Chương 13
Bupert tỏ ra là một bạn tốt đối với Zachary, anh ta lo lắng đủ cách để Zachary được gia nhập Hải quân trên một chiếc tàu khác mà không gặp sự phản đối của thuyền trưởng O' Connell.
Lần này Zachary phục vụ trên một tàu thuộc hạm đội đóng ngoài khơi bể Manche. Bạn cậu tin là một thời gian không lâu, Zachary sẽ quen với kỷ luật và trưởng thành. Trên tàu này kỷ luật chặt chẽ nhưng không có sự hung bạo tàn ác như tàu cũ của cậu. Vài sĩ quan tỏ ra thương mến người bạn mới, nhưng Zachary vẫn còn ghét bể như ngày nào, vẫn khổ sở vì say sóng, cậu tin là mình sinh ra không để làm thủy thủ mà để sinh sống trên đất liền. Cậu không dám để lòng mình hướng về Stella, về bác sĩ cha nuôi, vì nỗi nhớ nhung còn làm cậu đau đớn hơn bể cả hành hạ cậu. Tuy nhiên, cậu vẫn cố chu toàn phận sự và giữ một bề ngoài vui vẻ, thản nhiên.
Ngày tháng trôi qua, cậu đã theo hạm đội đi khắp nơi trên bể Manche và Địa-trung-hải. Cậu tham dự trận đánh Trafalgar. Hạm đội Anh do Đề đốc Nelson điều khiển, sau cả tháng ròng săn đuổi mới chạm trán với tàu chiến Pháp.
Lúc đầu, cậu sợ ghê gớm, chỉ chực lủi trốn, nhưng rồi cảnh oai hùng của trận chiến, sự dũng cảm của đồng đội và lời kêu gọi: "Tổ quốc tin tưởng chúng ta sẽ hết lòng làm tròn phận sự" làm Zachary kính nể các bạn và hăng say chiến đấu.
Mặt trời lặn, trận chiến cũng tàn. Quân Anh thoàn thắng! Bây giờ, mọi người mới cảm thấy mệt rũ ra. Bên dưới các y sĩ vẫn còn bận rộn luôn tay với các thương binh và xác chết.
Tàu Pháp đại bại đã chạy trốn, tàu Anh thì nhiều chiếc gãy cột buồm và buồm rách tả tơi.
Dưới bể, những kẻ sống sót đang bám vào những mảnh ván, người ta vội vàng thả ca nô xuống vớt họ.
Trên tàu đèn được thắp sáng trưng, lấp lánh ánh sáng chiếu xuống mặt nước đen ngòm. Đảo mắt nhìn một lượt, Zachary chợt nhận ra tàu của Đề đốc Nelson vẫn tối mịt, không một đốm lửa, thanh niên hốt hoảng, níu tay một người bạn bên cạnh:
- Nhìn tàu Victory xem kìa!
Người bạn nhìn thoe tay Zachary và cũng giật mình. Các tàu khó liên lạc với nhau cho nên họ chưa biết tin tức của nhau, anh ta sững sờ lẩm bẩm:
- Không có đèn trên tàu!
Trong chốc lát, các tàu khác đều hướng về chiếc Victory... Rồi thì càng về khuya, tin mừng chiến thắng càng lắng xuống và sự đau đớn dâng lên: tang tóc bao trùm họ: Đề đốc Nelson đã từ trần!
*
Vài ngày sau khi hay tin trận Trafalgar kết thúc, cha De Colbert ngã bệnh. Ông sổ mũi và ho liên miên, trên bàn làm việc của ông luôn luôn có một chồng khăn giấy. Vì thế, ông đành đình cuộc viếng thăm bác sĩ như dự định, ông sợ lây bệnh cho người khác.
Đầu nhức như có búa gõ vào, ông vẫn không cho phép mình được nghỉ ngơi. Bệnh cúm kéo dài hơn tuần lễ, cho đến một hôm, linh mục sau một đêm thức trắng, cảm thấy ngực nặng khó thở, tứ chi rũ liệt không thể gượng ngồi lên. Ông giật chuông gọi người giúp việc vào.
- Nếu có thể, mời bác sĩ Crane đến hộ tôi, ông Jewell đi được đấy!
- Đừng, thưa cha, ông ấy ở xa lắc, gọi được bác sĩ đến ông ta sẽ bịnh luôn, tôi làm sao săn sóc nổi hai người đây chớ? Để tôi gọi Parker tới lể cho cha là xong, lể hay lắm...
- Không, tôi biết hơn bà mà! Mời hộ bác sĩ cho tôi.
Bà giúp việc càu nhàu, hai tay giơ lên đầu:
- Chúa ơi! Bây giờ cha lại bắt chước tụi quí tộc, bày đặt mời bác sĩ...
Tuy phàn nàn như thế, nhưng một chốc sau, bà trở lại với cốc sữa nóng, lễ phép báo tin là đã mời bác sĩ rồi. Linh mục uống sữa và nằm ngay xuống...
Ông ngủ một giấc ngủ chập chờn, mơ về dĩ vãng xa xôi: ông thấy lại cái ngày lâu đài của gia đình ông bị đốt phá, tất cả thân nhân ông bị tàn sát bất ngờ, ông, may mắn được cứu thoát do một linh mục già khả kính và một nữ tu sĩ săn sóc tận tình. Sau đó, vị nữ tu cùng ông tìm cách về Toulon vì nhà dòng cũng bị tàn phá. Cha sở tại đây giấu ông trong nhà thờ, không may có người mách nên chính quyền đến bắt ông, lúc ấy, ông đang dạo trong rừng phía sau nhà thờ, lần này ông lại thoát chết, song cha sở bị thay thế mạng ông.
Nữ tu sĩ Thérèse bơ vơ, ông hứa sẽ giúp cô tìm về với gia đình. Hai người vượt bao nhiêu hiểm nguy để rồi về đến nơi thấy lâu đài nhà cô hoang vắng như bãi tha ma. Trong lúc tuyệt vọng, cô chỉ còn trông cậy vào ông, sau cùng họ trốn sang Anh quốc.
Sống cạnh nhau nhiều ngày, chia xẻ khổ nhục, Charles thầm yêu Thérèse và vị nữ tu, không muốn làm thất vọng người đã cùng mình nếm trải gian lao, nên sau cùng, cô hy sinh đời sống tu hành. Họ thành hôn tại Luân Đôn.
Để vui lòng chồng, Thérèse trang điểm trở lại, giao thiệp với xã hội quí phái trên đất Anh, nơi họ đang sống. Charles dạy học và viết sách, Thérèse thêu thùa lấy công, đời sống khá phong lưu, họ sống với nhau thật hạnh phúc.
Hai năm sau, họ có một con gái rất xinh, nhưng Thérèse sau những ngày cực nhọc vì tránh trốn, sức khỏe suy giảm rõ rệt.
Nghĩ rằng khí hậu Anh quốc không hợp với vợ mình, Charles không do dự khi có người bạn giới thiệu chàng đến dạy con một nhà quí tộc ở Ái-nhĩ-lan, vì chàng cho là một dịp để vợ chàng phục hồi sức khỏe. Ngày nhận việc đến mà vợ chàng lại đang đau. Sau khi bàn tính, họ bằng lòng với nhau để chồng đi trước, nhận việc và lo chỗ ăn, chỗ ở rồi trở lại đón vợ con.
Mọi việc tiến hành tốt đẹp, chàng bằng lòng chỗ làm việc và cũng vừa được thư vợ báo tin mạnh khỏe. Thérèse còn nói rằng sẽ đưa con sang bằng tàu Amphion, chàng không phải trở về tốn công, vì viên sĩ quan trên tàu này vốn có họ với mình, mọi việc sẽ dễ dàng.
Và tàu Amphion nổ... Được tin dữ, chàng trở về Plymouth tìm vợ con, nhưng đến nơi công việc cứu cấp và an táng đã hoàn tất. Charles điên cuồng tìm kiếm dò hỏi khắp nơi. Cuối cùng một thủy thủ cho chàng hay là có một đứa bé cỡ con chàng và một người mẹ trẻ đã chết khi được vớt lên!
Charles không chết vì đau khổ tức thì. Chàng vốn có một sức khỏe dồi dào và ý chí sắt đá, song từ đó, chàng khép kín như con ốc chui vào vỏ. Chàng trở lại dạy học và làm phận sự một cách chu đáo, nhưng không bao giờ còn tìm thấy nguồn vui.
Rồi một lần kia, Charles đến thăm một tu viện và cảm thấy thanh thản trong lòng. Một ý nghĩ phát sinh chàng quyết định hiến dâng những ngày còn lại của mình cho Chúa, thay Thérèse, người đã vì chàng mà hy sinh đời sống tu hành.
Trở thành linh mục De Colbert, Charles vẫn lạnh lùng đối với xung quanh. Ông nghĩ rằng họ đâu có đau khổ, mất mát như ông, và chính đau khổ đó đã là hố sâu, trong nhiều năm liên tiếp cách ngăn ông với mọi người.
Tại Luân Đôn, càng ngày thần kinh ông càng căng thẳng nên ông xin đổi về Torouya, nơi đây chỉ là một họ đạo nhỏ. Ông lại có nhiều thì giờ rỗi rãi để nghiên cứu sách vở...
Vẻ đẹp và sự yên tĩnh ở đây làm ông cảm thấy thanh nhã trong lòng, rồi chợt đâu, ông gặp cô bé Stella...
*
- Này! Sao không đốt đèn lên? Phòng ốc gì tối om như một cái hầm...
Một giọng nói to, giận dữ, và giọng khác, giọng của bà già giúp việc cho linh mục, cũng giận dữ không kém cạnh:
- Tôi không có thì giờ! Tôi chỉ có hai tay. Ông Jewell thì đi mời bác sĩ, ai giúp tôi đem củi lên đây chớ?
Linh mục mở choàng mắt, qua ánh sáng lờ mờ, ông thấy khuôn mặt sạm nắng của bác sĩ Crane đang nghiêng trên mình ông, trán đầy nếp nhăn, mắt đầy lo lắng. Linh mục mỉm cười xã giao, tức thì cơn giận của bác sĩ được dịp bùng ra:
- Bộ cha điên sao không gọi tôi sớm hơn?
Linh mục bối rối, chưa kịp đáp, bác sĩ đã lại la lên:
- Cha tưởng cha còn trẻ lắm sao mà tự chống chọi nổi với bệnh cúm chớ?
Bà giúp việc chen vô:
- Nếu cha nghe lời con, gọi người lể thì có phải yên không...
- Thôi! Bà có đi tìm củi đốt không thì nói cho tôi biết?
Bác sĩ quát to lần nữa và bà già riu ríu rút lui lấy củi. Bác sĩ cúi xuống khám bệnh. Một lát sau, ông lau mồ hôi, hắng giọng:
- Bệnh cha nặng đấy, tôi sẽ cố sức nhưng nếu cha không giúp tôi thì tôi cũng đến bó tay thôi. Tôi có cảm tưởng là cha không muốn khỏi...
Từ lâu rồi, đối với linh mục thì chết là sự giải thoát, nhưng giờ đây trước sự tận tâm của bác sĩ, nhất là tình bạn bác sĩ dành cho ông, ông không muốn làm bác sĩ thất vọng:
- Thưa bác sĩ, tôi sẽ cố gắng để công việc chữa trị dễ dàng.
Và linh mục giữ lời hứa. Đôi bên đã chống trả kịch liệt với cơn bệnh suốt tuần. Sau cùng, vào một buổi sáng, bác sĩ khám lại cho linh mục, vui vẻ tuyên bố:
- Cha khỏi rồi đấy, nhưng phải tĩnh dưỡng khá lâu mới phục hồi sức khỏe. Tôi không để cha ở đây được, cha không thể tự lo mà bà ở của cha, xin lỗi, cho tôi nói thật, thì càng tệ hơn. Cha phải đến đằng tôi ở dưỡng bệnh và ăn Noel luôn...
Cảm ơn bác sĩ nhiều lắm, tôi cũng muốn thế, song trong mùa Giáng Sinh, tôi không thể bỏ tín đồ và công việc mà đi.
- Cha khỏi thắc mắc, cha còn cả một đời để lo cho bổn đạo, nếu cha chết hôm nọ rồi thì ai lo đây? Tôi đã tin cho bề trên hay rồi, từ nay đến đầu năm mới cha còn yếu, không thể làm việc được. Bề trên cũng sắp phái một linh mục khác đến thay cha trong thời gian cha nghỉ dưỡng sức.
Linh mục xúc động vì sự chu đáo của người bạn mới. Ông chưa kịp mở miệng nói cám ơn thì bác sĩ khôi hài:
- Cha đừng lo tôi bắt cóc cha đi xa Chúa. Mỗi tuần tôi sẽ đưa cha đến nhà thờ nhưng nhớ là chỉ đến xem lễ thôi. Tôi phải giữ cha cho đến khi cha thật mạnh.
Linh mục cũng hớn hở gật đầu:
- Vâng, tôi sẽ đóng vai đứa trẻ bên bác sĩ cho đến ngày nào bác sĩ chán, đuổi tôi đi!
Linh mục đến nhà bác sĩ một tháng trước Noel. Biết ông thích yên tĩnh nên chủ tớ bác sĩ thường để ông một mình với sách vở bao quanh.
Chỉ vào buổi tối, đôi khi bác sĩ nán lại văn phòng nói chuyện với ông. Câu chuyện vô tình quay về Zachary và Stella. Nhưng bác sĩ lại ngỡ ông không ưa trẻ em, nhất là trẻ gái, bác sĩ thường nói đến Zachary bằng giọng nồng nhiệt, hãnh diện của một người cha.
Phần Tom, anh ta cố gắng để dọn những bữa ăn ngon miệng. Sự thay đổi không khí này quả có lợi cho sức khỏe linh mục rất nhiều. Dần dần, thần kinh ông lắng dịu, một sức sống mới cơ hồ bừng dậy trong người ông.
Trời đã sang đông nhưng vẫn còn những ngày có mặt trời, nắng ấm áp dễ chịu. Những hôm đó, linh mục dạo quanh vườn nhà, có khi xuống tận làng.
Stella vì bận rộn sắp đặt lễ Noel với mẹ nên nghỉ học ở nhà bác sĩ, còn bác sĩ thì thắc thỏm vì lo con nuôi và cô bé buồn, nhất là ông biết Zachary không có mặt trong dịp này được. Sau chiến thắng Trafalgar, Zachary có thư báo tin vẫn mạnh khỏe nhưng hạm đội cậu vẫn đóng ở Địa-trung-hải cho qua năm tới.
- Tội hai đứa nhỏ, chúng trông ngóng gặp nhau biết bao nhiêu!
Linh mục kiếm lời an ủi bác sĩ, vì ông biết chính bác sĩ buồn nhớ Zachary.
Hôm áp lễ Giáng Sinh trời thật tốt và sức khỏe linh mục thật khả quan. Bác sĩ đề nghị ông đi với mình đến thăm trại Week một chuyến cho vui:
- Thưa cha, tất cả những nông trại lớn ở miền này đều ăn lễ rất lớn. Bất cứ ai cũng có thể tham dự bữa ăn bày dưới những gốc cây bom. Nếu cha vui lòng đi với tôi thì tuyệt... người ta sẽ mừng lắm...
Bác sĩ nói mà không tin lời mình được linh mục nghe theo (từ lâu ông biết linh mục chỉ ưa nơi yên tịnh) nào ngờ đâu, ông ngạc nhiên thấy linh mục hớn hở trả lời:
- Còn gì hay hơn! Tôi cũng có quà cho cô bé đây, bác sĩ ạ!
Bác sĩ rất vui. Chiều 24 trời lạnh và khô ráo, họ dùng xe ngựa lên trại Week, đúng như dự tính, có cả Tom theo.
Trong lúc đó, Stella ngồi cạnh già Sol, Hodge dưới chân cô gái ; Stella đang học thêu, lò sưởi rực lửa. Già Sol bây giờ quá suy yếu, không thể đi lại nếu không ai giúp cho, suốt ngày già ngồi tư lự cạnh lò sưởi, tối đến ba cô bé bế già lên giường. Già được săn sóc tử tế như đối với đứa trẻ. Tuy không ai nói với cô bé là già sắp chết, nhưng cô tiên cảm là già không còn sống bao lâu nữa, cô ở cạnh già trong khi đọc sách, may vá, thêu thùa và khi thì kể chuyện cho già nghe. Đôi khi, cô biết già không chú ý đến câu chuyện nhưng cô không phật lòng, vì cô biết già cần có mình bên cạnh. Những lúc ngẩng đầu lên, cô luôn luôn gặp đôi mắt lờ đờ mệt mỏi của già âu yếm nhìn mình.
"Hôm nay 24 rồi đây!" co gái nghĩ. Cô buồn vì sự vắng mặt của Zachary và sự bệnh hoạn của già Sol trong dịp Giáng Sinh. Gian bếp được trang hoàng rực rỡ và ngập tràn bánh trái hoa quả: công trình làm việc của hai mẹ con cô bé trong rất nhiều ngày. Thình lình, có tiếng má cô gọi từ sân:
- Stella! Có bác sĩ và một ông khách đến!
Stella đặt tay lên vai già Sol, rồi thu xếp khăn thêu vào hộp, vuốt lại áo (chiếc áo mới má cô vừa may cho để đón Noel, bằng hàng len xám mềm mại có in những cánh hồng tươi tắn), chạy ra đón khách, con Hodge theo sau.
Cô gái cúi chào khách thật lễ phép. Bác sĩ tươi cười:
- Stella! Con nhận ra cha De Colbert chứ?
Thưa bác sĩ, con vẫn nhớ...
Khuôn mặt nâu hồng của Stella tươi vui khi ngẩng lên, cô đưa tay cho linh mục, ông nắm lấy và im lặng mỉm cười, nét mặt linh mục chợt rạng rỡ lạ thường – Bác sĩ chưa bao giờ thấy linh mục hân hoan đến mức đó, ông hết sức ngạc nhiên.
Khách được chủ nhân tiếp đón niềm nở. Một chốc sau, có nhiều khách khác đến, họ là những nông dân trong làng. Trong khi bác sĩ trò chuyện với họ, Stella cùng linh mục đến ngồi trên thành cửa sổ, xa cách tiếng cười đùa trò chuyện của mọi người.
Cô gái sung sướng mở gói quà, đôi má cô hồng lên và đôi môi như nụ hoa sắp nở. Linh mục hỏi nhỏ khi thấy Stella loay hoay chưa mở được dây:
- Con muốn ta cắt dây giúp con chứ?
- Thưa cha, không đâu. Dây này tốt lắm, con sẽ thư thả mở...
Cô gái được dạy không nên bỏ phí vật gì và không nên hấp tấp. Trong thoáng chốc, cô mở được các mối dây, vuốt giấy lại phẳng phiu, xếp gọn, cuộn dây ; mắt cô lại rực sáng lên nhìn lần giấy bạc bên trong và cô kêu lên nho nhỏ khi hộp đồ thêu xinh đẹp nằm gọn trên tay.
Stella nâng niu từng món trong hộp, lòng sung sướng không thể tả.
- Con gái của má có cái hộp thật quí!
Người mẹ đứng trước mặt cô con tự bao giờ. Bà kinh ngạc quá.
- Thưa má, của cha De Colbert cho con đấy!
- Chao! Cái hộp dành cho một công chúa cũng chưa chắc đẹp hơn!
Người mẹ buột miệng khen, bà rất vui vì con gái được quí mến, tuy vậy, bà hơi tiếc rẻ: bà không được cái vinh dự có món quà như thế để chính bà tặng con gái yêu của mình.
Tự nhiên bà không giữ được giọng dịu dàng:
- Stella! Con đã cảm ơn linh mục chứ?
Stella bối rối:
- Thưa mẹ, con quên mất...
- Vậy ư? Con vô ơn quá thôi!
Giọng bà hằn học đến nỗi Stella ứa nước mắt, thốt nhiên, cô gái nắm tay linh mục, nửa như muốn xin che chở, nửa tỏ ra hối tiếc về sự sơ ý của mình. Linh mục đỡ lời:
- Thưa bà, không đâu, tôi chưa thấy ai cảm ơn tôi một cách dễ thương như cháu.
Bà mẹ càng phật ý, bà cảm thấy ghét người khách trước mặt quá thể, mà lại là một ông khách ngoại quốc nữa chứ! Bà liếc nhìn khách lần nữa: tự nhiên tim bà như thắt lại vì thấy ông ta và con gái mình đứng cạnh nhau thân mật, trìu mến như thể cha con ruột, càng ghét hơn nữa hai người đều có những cặp mắt xám và trong sáng giống nhau!
... Rồi chợt, bà cảm thấy mình nhỏ nhen, ích kỷ, bà vội vàng đổi nét mặt vui vẻ:
- Xin mời cha! Đã đến lúc ra ngoài trời, bữa ăn sẵn sàng rồi!
___________________________________________________________________