Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2015

CHƯƠNG III_THUNG LŨNG RẮN


CHƯƠNG III


Như lời ông Quách Tiến nói, chỉ một tuần lễ sau Bạch Liên và Tuấn đã trở thành hai tay kỵ mã thành thạo. Hai con ngựa dành cho hai người rất thuần thục, nên đôi bạn – thêm sự phụ họa sốt sắng của Đàm – tha hồ dạo chơi. Lòng thung dài rộng, như tập trung tất cả vẻ kỳ mỹ của thiên nhiên, lẫn cái hoang dã của núi rừng khiến Bạch Liên và Tuấn luôn luôn bỡ ngỡ trước cảnh đẹp. Có hôm hai người ngồi ngựa rong chơi suốt ngày mà không biết mệt.

Khu trại của ông Quách Tiến cũng không kém phần hấp dẫn. Ngôi nhà rộng lớn được cất toàn bằng cây, theo lối kiến trúc bán cổ bán kim, do thẩm mỹ riêng của chủ nhân, – một nghệ sĩ kiêm chủ trại – nằm thơ mộng giữa khu đất rộng. Trước nhà là sân, có hồ cá, nước hồ soi bóng một hòn giả sơn, với những hình tượng thanh nhàn : ông Lã Vọng ngồi buông câu trên bàn thạch, chú tiểu gánh củi dưới chân đèo, và dưới gốc tùng một nho sinh ngồi đọc sách, cạnh mấy lão ông trầm ngâm bên bàn cờ tướng… Phía trái nhà là một vườn cây ăn trái, bên phải là dãy nhà chứa hoa màu, gia súc và phụ thuộc.

Ngôi nhà ông Quách Tiến ở, có hàng hiên bao quanh,bên trong chia làm nhiều buồng, có phòng khách, phòng ăn và – điều mà Bạch Liên, Tuấn không thể ngờ tới – còn có thêm một phòng rộng dùng làm phòng sách và dạo nhạc. Ngoài chiếc dương cầm với những sách vở được nhờ chở bằng trực thăng tới, những vật dụng trong nhà từ bàn ghế, giường tủ, đều được đóng tại chỗ, tuy đơn sơ mộc mạc nhưng không kém vẻ trang nhã.

Phía sau nhà còn một sân cỏ, tiếp nối ngút ngàn với hàng mẫu nương bãi hoa màu. Xa nữa là rừng cây, ban ngày tới đó chơi, gặp đủ loại cầm điểu từ con chim sâu nhỏ bé, đến những con công to lớn, đuôi dài lượt thượt. Ban đêm từng bầy đom đóm lập loè như những đốm đèn nhấp nháy.

Còn rắn thì ẩn náu khắp nơi.

Ông Quách Tiến luôn dặn :

- Các con phải cẩn thận khi ra chơi ngoài bìa rừng; phải mở to mắt mà nhìn xuống bước chân mình đi. Giống rắn nó không làm hại mình nếu mình không đụng đến nó. Nhưng nếu đã bị nó mổ là nguy đó.

Bạch Liên rất sợ rắn, nói chung bất cứ loài bò sát nào. Kỳ hè này Bạch Liên đi chơi với Tuấn mà không đi với Khôi, Việt cũng vì Bạch Liên giận Khôi. Anh chàng này vừa thi đậu. Hôm đi xem bảng thấy tên mình, mừng quá định đi báo cho các bạn biết. Trên đường đến nhà Bạch Liên gặp một người bán các con giống bằng nhựa, liền nảy ý tinh nghịch. Khôi chọn mua một con rết bằng nhựa. Gặp Bạch Liên, Khôi vờ rút khăn tay ra lau, móc luôn cả con rết trong túi quần ra định “trộ” chơi cho vui. Nào ngờ Bạch Liên vừa thấy con rết trong nắm khăn rơi ra đã biến sắc, hét lên một tiếng kinh khiếp ! Sau tiếng hét đó Bạch Liên nhợt nhạt run rẩy cho đến khi biết chắc con vật trên tay Khôi chỉ là con giống bằng nhựa ! Khôi bị cự nự một trận, quên cả báo tin vui. Anh chàng cứ ngẩn ra, không hiểu tại sao một cô gái thông minh và can đảm như Bạch Liên lại sợ một sinh vật bé nhỏ như thế !

Nhưng cái sợ rất “đàn bà” đó Khôi làm sao hiểu được ! Và kỳ hè vừa rồi Khôi đành đi chơi với Việt mà thiếu Bạch Liên. Cô ta vẫn còn ghét cái mặt của anh chàng vô ý thức !

Nghe nói phía ven rừng có rắn, Bạch Liên ít khi bén mảng đến. Chỉ có Tuấn và Đàm hay rủ nhau đến bắn chim. Bạch Liên ở nhà ra vườn tắm nắng, đọc sách, mơ màng nhìn những cụm mây bay trên nền trời cao rộng, hoặc theo chị Dung xem chị điều hành mọi việc trong trại.

Chị Dung là một thiếu phụ còn trẻ mới chừng 25 tuổi. Lấy chồng chưa đầy một năm, chồng chị đã sớm lìa trần. Để quên mối sầu đơn chiếc chị theo ông Quách Tiến là cậu ruột của chị, về đây trông nom quán xuyến mọi việc.

Ở trại, Bạch Liên còn có dịp gây cảm tình với vợ chồng chú B’Him, đôi vợ chồng gốc Thượng giữ việc chăn nuôi gia súc; vợ chồng anh Năm, chồng làm vườn, vợ giúp việc trong nhà, và mấy người tá điền nữa.

Một hôm, ông Hùng – giám đốc sở mỏ – xuống trại ăn cơm trưa, rồi ba ông hội nhau trong phòng khách nói chuyện rất lâu. Không ai rõ ba ông nói với nhau những gì nhưng tinh ý cũng biết các ông đang bàn đến một vấn đề quan trọng. Hình như sắp có chuyện xáo trộn trong Thung lũng Rắn.

Bọn trẻ tuy cũng đoán được điều ấy song không ai muốn để tâm vì họ còn mải vui với những cái mới lạ, đang muốn tận hưởng những ngày thích thú giữa cảnh kỳ tú của thiên nhiên…

*

Mới sáng tinh mơ Đàm đã sang phòng Tuấn đánh thức dậy :

- Ê, anh Tuấn dậy đi !

Tuấn dụi mắt gắt :

- Dậy làm gì sớm thế ? Trời chưa sáng rõ mà !

- Cũng cứ dậy đi. Anh có dậy không thì bảo ?

- Không !

- À, được nhé. Tôi vừa bắt được một con kỳ nhông. Nếu anh còn nằm, tôi sẽ thả nó bò lên bụng anh chơi !

Vừa nói, Đàm vừa giả bộ vén mép chăn. Tuấn vội ngồi rột dậy, càu nhàu :

- Mấy giờ rồi ? Mà đã đòi đánh thức người ta dậy ?

Đàm cười :

- Không biết nữa vì tôi cũng mới thức giấc. Tôi định sang rủ anh đi chơi xa một chuyến.

- Ở đâu vậy ?

- Ở một nơi bí mật, mà tôi quên chưa dẫn anh tới. Chỗ này phong cảnh đẹp ác, đẹp không thể chê được !

Thấy Tuấn còn lưỡng lự, Đàm thúc đẩy trí tò mò của bạn :

- Hơn nữa, chỗ này hình như có liên quan tới một mẩu truyện thần thoại do người Thượng truyền tụng, mà chú B’Him đã kể cho tôi nghe.

Quả nhiên Tuấn hết cả ngái ngủ. Anh hỏi :

- Truyện gì thế ?

- À, truyện thần Rím đưa người Thượng qua một cái hang lên vùng cao nguyên.

- Truyện thế nào ?

Đàm cười ranh mãnh :

- Chú B’Him kể rằng : “Ngày xưa vào ngày khai sơn phá thạch, thần Tạo hoá nhận thấy người Thượng đần độn quá, đến nỗi cơm không biết thổi mà ăn, rượu không biết nấu mà uống. Hạt ngũ cốc thì chê dắn không ăn, chỉ lấy cám làm thức ăn nhật dụng. Thần Tạo hóa liền phái con là Thần Rím xuống trần để dạy bảo cho người Rhadé.

Gặp người Thượng, thần Rím nói :

- Thần Tạo hóa phái ta xuống đây để dạy các người thổi cơm và nấu rượu.

Thế rồi, ngày này sang ngày khác, Thần Rím cố gắng dạy cách thức giã gạo thổi cơm, khiến cho người Thượng biết ăn cơm chín, biết thổi xôi dẻo.

Khi đã biết thổi cơm rồi, người Thượng hỏi thần Rím cách nấu rượu.

Thần Rím bèn dẫn họ vào rừng sâu, dạy họ lấy gạo ngâm nước rồi lấy lá cây và củ gừng dại giã với nhau chế thành rượu.

Dạy xong cách làm rượu thần Rím nói :

- Khi nào các ngươi muốn hăng hái, vui vẻ, để phá rừng, làm ruộng, dựng nhà, thì các ngươi cứ uống rượu này, yếu sẽ thành khỏe buồn sẽ trở nên vui.

Người Thượng theo lời thần Rím chế ra nhiều rượu cần rồi ngày đêm rủ nhau uống, đến nỗi say túy lúy, sinh ốm. Họ nói với nhau :

- Thần Rím xuống đây bảo là dạy khôn chúng ta, nhưng chỉ làm cho ta ốm đau mệt nhọc.

Thế rồi họ nổi khùng, lấy dao quắm xông vào chém thần Rím. Nhưng nhanh chân, thần Rím chạy lẫn vào đồi cỏ tranh và đồng lầy cây cối um tùm.

Người Thượng đuổi theo, thấy thần Rím chạy vào một cái hang cũng chui theo. Ra tới cửa hang bên kia họ thấy trời đất bao la, cây cỏ tươi tốt, gặp cả hai con nai mà họ bắt dễ dàng. Họ đốt lửa thui nai ăn thịt, ra suối uống nước rồi lại tiếp tục đi. Cứ mỗi bước lại thấy những cái hay cái lạ : Dưới gốc cây mỗi tầu lá khô có một con rùa; ngẩng đầu lên trời thấy vô số con kỳ đà, nhìn xuống nước trông thấy không biết bao nhiêu là cá. Họ bắt những giống vật ấy để ăn, thấy ngon, nên sung sướng.

Sau bốn hôm đoàn người đuổi theo thần Rím trở về, đến kể đầu đuôi câu chuyện với viên tù trưởng :

- Thưa Tù Trưởng, ở trên mặt đất có những loài vật hiền lành săn bắt rất dễ, mà cây cối sông ngòi nom đẹp hơn ở dưới ta nhiều.

Tù trưởng không tin, cho là chuyện hoang đường muốn đích thân xem xét nên cùng tuỳ tùng kéo nhau ra đồng lầy, chui vào hang và lên mặt đất. Sau khi được mục kích những sự lạ, Tù trưởng trở về nhà cổ động, cho cả bộ lạc bỏ làng dưới đất, (có lẽ là các hang trong núi) di cư lên làng trên đất. Một ngày kia tù trưởng đi đầu, đến vợ con, anh chị em, họ hàng, kéo nhau lũ lượt đến hang để chui lên mặt đất, tựa như tới chốn thiên đàng. Ròng rã 100 ngày bảy bộ lạc chui qua hang và lên được mặt đất. Đến ngày 101 thì có một con trâu vì sừng quá dài nên lúc chui qua hang bị vướng làm lấp cả cửa hang, bao nhiêu các bà, các cô gái đẹp, mải ngắm vuốt chải đầu cài tóc kề cà chậm chạp quá, nên lúc ra đi thì cửa hang đã bị lấp, đành ở lại dưới địa ngục !”

Đàm nhìn Tuấn cười tiếp :

- Chú B’Him kể câu chuyện đó với một giọng thật ngây ngô. Nhưng Đàm ngờ là đã tìm ra được cái hang chú ấy nói, hang thần Rím đưa các bộ lạc người Thượng từ đồng lầy lên vùng cao nguyên. Nó nằm trên một đường đèo ở bên kia dãy núi. Anh muốn tới đó chơi không ?

Tuấn nhảy xuống đất :

- Đồng ý, nhưng cũng phải chờ mọi người trở dậy và ăn điểm tâm đã chứ.

- Khỏi cần, mình đem đồ ăn theo là đủ. Tới đó mình điểm tâm cũng vừa. Anh sửa soạn đi, tôi lo vụ này cho.

- Cũng nên báo cho Bạch Liên biết. Nhỡ cô ấy muốn theo mình chăng ?

Đàm gạt đi :

- Chị ấy còn ngủ. Đại huynh có dám đánh thức chị ấy không, chớ tiểu đệ thì hổng dám ! Với lại đường từ đây tới đó khá xa và cheo leo nữa nên để chị ấy ở nhà cho được việc !

Nói đoạn Đàm kéo Tuấn xuống nhà bếp, quơ ít thức ăn rồi ra chuồng ngựa thắng yên cương.

Cuộc sửa soạn tuy âm thầm, nhưng cũng bị bắt gặp. Giữa lúc hai người vừa dắt ngựa ra khỏi tàu thì chú B’Him đã đứng sừng sững ở giữa sân. Chú nheo mắt cười :

- Các cậu đi chơi ?

Đàm gật đầu :

- Phải. Chúng tôi đi chơi.

Và thản nhiên, Đàm thúc chân vào bụng ngựa cho nó phóng vọt đi. Tuấn bám gót theo sau. Rời khỏi trại chừng nửa cây số, đến một lùm rậm, Đàm chợt ghì dây cương cho ngựa ẩn nấp sau các thân cây. Tuấn ngạc nhiên, nhưng thấy Đàm ra dấu cũng vội ngoắt vào theo. Anh hỏi :

- Có chuyện gì thế ?

- Tôi muốn biết xem chú B’Him có theo rình tụi mình không ?

- Chú B’Him ? Chú ấy theo rình tụi mình làm gì ?

Đàm cau mày không nói, lặng lẽ đưa mắt nhìn quanh. Tuấn mỉm cười diễu cợt :

- Chú B’Him không hơi đâu đi rình tụi mình vào lúc trời còn mờ sương như thế này, trừ phi có ai ra lệnh cho chú ấy. Theo tôi, chú ấy là người rất đáng mến.

- Đã đành, bề ngoài chú ấy có vẻ là người tốt thật. Nhưng ai biết được lòng dạ chú ấy ra sao ? Mình cứ phải phòng xa, đừng để ai biết mình đi đâu là hơn.

- Bí mật thế kia à ?

- Thưa, vâng ạ ! Đại huynh nên nhớ rằng, hiện giờ ở vùng này đang có nhiều sự âm mưu rất đáng ngại…

- Âm mưu gì ?

- Những âm mưu ghê gớm, chưa thể nói ở đây được. Để lát nữa, tới nơi đệ sẽ nói cho huynh nghe.

Tuấn lại mỉm cười. Anh cho rằng nếu muốn tiết lộ một điều gì quan trọng thì không nơi nào kín đáo bằng ở đây, giữa khoảng đồi núi bao la quạnh quẽ. Đàm vốn hay làm ra vẻ ta đây, thích chơi cái trò “yên hùng hảo hớn”, rập lại những mẫu người trên màn ảnh hoặc trong các pho tiểu thuyết võ hiệp. Nhưng ngoài cái tính anh hùng rơm ấy, Đàm cũng còn cá tính của một thiếu niên đầy tự tín. Tuấn liếc nhìn Đàm. Anh có cảm tưởng là sáng nay, thật tình Đàm không có vẻ đùa cợt như mọi khi.

*

Tuấn không hỏi gì thêm nữa, và cả hai người lặng lẽ rời chỗ nấp phóng ngựa xuống đồi, vượt đồng cỏ ra bờ suối. Dòng suối vào mùa này ngựa có thể vượt qua dễ dàng không như mùa mưa nước lũ đổ xuống tràn ngập.

Vượt qua giòng nước cạn, Đàm vẫn phóng ngựa dẫn đầu, phi lên sườn núi. Tuấn chưa sang bên này bờ suối chơi bao giờ, thấy núi non đột khởi phía trước mặt, cũng tỏ vẻ thích thú hỏi :

- Cậu đưa tôi đến chỗ di tích của người Chiêm Thành phải không ?

Đàm chỉ về phía tay mặt :

- Bọn mình tới kia, chỗ dốc đèo ở gần mỏ.

- Hình như khu này cũng gần chỗ có di tích Chiêm Thành. Tôi muốn lại thăm coi cho biết.

Đàm gạt đi :

- Chẳng còn gì đáng xem, vì theo lời ba Đàm thì cách đây 300 năm một trận động đất đã làm sụp đổ tất cả khu đền đài đó thành một đống gạch đá rồi…

- Ba tôi cũng nói thế, mà ông vẫn cứ suốt ngày mải mê tìm bới ở đó. Nhiều lần tôi muốn đi theo nhưng ông đều hứa để hôm khác hoài.Hình như cả bác Quách Tiến lẫn ba tôi đều không muốn cho chúng mình đến đó chơi.

Đàm nhìn Tuấn lửng lơ nói :

- Chắc có lý do…

- Lý do gì ?

- Thì lý do bí mật. Nhưng thôi, tôi đã nói với anh là để tới nơi, tôi sẽ nói anh nghe trong lúc chúng mình ăn điểm tâm.

Hai người đã vượt hết dốc núi, tiến lên một sườn đèo đá mọc lởm chởm, cây cỏ thưa thớt. Mặt trời đã lên cao. Nhìn xuống, dưới lòng thung lũng từng khoảng hơi sương lan nhẹ trên các thửa ruộng loáng nước.

Tới một tảng đá lớn, Đàm xuống ngựa nói :

- Đây rồi.

Và hắn dắt ngựa dẫn vào một khe đá. Tuấn theo sau. Khe đá hơi hẹp, đứng dang thẳng hai tay có thể đụng vách, chạy dài như một đường hầm lộ thiên.

Đàm khoe :

- Anh thấy chưa, tôi chắc khe núi này là đường hầm xưa kia thần Rím đã đưa các sắc dân Thượng lên vùng núi cao. Qua khỏi hầm, sang bên kia, anh sẽ còn ngạc nhiên hơn nữa.

Quả nhiên, chỉ mấy phút sau, vừa ra khỏi cửa hầm, Tuấn đứng sững trước một cảnh trí tưởng như chỉ thấy được trong cơn huyễn mộng. Trước mắt Tuấn là một khu đất phẳng, một dải bình nguyên thu hẹp, bao bọc chung quanh bằng những ngọn đá lởm chởm tạo nên một bức tường thành thiên nhiên do Tạo hoá vô tình sắp đặt. Giữa khu đất có một giòng suối nhỏ len lỏi qua các hốc đá, chảy nhỏ giọt vào một hồ nước. Trên mặt đất rải rác những phiến đá ong, xưa kia chắc đã được xây thành đền đài dinh thự nay nằm chồng chất ngổn ngang bên những bụi cỏ lau hoang dại.

Tuấn ngây người đứng ngắm, cảm thấy nỗi bâng khuâng len nhẹ vào hồn. Cảnh thật im vắng, chỉ thỉnh thoảng bắt gặp một vài bóng rắn mối lủi nhanh vào các hốc đá. Tuy nhiên giữa cảnh trống trải, im lặng mang đầy vẻ thê lương đó, Tuấn có cảm tưởng như bất chợt lúc nào, cũng có thể bừng sống trở lại.

Anh lẩm bẩm :

- Quả thật là một nơi không tưởng tượng được.

Đàm nhìn Tuấn hãnh diện :

- Đấy, tôi biết ngay thế nào anh cũng thích chỗ này. Tôi chưa cho ai biết cả, trừ anh ra. Tôi có đọc một pho tiểu thuyết võ hiệp, định gọi đây là “Cấm Thành” nơi để chúng mình luyện tập võ nghệ : tập phi thân lên các mỏm đá và phóng phi tiêu chơi.

Tuấn gật đầu mỉm cười :

- Hay lắm !

Anh không muốn làm Đàm cụt hứng. Tuổi thiếu niên nào cũng vậy, rất nhiều mộng ảo, và chỉ muốn trở thành siêu nhân.

Tuấn cười tiếp :

- Chúng mình sẽ trở thành hai cao thủ võ lâm.

Đàm nắm tay hăm hở :

- Và khi tái xuất giang hồ, bọn “du đãng” sẽ có nhiều thằng điêu đứng.

Có lẽ tưởng mình là hiệp khách chuyên trừ gian diệt bạo, Đàm ngửa cổ lên trời, dồn hơi vào đầy bụng cất tiếng cười “khặc khặc”. Tiếng cười “hào sảng” đó cất lên tưởng như có uy lực làm các lá cây rụng rơi lả tả.

Cười xong, Đàm khoác tay Tuấn :

- Đại huynh chưa thấy hết. Để đệ đưa huynh coi hết địa thế “Cấm Thành của chúng ta. Cứ để ngựa ở đây cho chúng tự do gặm cỏ, chúng mình lại chỗ “vọng đài” kia coi.

Vọng đài Đàm nói là một tảng đá lớn. Sau một hồi vất vả leo trèo, cả hai mới lên tới đỉnh. Trên đỉnh trũng lòng chảo nên có thể đứng ngồi thong thả. Đứng đó nhìn quanh, tầm mắt bao quát được cả lòng thung lũng Rắn, với đồn Quảng Sơn nằm trên một ngọn đồi án ngữ con đường vào thung lũng và xa hơn nữa, độ 12 cây số chim bay, trại của ông Quách Tiến ẩn hiện dưới vòm cây xanh.

Tuấn mải mê nhìn ngắm địa thế trong lúc Đàm sửa soạn các thức điểm tâm. Rồi Tuấn ngồi xuống cạnh Đàm trầm giọng hỏi :

- Bây giờ có những điều bí mật gì cậu hãy nói tôi nghe đi.

______________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG IV
oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>