CHƯƠNG VIII
Đàm và Tuấn kinh ngạc nhìn người đàn ông. Hắn đứng
sừng sững, dáng cao gầy, nét rắn rỏi, đang nhếch mép cười thú vị. Hắn
ném mẩu thuốc lá đi tiến lại phía Đàm và Tuấn.
Cùng lúc ấy ở phía cửa hang, lối vào “cấm thành” và các khe đá, thấp thoáng mấy bóng người tiến ra vây hãm Tuấn và Đàm vào giữa. Người đàn ông đến cách Tuấn Đàm chừng dăm bước thì đứng lại hất hàm hỏi :
- Hai cậu ở đâu ? Tới đây làm gì ?
Đàm mạnh dạn đáp :
- Tôi là con trai ông Quách Tiến, cùng với anh bạn ở Saigon đến đây chơi. Hai con ngựa của chúng tôi, các ông dẫn đi đâu rồi ?
Người đàn ông không trả lời câu hỏi của Đàm. Hắn nở rộng nụ cười :
- À, cậu là con ông Quách Tiến ? Ở cái trại dưới thung lũng kia phải không ?
Đàm gật :
- Vâng. Các ông làm ơn cho chúng tôi biết…
Người đàn ông cắt ngang :
- Các cậu không về nhà nữa, phải đi theo chúng tôi. Các cậu sẽ được đối xử tử tế. Nếu biết điều thì đừng tìm cách trốn, hiểu chưa ?
Giọng hắn đanh thép, lạnh lùng. Đàm sợ xanh mặt, nhưng cũng cố gắng cãi :
- Các ông lấy quyền gì mà bắt chúng tôi theo. Tôi nói cho ông biết…
Người đàn ông như không thèm nghe. Hắn tiến lên. Đàm xoay người toan bỏ chạy. Nhưng một người Thượng đứng gác phía sau đã nắm cứng lấy tay. Tuấn vừa định kháng cự thì người đàn ông đã vung tay tát vào mặt anh :
- Đứng im !
Bị một cái tát nảy đom đóm mắt, Tuấn căm giận hỏi :
- Các ông uy hiếp chúng tôi đi đâu ?
- Rồi sẽ biết. Nơi này ngoạn mục lắm. Các cậu ở lại với chúng tôi độ chừng một tuần, hai tuần hay lâu hơn nữa không chừng. Sau đó các cậu sẽ trở về bình yên. Nghe chưa ? Thôi đi.
Hắn ra lệnh bằng tiếng Thượng cho đồng bọn dẫn Tuấn Đàm đi. Ra khỏi cửa hang của “cấm thành” quẹo xuống một con dốc, Tuấn Đàm thấy hai con ngựa của mình đứng chung với mấy con ngựa khác.
Tất cả lên ngựa khởi hành, lầm lì không nói nửa lời.
Đoàn người ngựa bỏ đường mòn vượt lên triền sỏi đá mấp mô.
Độ nửa giờ chật vật cả bọn mới vượt sang triền núi bên kia, để xuống một thung lũng khác, nhỏ hơn thung lũng Rắn và cũng hoang vu cằn cỗi hơn. Toàn vùng lổn nhổn sỏi đá, với cỏ dại, xương rồng, và bụi gai khô héo.
Đàm và Tuấn đi quãng giữa, chưa dám nói gì với nhau. Thừa lúc vào một đường hẹp, Đàm cho ngựa kèm sát bên Tuấn hỏi nhỏ :
- Không hiểu họ đưa anh em mình đi đâu ?
Tuấn khẽ đáp :
- Chưa biết !
- Tại sao họ lại bắt mình nhỉ ?
Tuấn không hiểu vì sao nữa. Anh cũng băn khoăn như Đàm và tuy lo sợ nhưng lại vẫn nóng lòng muốn biết cuộc phiêu lưu bất đắc dĩ này đưa mình tới đâu. Rồi đây, nếu không thấy hai đứa về, ông Quách Tiến, ông Diệp và Bạch Liên với chị Dung nữa… hẳn sẽ bối rối lắm.
Đột nhiên, trong cơn lo lắng, biết chắc mình đang bị bắt dẫn đến một nơi vô định, Tuấn bỗng thấy nhớ Bạch Liên ghê gớm. Hình ảnh Bạch Liên chợt hiện ra với cặp mắt, nụ cười, và cái nheo mũi tinh nghịch… Rồi đến Khôi, đến Việt, đến Dũng… tất cả những khuôn mặt bằng hữu đó thoáng hiện lên, thoạt như chê trách, riễu cợt, nhưng đồng thời lại như khuyến khích, thúc dục Tuấn phải hành động, phải tìm cách vượt qua cơn thử thách.
Tuấn thấy phấn khởi. Anh đưa mắt ghi nhận phương hướng, đường lối, chú ý từng bụi cây hốc đá, để phòng khi trốn thoát trở về. Anh hỏi Đàm ;
- Cậu biết sở mỏ ở phía nào không ? Nói nghe thôi đừng có chỉ trỏ.
- Phía tay phải. Cách chỗ mình đang đi độ mươi, mười hai cây số.
Im lặng một lát, Đàm thở dài :
- Tôi đã bắt đầu thấy kiến bò trong bụng rồi. Đói quá.
- Tụi mình vẫn còn dư thức ăn trong “sắc” buộc bên yên ngựa. Chừng nào chúng nghỉ lại, mình sẽ ăn. Cũng may sáng nay mình mang đi khá nhiều. Nhưng…
- Nhưng sao ?
Tuấn im. Đàm nháy mắt tiếp :
- Mình cứ để bọn họ cho ăn. Còn phần của mình nên giữ lại phòng khi… mình “chuồn” chứ gì ? Tôi hiểu ý anh rồi. Anh đã có kế gì chưa ?
- Chưa, còn phải nghe ngóng xem đã.
Đàm buồn rầu :
- Sợ họ còn đưa mình đi xa hàng chục cây số nữa. Không hiểu họ bắt tụi mình làm gì ? Có lẽ ở nhà đã xảy ra chuyện gì lộn xộn rồi cũng nên.
- Mình phải cố gắng tìm cách trở về mới được.
Cả hai lại im lặng, đầu óc rối bời những mưu toan.
Còn đang mải suy nghĩ chợt thấy một kỵ mã phóng tới. Hắn cho ngựa đứng rạt sang bên, nghiêm chào người đàn ông cao gầy và nói với nhau bằng tiếng Thượng.
Người mới đến đeo trên vai một khẩu súng trường, bao đạn quấn ngang lưng. Sau vài câu trao đổi hắn cho ngựa quay vào con đường cũ và biến dạng luôn.
Nhóm người áp giải Tuấn Đàm quặt sang bên trái rồi đổ xuống một con dốc mới.
Tiến thêm quãng nữa, đoàn người ngựa xuyên qua khe núi vào một khu lòng chảo khá rộng. Ở đấy có chừng mười hai túp lều dựng sơ sài dựa theo vách núi. Khoảng trống ở giữa có một đống lửa. Vài người đàn bà đang thổi nấu, trong khi những người đàn ông quây quần chung quanh kẻ nằm người ngồi vừa trò chuyện vừa hút thuốc. Họ đứng cả dậy khi đoàn người ngựa tiến vào, và chiếu cặp mắt tò mò nhìn Tuấn Đàm.
Hai cậu con trai được lệnh xuống ngựa. Một người Thượng tháo chiếc sắc buộc trên yên trao trả cho Tuấn, rồi dắt ngựa đem cột chung một chỗ với các con khác. Tuấn Đàm im lặng đứng giữa đám người hiếu kỳ đang ồn ào vây quanh. Người đàn ông cao gầy truyền những lệnh ngắn. Rồi hắn dõng dạc nói với các người hiện diện. Đàm ghé vào tai Tuấn thì thầm :
- Hắn bảo chúng mình là những tù nhân quan trọng, cần phải canh giữ cẩn thận.
Tuấn thắc mắc :
- Tại sao họ cho mình là quan trọng nhỉ ?
- Có lẽ chúng biết tụi mình đã giải thoát anh Phong, nên hắn liệt tụi mình vào hạng nguy hiểm.
Đàm nhìn Tuấn mỉm cười khi nói câu ấy. Tuấn mỉm cười với bạn. Và đám người Thượng vây quanh hai anh cũng toét miệng cười theo, đầy thiện cảm. Trong lốt người rừng rú, thân thể vạm vỡ sạm đen, và tuy trên người đeo đầy vũ khí, họ vẫn không có vẻ chiến binh hay đạo tặc. Cả hai hạng, họ không thuộc hạng nào hết. Họ chỉ là những con người chất phác, hiền lành, rời bỏ nương rẫy rừng sâu, nghe theo tiếng gọi của Hắc Xà, coi Hắc Xà như một thủ lãnh.
Nói với đám người đó xong, người đàn ông quay lại bảo Tuấn Đàm :
- Các cậu vào trú tạm trong lều. Nhớ đừng có lộn xộn mà toi mạng.
Lúc ấy mặt trời đã đứng bóng. Tuấn, Đàm đứng trước đống lửa, dưới ánh nắng bỏng rát nên mồ hôi tuôn ra rỏ giọt. Hai người được dẫn tới túp lều cuối dãy. Lều trống không, trên mặt đất có trải một manh cói ẩm mốc.Người đưa Tuấn, Đàm vào lều tác người bé nhỏ, mớ tóc khô cứng đã điểm bạc, trán thấp, da mặt nhăn nheo, và là người nhiều tuổi nhất bọn. Lão vừa đi vừa nói. Đàm cho Tuấn biết :
- Lão là người canh gác bọn mình. Lão nói mình đừng có trốn, vì nếu trốn lão bắt buộc phải bắn chết. Coi bộ lão cũng hiền lành, tốt bụng.
Trong lều khí nóng thật oi bức. Tuấn, Đàm xin ngồi ngoài cửa cho mát. Lão già bằng lòng, ôm súng ngồi cách đấy mấy bước, miệng phì phào điếu thuốc. Đàm nhìn về phía đống lửa xem bữa ăn trưa đã nấu xong chưa. Hai người đàn bà, một già một trẻ mải cười cợt với những người đàn ông, có vẻ không cần vội lắm.
Đàm càu nhàu :
- Đói hoa mắt lên rồi, không lo dọn cho người ta ăn, còn cứ đủng đỉnh cười cợt mãi ! Anh Tuấn, hình như trong sắc còn gói kẹo phải không ? Anh đưa tôi ăn đỡ vài cái đã.
Tuấn lục sắc lấy kẹo đưa Đàm, trầm giọng nói :
- Chúng mình phải tìm cách chuồn gấp mới được. Ở nhà chắc mọi người nóng lòng vì mình lắm, nhất là lại sắp có cuộc hỗn chiến xảy ra, không tài nào tránh khỏi. Nhất định bọn Hắc Xà đang mưu toan đánh cướp sở mỏ để chiếm lấy kho vàng. Mình phải làm sao trốn thoát nội đêm nay.
Đàm nói :
- Dĩ nhiên là phải trốn, nhưng trốn cách nào bây giờ ? Họ canh gác coi bộ chặt chẽ lắm !
- Phải rình cơ hội. Cậu thử tính xem từ đây về trại mình xa bao nhiêu cây số ?
Đàm suy nghĩ :
- Khoảng độ mười cây.
- Nếu vậy chúng ta có thể đi bộ được…
Tuấn chợt im vì vừa bắt gặp lão già đang chăm chú nhìn hai người như muốn đoán biết các anh nói gì với nhau. Nhưng không, lão chỉ nhìn gói kẹo trên tay Đàm với cặp mắt hau háu. Đàm lấy mấy chiếc chia cho lão, gương mặt lão sáng lên với nụ cười nở rộng. Cầm lấy chiếc kẹo lão hí hởn cám ơn.
Bữa cơm Đàm chờ đợi cũng được mang đến gồm hai tô cơm trộn bắp với một ít thịt rừng. Người đàn bà đưa cơm để lại bầu nước uống và nhoẻn miệng cười thiện cảm.
Đàm vừa ăn vừa gợi chuyện với lão gác, mong tìm hiểu tình thế, nhưng hỏi câu nào lão cũng chỉ lắc đầu cười. Chán nản Tuấn đành ăn cho xong bữa rồi vào lều, nằm lăn ra ngủ.
Cùng lúc ấy ở phía cửa hang, lối vào “cấm thành” và các khe đá, thấp thoáng mấy bóng người tiến ra vây hãm Tuấn và Đàm vào giữa. Người đàn ông đến cách Tuấn Đàm chừng dăm bước thì đứng lại hất hàm hỏi :
- Hai cậu ở đâu ? Tới đây làm gì ?
Đàm mạnh dạn đáp :
- Tôi là con trai ông Quách Tiến, cùng với anh bạn ở Saigon đến đây chơi. Hai con ngựa của chúng tôi, các ông dẫn đi đâu rồi ?
Người đàn ông không trả lời câu hỏi của Đàm. Hắn nở rộng nụ cười :
- À, cậu là con ông Quách Tiến ? Ở cái trại dưới thung lũng kia phải không ?
Đàm gật :
- Vâng. Các ông làm ơn cho chúng tôi biết…
Người đàn ông cắt ngang :
- Các cậu không về nhà nữa, phải đi theo chúng tôi. Các cậu sẽ được đối xử tử tế. Nếu biết điều thì đừng tìm cách trốn, hiểu chưa ?
Giọng hắn đanh thép, lạnh lùng. Đàm sợ xanh mặt, nhưng cũng cố gắng cãi :
- Các ông lấy quyền gì mà bắt chúng tôi theo. Tôi nói cho ông biết…
Người đàn ông như không thèm nghe. Hắn tiến lên. Đàm xoay người toan bỏ chạy. Nhưng một người Thượng đứng gác phía sau đã nắm cứng lấy tay. Tuấn vừa định kháng cự thì người đàn ông đã vung tay tát vào mặt anh :
- Đứng im !
Bị một cái tát nảy đom đóm mắt, Tuấn căm giận hỏi :
- Các ông uy hiếp chúng tôi đi đâu ?
- Rồi sẽ biết. Nơi này ngoạn mục lắm. Các cậu ở lại với chúng tôi độ chừng một tuần, hai tuần hay lâu hơn nữa không chừng. Sau đó các cậu sẽ trở về bình yên. Nghe chưa ? Thôi đi.
Hắn ra lệnh bằng tiếng Thượng cho đồng bọn dẫn Tuấn Đàm đi. Ra khỏi cửa hang của “cấm thành” quẹo xuống một con dốc, Tuấn Đàm thấy hai con ngựa của mình đứng chung với mấy con ngựa khác.
Tất cả lên ngựa khởi hành, lầm lì không nói nửa lời.
Đoàn người ngựa bỏ đường mòn vượt lên triền sỏi đá mấp mô.
Độ nửa giờ chật vật cả bọn mới vượt sang triền núi bên kia, để xuống một thung lũng khác, nhỏ hơn thung lũng Rắn và cũng hoang vu cằn cỗi hơn. Toàn vùng lổn nhổn sỏi đá, với cỏ dại, xương rồng, và bụi gai khô héo.
Đàm và Tuấn đi quãng giữa, chưa dám nói gì với nhau. Thừa lúc vào một đường hẹp, Đàm cho ngựa kèm sát bên Tuấn hỏi nhỏ :
- Không hiểu họ đưa anh em mình đi đâu ?
Tuấn khẽ đáp :
- Chưa biết !
- Tại sao họ lại bắt mình nhỉ ?
Tuấn không hiểu vì sao nữa. Anh cũng băn khoăn như Đàm và tuy lo sợ nhưng lại vẫn nóng lòng muốn biết cuộc phiêu lưu bất đắc dĩ này đưa mình tới đâu. Rồi đây, nếu không thấy hai đứa về, ông Quách Tiến, ông Diệp và Bạch Liên với chị Dung nữa… hẳn sẽ bối rối lắm.
Đột nhiên, trong cơn lo lắng, biết chắc mình đang bị bắt dẫn đến một nơi vô định, Tuấn bỗng thấy nhớ Bạch Liên ghê gớm. Hình ảnh Bạch Liên chợt hiện ra với cặp mắt, nụ cười, và cái nheo mũi tinh nghịch… Rồi đến Khôi, đến Việt, đến Dũng… tất cả những khuôn mặt bằng hữu đó thoáng hiện lên, thoạt như chê trách, riễu cợt, nhưng đồng thời lại như khuyến khích, thúc dục Tuấn phải hành động, phải tìm cách vượt qua cơn thử thách.
Tuấn thấy phấn khởi. Anh đưa mắt ghi nhận phương hướng, đường lối, chú ý từng bụi cây hốc đá, để phòng khi trốn thoát trở về. Anh hỏi Đàm ;
- Cậu biết sở mỏ ở phía nào không ? Nói nghe thôi đừng có chỉ trỏ.
- Phía tay phải. Cách chỗ mình đang đi độ mươi, mười hai cây số.
Im lặng một lát, Đàm thở dài :
- Tôi đã bắt đầu thấy kiến bò trong bụng rồi. Đói quá.
- Tụi mình vẫn còn dư thức ăn trong “sắc” buộc bên yên ngựa. Chừng nào chúng nghỉ lại, mình sẽ ăn. Cũng may sáng nay mình mang đi khá nhiều. Nhưng…
- Nhưng sao ?
Tuấn im. Đàm nháy mắt tiếp :
- Mình cứ để bọn họ cho ăn. Còn phần của mình nên giữ lại phòng khi… mình “chuồn” chứ gì ? Tôi hiểu ý anh rồi. Anh đã có kế gì chưa ?
- Chưa, còn phải nghe ngóng xem đã.
Đàm buồn rầu :
- Sợ họ còn đưa mình đi xa hàng chục cây số nữa. Không hiểu họ bắt tụi mình làm gì ? Có lẽ ở nhà đã xảy ra chuyện gì lộn xộn rồi cũng nên.
- Mình phải cố gắng tìm cách trở về mới được.
Cả hai lại im lặng, đầu óc rối bời những mưu toan.
Còn đang mải suy nghĩ chợt thấy một kỵ mã phóng tới. Hắn cho ngựa đứng rạt sang bên, nghiêm chào người đàn ông cao gầy và nói với nhau bằng tiếng Thượng.
Người mới đến đeo trên vai một khẩu súng trường, bao đạn quấn ngang lưng. Sau vài câu trao đổi hắn cho ngựa quay vào con đường cũ và biến dạng luôn.
Nhóm người áp giải Tuấn Đàm quặt sang bên trái rồi đổ xuống một con dốc mới.
Tiến thêm quãng nữa, đoàn người ngựa xuyên qua khe núi vào một khu lòng chảo khá rộng. Ở đấy có chừng mười hai túp lều dựng sơ sài dựa theo vách núi. Khoảng trống ở giữa có một đống lửa. Vài người đàn bà đang thổi nấu, trong khi những người đàn ông quây quần chung quanh kẻ nằm người ngồi vừa trò chuyện vừa hút thuốc. Họ đứng cả dậy khi đoàn người ngựa tiến vào, và chiếu cặp mắt tò mò nhìn Tuấn Đàm.
Hai cậu con trai được lệnh xuống ngựa. Một người Thượng tháo chiếc sắc buộc trên yên trao trả cho Tuấn, rồi dắt ngựa đem cột chung một chỗ với các con khác. Tuấn Đàm im lặng đứng giữa đám người hiếu kỳ đang ồn ào vây quanh. Người đàn ông cao gầy truyền những lệnh ngắn. Rồi hắn dõng dạc nói với các người hiện diện. Đàm ghé vào tai Tuấn thì thầm :
- Hắn bảo chúng mình là những tù nhân quan trọng, cần phải canh giữ cẩn thận.
Tuấn thắc mắc :
- Tại sao họ cho mình là quan trọng nhỉ ?
- Có lẽ chúng biết tụi mình đã giải thoát anh Phong, nên hắn liệt tụi mình vào hạng nguy hiểm.
Đàm nhìn Tuấn mỉm cười khi nói câu ấy. Tuấn mỉm cười với bạn. Và đám người Thượng vây quanh hai anh cũng toét miệng cười theo, đầy thiện cảm. Trong lốt người rừng rú, thân thể vạm vỡ sạm đen, và tuy trên người đeo đầy vũ khí, họ vẫn không có vẻ chiến binh hay đạo tặc. Cả hai hạng, họ không thuộc hạng nào hết. Họ chỉ là những con người chất phác, hiền lành, rời bỏ nương rẫy rừng sâu, nghe theo tiếng gọi của Hắc Xà, coi Hắc Xà như một thủ lãnh.
Nói với đám người đó xong, người đàn ông quay lại bảo Tuấn Đàm :
- Các cậu vào trú tạm trong lều. Nhớ đừng có lộn xộn mà toi mạng.
Lúc ấy mặt trời đã đứng bóng. Tuấn, Đàm đứng trước đống lửa, dưới ánh nắng bỏng rát nên mồ hôi tuôn ra rỏ giọt. Hai người được dẫn tới túp lều cuối dãy. Lều trống không, trên mặt đất có trải một manh cói ẩm mốc.Người đưa Tuấn, Đàm vào lều tác người bé nhỏ, mớ tóc khô cứng đã điểm bạc, trán thấp, da mặt nhăn nheo, và là người nhiều tuổi nhất bọn. Lão vừa đi vừa nói. Đàm cho Tuấn biết :
- Lão là người canh gác bọn mình. Lão nói mình đừng có trốn, vì nếu trốn lão bắt buộc phải bắn chết. Coi bộ lão cũng hiền lành, tốt bụng.
Trong lều khí nóng thật oi bức. Tuấn, Đàm xin ngồi ngoài cửa cho mát. Lão già bằng lòng, ôm súng ngồi cách đấy mấy bước, miệng phì phào điếu thuốc. Đàm nhìn về phía đống lửa xem bữa ăn trưa đã nấu xong chưa. Hai người đàn bà, một già một trẻ mải cười cợt với những người đàn ông, có vẻ không cần vội lắm.
Đàm càu nhàu :
- Đói hoa mắt lên rồi, không lo dọn cho người ta ăn, còn cứ đủng đỉnh cười cợt mãi ! Anh Tuấn, hình như trong sắc còn gói kẹo phải không ? Anh đưa tôi ăn đỡ vài cái đã.
Tuấn lục sắc lấy kẹo đưa Đàm, trầm giọng nói :
- Chúng mình phải tìm cách chuồn gấp mới được. Ở nhà chắc mọi người nóng lòng vì mình lắm, nhất là lại sắp có cuộc hỗn chiến xảy ra, không tài nào tránh khỏi. Nhất định bọn Hắc Xà đang mưu toan đánh cướp sở mỏ để chiếm lấy kho vàng. Mình phải làm sao trốn thoát nội đêm nay.
Đàm nói :
- Dĩ nhiên là phải trốn, nhưng trốn cách nào bây giờ ? Họ canh gác coi bộ chặt chẽ lắm !
- Phải rình cơ hội. Cậu thử tính xem từ đây về trại mình xa bao nhiêu cây số ?
Đàm suy nghĩ :
- Khoảng độ mười cây.
- Nếu vậy chúng ta có thể đi bộ được…
Tuấn chợt im vì vừa bắt gặp lão già đang chăm chú nhìn hai người như muốn đoán biết các anh nói gì với nhau. Nhưng không, lão chỉ nhìn gói kẹo trên tay Đàm với cặp mắt hau háu. Đàm lấy mấy chiếc chia cho lão, gương mặt lão sáng lên với nụ cười nở rộng. Cầm lấy chiếc kẹo lão hí hởn cám ơn.
Bữa cơm Đàm chờ đợi cũng được mang đến gồm hai tô cơm trộn bắp với một ít thịt rừng. Người đàn bà đưa cơm để lại bầu nước uống và nhoẻn miệng cười thiện cảm.
Đàm vừa ăn vừa gợi chuyện với lão gác, mong tìm hiểu tình thế, nhưng hỏi câu nào lão cũng chỉ lắc đầu cười. Chán nản Tuấn đành ăn cho xong bữa rồi vào lều, nằm lăn ra ngủ.
*
Vài giờ sau Tuấn Đàm thức giấc vì tiếng hò reo và
tiếng vó ngưa khua rồn rập. Ngót hai chục kỵ mã đang tiến vào trại, dong
theo mấy con ngựa thồ những bao nặng trên lưng. Người dẫn đầu đoàn kỵ
mã nhảy xuống nói với người đàn ông cao gầy.
Toàn trại xôn xao, và trong tiếng nói cười huyên náo, họ tháo những bao súng, đạn chuyển vào trong các lều rộng nhất.
Tuấn thốt kêu :
- Kìa Đàm thấy không ? Hình như có cả một khẩu đại liên !
Đàm gật đầu, vẻ mặt lo ngại :
- Đúng rồi, thêm một khẩu nữa là hai !
- Hình như họ dùng nơi này làm căn cứ xuất phát thì phải. Khu lòng chảo này vừa kín đáo, hiểm trở rất thuận lợi cho một cuộc…
Tuấn cau mày tiếp :
- Cuộc âm mưu này không hẳn chỉ nhắm riêng vào vụ đánh cướp kho tàng trên mỏ thôi đâu !
Đàm bần thần đáp :
- Chưa biết họ còn dự tính gì nữa ? Tôi thấy run quá anh Tuấn ạ.
Người thờ ơ nhất trong cuộc náo động là lão già canh gác hai anh em Tuấn. Lão ngồi ngoài cửa lều thản nhiên hút thuốc.
Cảnh náo động lắng dần sau khi dỡ xong các bao nặng trên lưng ngựa. Nhưng toàn trại đều chuẩn bị sẵn sàng.
Chợt từ xa có tiếng nổ vang dội. Tiếng nổ rung chuyển lan rộng vào các vách núi… mà Bạch Liên, Dung và Phong đã nghe dưới thung lũng.
Tuấn, Đàm nhìn nhau ngơ ngác. Mọi người rõi mắt nhìn về phía Thung lũng Rắn. Tên chỉ huy – gã đàn ông cao gầy – ló đầu ra ngoài lều nói một câu làm mọi người hò reo ầm ỹ.
Đàm hỏi :
- Tiếng sấm hay tiếng bom nổ thế anh ?
Tuấn đáp :
- Không rõ tiếng gì. Nhưng dầu sao thì đây cũng là một tiếng nổ.
Và tiếng nổ này có thể là một hiệu lệnh. Cả trại huyên náo trở lại. Viên chỉ huy quát những lệnh ngắn, truyền cho thủ hạ sửa soạn súng đạn. Mấy con ngựa thồ được dắt đến, chở đại liên và hòm đạn. Ngựa chiến được thắng sẵn yên cương, có con chỉ dắt trên lưng một mảnh chăn rách. Hai người đàn bà cũng cấp tốc nấu thêm bữa cơm thứ hai, và không quên đem phần cho Tuấn, Đàm.
Người ngựa chuẩn bị sẵn sàng, chờ đợi một cuộc xuất quân. Mặt trời chìm dần, khuất sau rặng núi phía tây nhường cho hoàng hôn nhuốm màu mờ ảo.
Có tiếng hô vang vọng từ xa. Và lập tức, mọi người – kể cả viên chỉ huy – đứng nghiêm đưa mắt nhìn ra con đường mòn đi vào lòng chảo. Tiếng vó ngựa nghe rồn rập rồi từ khe núi phóng ra bốn kỵ mã. Họ ghì cương, xuống ngựa. Người đi đầu thong thả duyệt qua đoàn người ngựa đang đứng nghiêm chờ lệnh. Khi người ấy bước đến gần lều của Tuấn, Đàm, cả hai đều khẽ thốt:
- Hắc Xà !
Toàn trại xôn xao, và trong tiếng nói cười huyên náo, họ tháo những bao súng, đạn chuyển vào trong các lều rộng nhất.
Tuấn thốt kêu :
- Kìa Đàm thấy không ? Hình như có cả một khẩu đại liên !
Đàm gật đầu, vẻ mặt lo ngại :
- Đúng rồi, thêm một khẩu nữa là hai !
- Hình như họ dùng nơi này làm căn cứ xuất phát thì phải. Khu lòng chảo này vừa kín đáo, hiểm trở rất thuận lợi cho một cuộc…
Tuấn cau mày tiếp :
- Cuộc âm mưu này không hẳn chỉ nhắm riêng vào vụ đánh cướp kho tàng trên mỏ thôi đâu !
Đàm bần thần đáp :
- Chưa biết họ còn dự tính gì nữa ? Tôi thấy run quá anh Tuấn ạ.
Người thờ ơ nhất trong cuộc náo động là lão già canh gác hai anh em Tuấn. Lão ngồi ngoài cửa lều thản nhiên hút thuốc.
Cảnh náo động lắng dần sau khi dỡ xong các bao nặng trên lưng ngựa. Nhưng toàn trại đều chuẩn bị sẵn sàng.
Chợt từ xa có tiếng nổ vang dội. Tiếng nổ rung chuyển lan rộng vào các vách núi… mà Bạch Liên, Dung và Phong đã nghe dưới thung lũng.
Tuấn, Đàm nhìn nhau ngơ ngác. Mọi người rõi mắt nhìn về phía Thung lũng Rắn. Tên chỉ huy – gã đàn ông cao gầy – ló đầu ra ngoài lều nói một câu làm mọi người hò reo ầm ỹ.
Đàm hỏi :
- Tiếng sấm hay tiếng bom nổ thế anh ?
Tuấn đáp :
- Không rõ tiếng gì. Nhưng dầu sao thì đây cũng là một tiếng nổ.
Và tiếng nổ này có thể là một hiệu lệnh. Cả trại huyên náo trở lại. Viên chỉ huy quát những lệnh ngắn, truyền cho thủ hạ sửa soạn súng đạn. Mấy con ngựa thồ được dắt đến, chở đại liên và hòm đạn. Ngựa chiến được thắng sẵn yên cương, có con chỉ dắt trên lưng một mảnh chăn rách. Hai người đàn bà cũng cấp tốc nấu thêm bữa cơm thứ hai, và không quên đem phần cho Tuấn, Đàm.
Người ngựa chuẩn bị sẵn sàng, chờ đợi một cuộc xuất quân. Mặt trời chìm dần, khuất sau rặng núi phía tây nhường cho hoàng hôn nhuốm màu mờ ảo.
Có tiếng hô vang vọng từ xa. Và lập tức, mọi người – kể cả viên chỉ huy – đứng nghiêm đưa mắt nhìn ra con đường mòn đi vào lòng chảo. Tiếng vó ngựa nghe rồn rập rồi từ khe núi phóng ra bốn kỵ mã. Họ ghì cương, xuống ngựa. Người đi đầu thong thả duyệt qua đoàn người ngựa đang đứng nghiêm chờ lệnh. Khi người ấy bước đến gần lều của Tuấn, Đàm, cả hai đều khẽ thốt:
- Hắc Xà !
______________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG IX