nhổm dậy. Trong nắm rơm vừa bứt, có lẫn một mảnh giấy vo tròn. Mở ra coi, Việt gọi bạn :
- Ê Khôi, tớ vừa tìm được cái này. Tụi mình chắc nắm được đầu mối rồi!
Khôi càu nhàu :
- Đầu mối gì? Hiện giờ tớ chỉ mong tìm lại được cái lều, hoặc được ông chủ nhà tiếp đón vồn vã. Nhưng cậu nhặt được cái gì thế?
- Một cái phong bì cũ, trên có đề :
Thầy NGUYỄN ĐÌNH PHONG
Trường tiểu học Hội An
Việt vuốt thẳng chiếc phong bì, tiếp :
- Như vậy là thầy Phong có mặt ở đảo. Không biết thầy ấy có nghe thấy tiếng chuông không?
Khôi bồn chồn nhìn quanh :
- Chắc thầy ta đã vô đây nằm ngủ, và nằm cũng chỗ cậu đang nằm.
Việt lật chiếc phong bì xem xét, thấy mặt sau có mấy giòng chữ ghi bằng viết chì, nhưng vì trời tối không đọc được nên anh bảo Khôi :
- Hình như thầy Phong có viết gì đằng sau chiếc phong bì này. Cậu bật đèn bấm lên xem...
Những giòng chữ viết của thầy Phong rất khó đọc, giấy bị vò nhầu, lại nhét vào đống rơm nên có chỗ đọc được, chỗ không. Rõ nhất là giòng chữ ghi trên đầu góc phong bì: GHI CHÚ VỀ ĐẢO CHÀM.
Phía dưới Khôi Việt chỉ đọc được :
... phần đất bị chìm của phố Hội cũ. Xem bản đồ V.N thế kỷ XVII ở thư viện quốc gia. Tìm lối đi bí mật dưới ghềnh đá... báo động cho cảnh sát...... nguy ngập... tôi khó thoát...
Khôi ghé sát vào tai Việt :
- Chắc có điều gì khả nghi rồi đây Việt ạ. Tớ đoan chắc với cậu là thầy Phong viết những chữ này trong lúc cấp bách, và bị ngăn trở đột ngột nên mới nhét mảnh giấy vào đống rơm để giấu đi.
Chợt nghe có tiếng động, Khôi tắt vội ánh đèn, còn Việt vo viên chiếc phong bì nhét vào túi. Tiếng động do chân bước – không biết người hay vật – dẫm trên mặt đất ẩm ướt ở ngoài sân. Khôi Việt thu mình ngồi nép sau đống rạ, chờ cho tiếng động chân đi xa.
Từ lúc bắt được mảnh giấy với những ghi chú của Thầy giáo Phong hoàn cảnh bỗng nhiên đổi khác. Mới đây Khôi Việt khua động ầm ĩ, kêu gọi người trong nhà và nóng lòng muốn được gặp họ. Nhưng bây giờ thì cả hai đều câm miệng, cố lẩn tránh mọi con mắt có thể nhìn thấy được mình.
Hai anh em bàn nhỏ với nhau nên rút lui đi nơi khác. Khôi đứng canh chừng cho Việt thu dọn. Trong đời Việt, có lẽ chưa bao giờ anh xếp túi hành trang chớp nhoáng đến thế.
Tuy nhiên, Việt cũng vẫn cẩn thận bấm đèn soi quanh, xem có bỏ sót lại cái gì không, và lấy chân hất gọn chỗ rơm anh vừa nằm cho hết dấu vết.
Khôi đeo "balô" lên vai :
- Chúng mình chuồn đi thôi và dông cho lẹ.
Việt rời dãy nhà chứa chạy vụt ra cổng. Thoát ra ngoài Việt đứng chờ Khôi trên con đường mòn. Sương đêm đã bắt đầu lan nhẹ trên đảo. Bầu trời thấp thoáng ánh sao và phía xa xa ánh đèn dầu được thắp lên trong các trại lân cận. Việt băn khoăn với ý nghĩ: "Đi đâu bây giờ? Đã không hy vọng tìm thấy chiếc lều thì biết ngủ vào đâu đêm nay? Không lẽ đã tránh trại này, để lại chạy sang trại khác xin ngủ nhờ, trong khi chưa biết người ở đó sẽ tiếp đãi mình ra sao!"
Khôi cũng đã ra tới nơi. Hắn chỉ nhảy có ba bước là tới chỗ Việt đứng, và lôi Việc chạy đi ngay :
- Họ đã về. Tất cả có chừng mươi người. Một nửa trở vào nhà, còn một nửa hình như đang đuổi theo tụi mình.
Giữa lúc ấy Việt nghe có nhiều tiếng bàn cãi sôi nổi vang lên. Không kịp suy nghĩ gì hơn, Khôi Việt dồn hết tốc lực để chạy trốn. Chiếc ba lô đeo sau lưng Việt vì chưa kịp nịt chặt cứ rình tuột khỏi vai. Việt vừa chạy vừa xốc quai túi nên thoáng thấy bóng người đuổi phía sau. Anh chỉ nhận được hắn mặc áo mưa có mũ che kín cả trên đầu.
Khôi chạy dẫn đầu đã tiến đến một hàng rào dây kẽm gai. Anh chạy dọc theo và gặp được mô đất cao liền phóng mình nhảy qua. Đây không phải là lần đầu Khôi Việt bị lùng đuổi. Trong nhiều dịp mạo hiểm trước đây, đôi bạn đã từng phải tẩu thoát trước cuộc săn đuổi của đối phương, nên cũng có ít nhiều kinh nghiệm.
- Thấy Khôi nhảy qua bên kia hàng rào kẽm gai, Việt chạy thẳng và báo cho Khôi biết bằng tiếng hú. Khôi đoán được mưu kế của Việt cũng hú lên đáp lại để đánh lạc hướng người đuổi.
Quả nhiên cái "mẹo vặt" ấy rất có kết quả. Việt nghe tiếng chân chạy theo phía sau như có vẻ lưỡng lự. Rồi Việt thấy Khôi tiếp tục phóng mình chạy. Lần này, Khôi là người bị đuổi theo, nhưng giữa người đuổi và người chạy trốn bị hàng rào dây kẽm cản trở.
Việt chọn một khoảng dây rào đã chùng, tìm cách chui qua. Nhưng khi Việt vừa cúi xuống thì chiếc ba lô vuột qua đầu kéo Việt ngã chúi theo, một mấu kẽm gai móc vào túi quần "short", mấu nữa xé rách ống quần, mấu thứ ba vạch xước một vệt dài trên bắp đùi.
Vết xước cày trên đùi làm Việt đau điếng. Anh nghiến răng tìm cách gỡ người ra khỏi hàng rào, nhưng lui lại thì không được, vì chiếc ba lô vướng trên đầu đã làm nửa thân Việt mắc cứng ở bên kia rào. Việt đưa tay bám chặt đám cỏ cố trườn mạnh người sang. Chiếc quần Short của Việt rách toạc, mắc lại ở dây kẽm.
Còn đang lúng túng Việt đã thấy người mặc áo mưa chạy tới, giọng nói của hắn cất lên tự đằng xa.
- Thong thả, đồ ngốc! Nhè nhẹ kẻo rách hết người ra chừ!
Việt không thể chần chừ hơn nữa. Nếu không thoát khỏi sợi dây kẽm gai chắc chắn anh sẽ bị hắn tóm cổ. Việt vùng mạnh, một chân chống được xuống đất và nhất quyết rứt đứt mọi vướng mắc. Chiếc quần xoạc rách thêm vướng lại một mảnh trên mấu kẽm.
Lúc Việt đang lồm cồm đứng lên, anh cũng nghe hơi thở hổn hển của hắn tới gần. Việt vừa toan vùng chạy nữa, thì "hắn" giận dữ nói :
- Răng mà cứ cắm cổ chạy thục mạng rứa!
Giọng nói trong trẻo làm Việt sững người lại. Anh chợt nhận ra người đuổi theo mình là một cô gái!
Cô gái đứng thở trước mặt Việt. Nếu không có mớ tóc dài xõa sau vai, và giọng nói thanh bai trong trẻo thì chẳng ai nhận được cô ta là gái, vì chiếc quần bó ống và chiếc áo mưa khoác ngoài!
Việt ngoái nhìn lại phía sau. Khôi đã biến mất dạng. Anh chàng nếu biết đã chạy trốn trước một cô gái chắc sẽ hận lắm! Cô gái tuy lớn tuổi hơn Khôi Việt nhưng dù sao, cả hai "đấng nam nhi" hoảng hốt bỏ chạy như thế cũng kỳ. Nhất là...Việt, hiện đang đối diện với cô ta, mà nửa thân quần bị xé rách còn mắc cứng trên dây kẽm!
Bị bẽ mặt, Việt nổi cáu. Anh hạch hỏi cô gái sao lại đuổi theo anh làm gì? Cô ta đáp :
- Tui chỉ muốn theo kịp các cậu, vì hai cậu chạy cùng một đường với tui.
- Thế sao chị không nói?
- Nói chi được! Không thấy tôi thở mệt muốn đứt hơi hay sao?
Cô gái nhắm mắt lại, đưa tay lên ngực như muốn đè nén xúc động.
Việt biết các cô gái mỗi khi nhắm mắt là nước mắt sắp sửa trào ra. Các cô khóc có thể là vì buồn, vì giận, vì sợ, hay cũng có khi chỉ là đóng kịch. Trường hợp cô gái này là gì đây?!
Cô gái không phải hạng người nhút nhát, cũng chẳng có vẻ đau buồn. Vậy một là cô ta đang tức giận, hai là đang mưu tính sự gì. Việt lui lại một bước dè dặt :
- Nếu chị là dân trên đảo, chị sợ gì ai mà phải chạy theo chúng tôi?
Cô gái đáp:
- Rứa sao các cậu cũng cắm cổ chạy trối chết? Và cuống lên đến nỗi đâm bổ vào dây kẽm gai làm rách mất cả quần!... Cậu muốn biết tui sợ gì ư? Ở đây cái chi cũng làm cho tui sợ hết...
Việt bối rối đứng yên. Không lẽ anh lại thú thật rằng chính cô gái đã làm anh hoảng sợ. Anh cũng không thể "bật mí" lý do anh và Khôi phải vội vàng rời khỏi trang trại vừa rồi. Phiền hơn nữa là nước mắt cô gái bắt đầu trào ra. Cô nức nở khóc và lấm lét nhìn quanh. Việt cảm thấy mình thật là lố bịch, đứng trơ trơ với chiếc quần rách, trước mặt một cô gái đang khóc mà không biết phải an ủi cô ta bằng cách nào.
Để cứu vãn tình thế, Việt đành hỏi tên tuổi cô ta. Cô gái cho biết tên là Lan và hơn Việt chừng ba hay bốn tuổi.
Khôi, Việt cảm thấy e ngại phải tới nhờ họ trong lúc này. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh bắt buộc hai anh em nghĩ không còn cách nào hơn, là tìm đến một trang trại gần nhứt. Cả hai định bụng sẽ vào hỏi thăm xem có ai thấy chiếc lều bị thất lạc giữa cơn giông bão. Bằng không, thì xin phép được ngủ nhờ qua đêm.
Tới nơi, cổng trại đóng kín, rào dậu kỹ lưỡng như không bao giờ mở. Khôi, Việt phải vòng ra phía sau mới tìm thấy một cửa hậu, gài then bên trong nhưng trên cánh cửa có khoét một lỗ hổng đút vừa lọt bàn tay để người bên trong có thể nhìn ra, hoặc người bên ngoài, – nếu là người nhà – có thể tự mở then cửa. Khôi Việt vừa đập cửa vừa ghé mắt qua lỗ hổng nhìn vào. Trong bếp có ánh lửa, và trên mặt bàn kê ở giữa gian kế cận đã bày sẵn mâm bát. Cả gian trên và gian bếp đều không có bóng người.
Việt lẩm bẩm :
- Sao không ai trả lời nhỉ. Trong bếp có lửa đỏ tất phải có người chứ?
Khôi nói :
- Chắc họ ở ngoài ruộng, chưa về... Hay họ về rồi, vì mâm cơm đang chờ kia, nhưng có việc gì đó nên họ vừa ra khỏi nhà.
Khôi đẩy mạnh cánh cửa, tiếp :
- Cậu xem này, cửa không gài then!
Việt gật đầu :
- Hay họ xuống dưới bến? Có lẽ họ xuống đó lúc tụi mình còn ngồi ở trong hang.
- Họ xuống bến làm gì?
- Xuống neo lại thuyền cho chắc vì sợ cơn giông vừa rồi.
Khôi có vẻ như chấp nhận lý luận của Việt. Anh bước hẳn vào trong sân lớn tiếng gọi :
- Có cô bác nào trong nhà không?
Không ai trả lời. Việt đưa mắt nhìn quanh. Mấy con gà thơ thẩn ngoài vườn đang lục tục rủ nhau về ổ. Tuyệt nhiên không một bóng người. Mưa lại lất phất rơi, và bầu trời tối sầm hẳn lại.
Khôi bàn :
- Chắc họ cũng sắp về tới. Trong khi chờ đợi chúng mình hãy vào ẩn đỡ trong nhà chứa rơm kia.
Dãy nhà chứa rơm và dụng cụ ở vào phía cuối vườn. Đây chỉ là một thứ nhà cầu trống trải, có mái lá che mưa cho khỏi ướt. Khôi, Việt chọn một chỗ ngồi nghỉ và quyết định không nấu nướng gì vội khi chưa gặp chủ nhân của ngôi nhà. Hai anh em mở ba lô lấy bánh mì ra ăn đỡ, vừa moi rơm trải xuống đất dùng làm chỗ nghỉ lưng. Cả hai đều đói, mệt, nên không ai buồn nói lời nào.
Mưa nhỏ giọt ở đầu mái lá tí tách rơi xuống hòa lẫn với tiếng gió rì rào ngoài khóm chuối trong vườn nghe dìu dặt như một điệu ru ngủ. Việt ngáp dài, vươn vai nằm xuống, tay quờ quạng vào đống rơm, với ý định bứt lấy một nắm để được ngửi mùi thơm của lúa. Nhưng Việt bổng ngồi nhổm dậy. Trong nắm rơm vừa bứt, có lẫn một mảnh giấy vo tròn. Mở ra coi, Việt gọi bạn :
- Ê Khôi, tớ vừa tìm được cái này. Tụi mình chắc nắm được đầu mối rồi!
Khôi càu nhàu :
- Đầu mối gì? Hiện giờ tớ chỉ mong tìm lại được cái lều, hoặc được ông chủ nhà tiếp đón vồn vã. Nhưng cậu nhặt được cái gì thế?
- Một cái phong bì cũ, trên có đề :
Thầy NGUYỄN ĐÌNH PHONG
Trường tiểu học Hội An
Việt vuốt thẳng chiếc phong bì, tiếp :
- Như vậy là thầy Phong có mặt ở đảo. Không biết thầy ấy có nghe thấy tiếng chuông không?
Khôi bồn chồn nhìn quanh :
- Chắc thầy ta đã vô đây nằm ngủ, và nằm cũng chỗ cậu đang nằm.
Việt lật chiếc phong bì xem xét, thấy mặt sau có mấy giòng chữ ghi bằng viết chì, nhưng vì trời tối không đọc được nên anh bảo Khôi :
- Hình như thầy Phong có viết gì đằng sau chiếc phong bì này. Cậu bật đèn bấm lên xem...
Những giòng chữ viết của thầy Phong rất khó đọc, giấy bị vò nhầu, lại nhét vào đống rơm nên có chỗ đọc được, chỗ không. Rõ nhất là giòng chữ ghi trên đầu góc phong bì: GHI CHÚ VỀ ĐẢO CHÀM.
Phía dưới Khôi Việt chỉ đọc được :
... phần đất bị chìm của phố Hội cũ. Xem bản đồ V.N thế kỷ XVII ở thư viện quốc gia. Tìm lối đi bí mật dưới ghềnh đá... báo động cho cảnh sát...... nguy ngập... tôi khó thoát...
Khôi ghé sát vào tai Việt :
- Chắc có điều gì khả nghi rồi đây Việt ạ. Tớ đoan chắc với cậu là thầy Phong viết những chữ này trong lúc cấp bách, và bị ngăn trở đột ngột nên mới nhét mảnh giấy vào đống rơm để giấu đi.
Chợt nghe có tiếng động, Khôi tắt vội ánh đèn, còn Việt vo viên chiếc phong bì nhét vào túi. Tiếng động do chân bước – không biết người hay vật – dẫm trên mặt đất ẩm ướt ở ngoài sân. Khôi Việt thu mình ngồi nép sau đống rạ, chờ cho tiếng động chân đi xa.
Từ lúc bắt được mảnh giấy với những ghi chú của Thầy giáo Phong hoàn cảnh bỗng nhiên đổi khác. Mới đây Khôi Việt khua động ầm ĩ, kêu gọi người trong nhà và nóng lòng muốn được gặp họ. Nhưng bây giờ thì cả hai đều câm miệng, cố lẩn tránh mọi con mắt có thể nhìn thấy được mình.
Hai anh em bàn nhỏ với nhau nên rút lui đi nơi khác. Khôi đứng canh chừng cho Việt thu dọn. Trong đời Việt, có lẽ chưa bao giờ anh xếp túi hành trang chớp nhoáng đến thế.
Tuy nhiên, Việt cũng vẫn cẩn thận bấm đèn soi quanh, xem có bỏ sót lại cái gì không, và lấy chân hất gọn chỗ rơm anh vừa nằm cho hết dấu vết.
Khôi đeo "balô" lên vai :
- Chúng mình chuồn đi thôi và dông cho lẹ.
Việt rời dãy nhà chứa chạy vụt ra cổng. Thoát ra ngoài Việt đứng chờ Khôi trên con đường mòn. Sương đêm đã bắt đầu lan nhẹ trên đảo. Bầu trời thấp thoáng ánh sao và phía xa xa ánh đèn dầu được thắp lên trong các trại lân cận. Việt băn khoăn với ý nghĩ: "Đi đâu bây giờ? Đã không hy vọng tìm thấy chiếc lều thì biết ngủ vào đâu đêm nay? Không lẽ đã tránh trại này, để lại chạy sang trại khác xin ngủ nhờ, trong khi chưa biết người ở đó sẽ tiếp đãi mình ra sao!"
Khôi cũng đã ra tới nơi. Hắn chỉ nhảy có ba bước là tới chỗ Việt đứng, và lôi Việc chạy đi ngay :
- Họ đã về. Tất cả có chừng mươi người. Một nửa trở vào nhà, còn một nửa hình như đang đuổi theo tụi mình.
Giữa lúc ấy Việt nghe có nhiều tiếng bàn cãi sôi nổi vang lên. Không kịp suy nghĩ gì hơn, Khôi Việt dồn hết tốc lực để chạy trốn. Chiếc ba lô đeo sau lưng Việt vì chưa kịp nịt chặt cứ rình tuột khỏi vai. Việt vừa chạy vừa xốc quai túi nên thoáng thấy bóng người đuổi phía sau. Anh chỉ nhận được hắn mặc áo mưa có mũ che kín cả trên đầu.
Khôi chạy dẫn đầu đã tiến đến một hàng rào dây kẽm gai. Anh chạy dọc theo và gặp được mô đất cao liền phóng mình nhảy qua. Đây không phải là lần đầu Khôi Việt bị lùng đuổi. Trong nhiều dịp mạo hiểm trước đây, đôi bạn đã từng phải tẩu thoát trước cuộc săn đuổi của đối phương, nên cũng có ít nhiều kinh nghiệm.
- Thấy Khôi nhảy qua bên kia hàng rào kẽm gai, Việt chạy thẳng và báo cho Khôi biết bằng tiếng hú. Khôi đoán được mưu kế của Việt cũng hú lên đáp lại để đánh lạc hướng người đuổi.
Quả nhiên cái "mẹo vặt" ấy rất có kết quả. Việt nghe tiếng chân chạy theo phía sau như có vẻ lưỡng lự. Rồi Việt thấy Khôi tiếp tục phóng mình chạy. Lần này, Khôi là người bị đuổi theo, nhưng giữa người đuổi và người chạy trốn bị hàng rào dây kẽm cản trở.
Việt chọn một khoảng dây rào đã chùng, tìm cách chui qua. Nhưng khi Việt vừa cúi xuống thì chiếc ba lô vuột qua đầu kéo Việt ngã chúi theo, một mấu kẽm gai móc vào túi quần "short", mấu nữa xé rách ống quần, mấu thứ ba vạch xước một vệt dài trên bắp đùi.
Vết xước cày trên đùi làm Việt đau điếng. Anh nghiến răng tìm cách gỡ người ra khỏi hàng rào, nhưng lui lại thì không được, vì chiếc ba lô vướng trên đầu đã làm nửa thân Việt mắc cứng ở bên kia rào. Việt đưa tay bám chặt đám cỏ cố trườn mạnh người sang. Chiếc quần Short của Việt rách toạc, mắc lại ở dây kẽm.
Còn đang lúng túng Việt đã thấy người mặc áo mưa chạy tới, giọng nói của hắn cất lên tự đằng xa.
- Thong thả, đồ ngốc! Nhè nhẹ kẻo rách hết người ra chừ!
Việt không thể chần chừ hơn nữa. Nếu không thoát khỏi sợi dây kẽm gai chắc chắn anh sẽ bị hắn tóm cổ. Việt vùng mạnh, một chân chống được xuống đất và nhất quyết rứt đứt mọi vướng mắc. Chiếc quần xoạc rách thêm vướng lại một mảnh trên mấu kẽm.
Lúc Việt đang lồm cồm đứng lên, anh cũng nghe hơi thở hổn hển của hắn tới gần. Việt vừa toan vùng chạy nữa, thì "hắn" giận dữ nói :
- Răng mà cứ cắm cổ chạy thục mạng rứa!
Giọng nói trong trẻo làm Việt sững người lại. Anh chợt nhận ra người đuổi theo mình là một cô gái!
Cô gái đứng thở trước mặt Việt. Nếu không có mớ tóc dài xõa sau vai, và giọng nói thanh bai trong trẻo thì chẳng ai nhận được cô ta là gái, vì chiếc quần bó ống và chiếc áo mưa khoác ngoài!
Việt ngoái nhìn lại phía sau. Khôi đã biến mất dạng. Anh chàng nếu biết đã chạy trốn trước một cô gái chắc sẽ hận lắm! Cô gái tuy lớn tuổi hơn Khôi Việt nhưng dù sao, cả hai "đấng nam nhi" hoảng hốt bỏ chạy như thế cũng kỳ. Nhất là...Việt, hiện đang đối diện với cô ta, mà nửa thân quần bị xé rách còn mắc cứng trên dây kẽm!
Bị bẽ mặt, Việt nổi cáu. Anh hạch hỏi cô gái sao lại đuổi theo anh làm gì? Cô ta đáp :
- Tui chỉ muốn theo kịp các cậu, vì hai cậu chạy cùng một đường với tui.
- Thế sao chị không nói?
- Nói chi được! Không thấy tôi thở mệt muốn đứt hơi hay sao?
Cô gái nhắm mắt lại, đưa tay lên ngực như muốn đè nén xúc động.
Việt biết các cô gái mỗi khi nhắm mắt là nước mắt sắp sửa trào ra. Các cô khóc có thể là vì buồn, vì giận, vì sợ, hay cũng có khi chỉ là đóng kịch. Trường hợp cô gái này là gì đây?!
Cô gái không phải hạng người nhút nhát, cũng chẳng có vẻ đau buồn. Vậy một là cô ta đang tức giận, hai là đang mưu tính sự gì. Việt lui lại một bước dè dặt :
- Nếu chị là dân trên đảo, chị sợ gì ai mà phải chạy theo chúng tôi?
Cô gái đáp:
- Rứa sao các cậu cũng cắm cổ chạy trối chết? Và cuống lên đến nỗi đâm bổ vào dây kẽm gai làm rách mất cả quần!... Cậu muốn biết tui sợ gì ư? Ở đây cái chi cũng làm cho tui sợ hết...
Việt bối rối đứng yên. Không lẽ anh lại thú thật rằng chính cô gái đã làm anh hoảng sợ. Anh cũng không thể "bật mí" lý do anh và Khôi phải vội vàng rời khỏi trang trại vừa rồi. Phiền hơn nữa là nước mắt cô gái bắt đầu trào ra. Cô nức nở khóc và lấm lét nhìn quanh. Việt cảm thấy mình thật là lố bịch, đứng trơ trơ với chiếc quần rách, trước mặt một cô gái đang khóc mà không biết phải an ủi cô ta bằng cách nào.
Để cứu vãn tình thế, Việt đành hỏi tên tuổi cô ta. Cô gái cho biết tên là Lan và hơn Việt chừng ba hay bốn tuổi.
Việt hỏi cầu may :
- Chị có thấy ai nhặt được cái lều vải nào không?
- Không! Của các cậu à?
- Phải, vì chúng tôi có đem theo cái lều để cắm trại, mà không biết bị ai lấy đâu mất.
Lan nhớn nhác nhìn quanh nói :
- Có lẽ họ lấy đó. Tui nghe một người trong bọn họ nói có nhặt được cả chiếc đèn bấm nữa.
Việt tái mặt :
- Tụi tôi có đánh rơi một cái đèn...
- Nếu vậy thì chính họ rồi...
Lan chợt im bặt, cuống cuồng bảo Việt :
- Cậu hãy cẩn thận! Họ đang tới đó kìa. Chạy mau theo bạn cậu đi, và ẩn vào chỗ căn nhà bỏ hoang ở đằng kia. Tôi sẽ đến gặp các cậu sau nếu anh tôi...
Việt không kịp nghe tiếp câu cuối của Lan, cắm cổ chạy theo hướng Khôi vừa mất dạng. Anh nghe ở phía sau có tiếng người kêu réo tên Lan.
______________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG V