CHƯƠNG IV
Ngăn trở đầu tiên tôi gặp ở Saigon là người bà con
của cô tôi: Bác Tuyết. Anh chị An đưa tôi lại nhà bác thì bác đang nằm
điều trị trong bệnh viện. Nhà bác đóng kín cửa không có ai ở nhà.
Người hàng xóm cho biết: Bác bất thần bị bệnh sưng gan, đau tưởng chết
nên hàng xóm chở bác đi bệnh viện ngót tuần nay rồi. Tôi hỏi thăm bệnh
viện bác nằm để đến thăm. Đây là lần đầu tiên tôi gặp mặt bác Tuyết.
Bác xanh xao nằm trên giường nệm trải khăn trắng, yếu đuối bảo tôi:
- Cháu Khánh đấy à? Bác có nhận được thư của cô Trinh cháu. Nhưng rủi quá, vừa được thư thì bác lên cơn đau bất tử phải vô đây nằm. Rồi bây giờ làm sao đây cháu?
Tôi biết làm sao bây giờ?! Tôi đi tìm một nâng đỡ, thì bây giờ chính tôi lại phải làm ra vẻ mạnh dạn để trấn an người tôi định nhờ vả:
- Xin bác cứ yên tâm, tĩnh dưỡng cho khỏe.
- Nhưng rồi cháu lên đây... không lẽ cháu...
Tôi hiểu bác Tuyết muốn nói gì. Chẳng lẽ tôi trở về nhà với cô tôi? Mà ở lại thì lấy ai hướng dẫn tôi giữa thành phố xa lạ nhiều bất trắc này? Tôi ngắt lời bác:
- Cháu lên đây với vợ chồng chị Hương, con bác Sáu. Cháu sẽ nhờ anh chị ấy lo dùm khi cháu còn ở Saigon.
- Phải con ông Sáu, trưởng ty y tế dưới quận đó không?
- Dạ phải.
- Tội nghiệp, cháu lên đây không may gặp lúc bác đau ốm, nhà lại không có ai. Mấy đứa con của bác đứa đi lính, đứa theo chồng đi xa hết rồi.
- Xin bác yên tâm, cháu lo một mình được.
Bác Tuyết nhìn tôi với ánh mắt hoài nghi:
- Cháu tuy có lớn nhưng vẫn còn non dại. Vợ chồng con ông Sáu đi Đalat rồi thì cháu không ở Saigon này một mình được đâu. Cháu nên về Phong Điền với cô cháu là hơn, chờ khi nào bác khỏe, rời bệnh viện về nhà, cháu hãy lên đây. Rồi bác sẽ giúp cháu.
Tôi miễn cưỡng nói thêm ít lời xã giao, hứa hẹn một vài điều và từ giã bác Tuyết.
Ngay chiều hôm đó, tôi viết thư cho cô tôi.
Anh chị An không để tôi bơ vơ một mình. Anh chị gửi tôi vào một nhà trọ quen – nơi chị Hương đã trọ khi còn là nữ sinh Trưng Vương – và giới thiệu tôi với một vài người bạn quen của anh chị. Xong xuôi đâu đó, đôi vợ chồng trẻ ấy chúc tôi gặp nhiều may mắn, rồi mới từ giã tôi lên xe đi Đalat.
Tôi quyết định nán lại Saigon cho tới khi nào tìm ra tông tích những người mà ông Lủ đã ghi trên mảnh giấy. Ít nhất cũng có hai người có mặt tại nơi này.
- Cháu Khánh đấy à? Bác có nhận được thư của cô Trinh cháu. Nhưng rủi quá, vừa được thư thì bác lên cơn đau bất tử phải vô đây nằm. Rồi bây giờ làm sao đây cháu?
Tôi biết làm sao bây giờ?! Tôi đi tìm một nâng đỡ, thì bây giờ chính tôi lại phải làm ra vẻ mạnh dạn để trấn an người tôi định nhờ vả:
- Xin bác cứ yên tâm, tĩnh dưỡng cho khỏe.
- Nhưng rồi cháu lên đây... không lẽ cháu...
Tôi hiểu bác Tuyết muốn nói gì. Chẳng lẽ tôi trở về nhà với cô tôi? Mà ở lại thì lấy ai hướng dẫn tôi giữa thành phố xa lạ nhiều bất trắc này? Tôi ngắt lời bác:
- Cháu lên đây với vợ chồng chị Hương, con bác Sáu. Cháu sẽ nhờ anh chị ấy lo dùm khi cháu còn ở Saigon.
- Phải con ông Sáu, trưởng ty y tế dưới quận đó không?
- Dạ phải.
- Tội nghiệp, cháu lên đây không may gặp lúc bác đau ốm, nhà lại không có ai. Mấy đứa con của bác đứa đi lính, đứa theo chồng đi xa hết rồi.
- Xin bác yên tâm, cháu lo một mình được.
Bác Tuyết nhìn tôi với ánh mắt hoài nghi:
- Cháu tuy có lớn nhưng vẫn còn non dại. Vợ chồng con ông Sáu đi Đalat rồi thì cháu không ở Saigon này một mình được đâu. Cháu nên về Phong Điền với cô cháu là hơn, chờ khi nào bác khỏe, rời bệnh viện về nhà, cháu hãy lên đây. Rồi bác sẽ giúp cháu.
Tôi miễn cưỡng nói thêm ít lời xã giao, hứa hẹn một vài điều và từ giã bác Tuyết.
Ngay chiều hôm đó, tôi viết thư cho cô tôi.
Anh chị An không để tôi bơ vơ một mình. Anh chị gửi tôi vào một nhà trọ quen – nơi chị Hương đã trọ khi còn là nữ sinh Trưng Vương – và giới thiệu tôi với một vài người bạn quen của anh chị. Xong xuôi đâu đó, đôi vợ chồng trẻ ấy chúc tôi gặp nhiều may mắn, rồi mới từ giã tôi lên xe đi Đalat.
Tôi quyết định nán lại Saigon cho tới khi nào tìm ra tông tích những người mà ông Lủ đã ghi trên mảnh giấy. Ít nhất cũng có hai người có mặt tại nơi này.
*
Tôi bắt đầu bằng ký giả Huỳnh Phương.
Theo tôi nghĩ, một ký giả nhà báo phải là người có tiếng tăm. Vì đã đọc báo thì phải biết tên người viết ra bài văn bài báo mình đọc.
Có điều, Saigon thật là nhiều báo. Báo hàng ngày, hàng tuần, bày kín các sạp, hoặc treo đầy cửa quán sách. Nhìn vào cũng thấy hoa mắt lên rồi! Chẳng lẽ tôi phải mua đủ hết từng ấy thứ báo đem về đọc để tìm tên một người!
Trong nhà tôi trú có nhiều nữ sinh trọ học. Đa số là sinh viên đại học rất vui tính, cởi mở, nên cũng dễ làm quen. Sau bữa ăn tối, nhân thấy một chị ngồi đọc báo tôi đến bên gợi chuyện:
- Chị biết ký giả Huỳnh Phương không chị?
Chị ngước nhìn tôi cười:
- Báo nhiều, nên ký giả cũng nhiều. Chị chỉ quen tên vài ba ông trong các báo chị ưa đọc thôi. Em vừa nói tên ký giả nào nhỉ?
- Huỳnh Phương!
- Một ký giả có thể có nhiều bút hiệu, cho nhiều loại bài khác nhau. Chị chưa gặp bài bào ký tên Huỳnh Phương trong mấy tờ báo chị quen đọc cả. Nhưng em hỏi ký giả Huỳnh Phương làm gì? Em biết ông ta à? Ông ta già hay trẻ?
Tôi lúng túng:
- Em không biết ông ta nên mới hỏi thăm chị. Có lẽ ông ta lớn tuổi rồi, vào loại cha chú chúng mình. Em muốn biết ông ta ở báo nào để tìm gặp...
- Bộ em có bài muốn đăng báo hả? Muốn tấp tểnh làm văn chứ gì?
Tôi đỏ mặt. Chuyện viết văn, làm báo, chưa bao giờ tôi dám mơ ước. Nhưng chuyện riêng của tôi, tôi cũng không tiện nói ra với chị.
- Không! Em mà viết lách gì chị! Sở dĩ em tìm gặp ông vì có một chuyện rất cần...
Chị ngồi yên không hỏi nữa, chỉ giữ nụ cười nghịch ngợm trên môi. Có lẽ chị cho rằng tôi đã nói dối vì mắc cỡ. Bằng chứng là vẻ lúng túng và hai vành tai đỏ ửng của tôi! Chắc chị cho tôi là một mầm non văn nghệ, và việc tìm gặp một ký giả lão thành không ngoài mục đích nhờ cậy về văn chương!
Chị hóm hỉnh gặng:
- Cần thật à?
- Dạ cần lắm! Em sẽ mang ơn chị rất nhiều nếu chị giúp được em...
- ?!
- ... Điều tra hộ em xem ký giả Huỳnh Phương hiện viết cho báo nào?
Nhìn nét mặt thành khẩn của tôi, chị không đùa nữa, suy nghĩ rồi bảo:
- Để chị hỏi con nhỏ bạn chị xem. Nó học ở Văn Khoa, chuyên về ngành báo chí chắc nó biết...
Và chị cao giọng nói chõ vào phòng trong, nơi ngồi học của các chị.
- Ê, Trâm, mày có biết ký giả Huỳnh Phương không?
- Biết!
- Làm ơn cho tao tiểu sử của ông ấy đi.
- Chi vậy?
- Ơ, con nhỏ này hay nhỉ! Việc riêng của tao mà. Mày biết thì nói ngay lên dùm tao...
- Mày không nói, tao không bảo!
- Tao... tao giúp một cô bé làm thuyết trình!
Giọng chị Trâm như một cô giáo khi giảng bài:
- Huỳnh Phương là một nhà biên khảo chuyên sưu tầm tài liệu về các di tích lịch sử của nước nhà. Ông đã từng du hành nhiều nơi và viết ra cuốn: "Từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu", cuốn "Di tích người Chàm"... mày chưa đọc hai cuốn này hả, cù lần?
Tôi sợ chị Trâm lại giỡn với bạn hồi nữa, vội thúc chị ngoài này:
- Chị làm ơn hỏi hộ em hiện ông ta đang viết cho báo nào?
Câu hỏi được truyền vào và chị Trâm đáp:
- Ngoài mấy cuốn sách đã xuất bản, ông còn viết cho tờ Tuần san Quê Hương phụ trách mục "Giang sơn gấm vóc" nữa.
Tôi mừng quá, đến nỗi quên cả cám ơn và luýnh quýnh gạt đổ ly nước trên bàn xuống đất. Nghe tiếng thủy tinh vỡ, chị Trâm hỏi vọng ra:
- Chi đó mày, Quyên?
Tôi nhặt những mảnh ly vỡ. Chị Quyên trả lời bạn:
- À! Ly nước đổ đó.
Khi chị cúi xuống nhặt phụ với tôi, tôi hỏi:
- Nhà báo Quê Hương ở đâu chị?
- Ở đường Phạm Ngũ Lão.
Tôi phấp phỏng mong cho đêm qua mau. Ngày mai tôi sẽ đến con đường Phạm Ngũ Lão tìm tòa báo Quê Hương gặp ký giả Huỳnh Phương.
Theo tôi nghĩ, một ký giả nhà báo phải là người có tiếng tăm. Vì đã đọc báo thì phải biết tên người viết ra bài văn bài báo mình đọc.
Có điều, Saigon thật là nhiều báo. Báo hàng ngày, hàng tuần, bày kín các sạp, hoặc treo đầy cửa quán sách. Nhìn vào cũng thấy hoa mắt lên rồi! Chẳng lẽ tôi phải mua đủ hết từng ấy thứ báo đem về đọc để tìm tên một người!
Trong nhà tôi trú có nhiều nữ sinh trọ học. Đa số là sinh viên đại học rất vui tính, cởi mở, nên cũng dễ làm quen. Sau bữa ăn tối, nhân thấy một chị ngồi đọc báo tôi đến bên gợi chuyện:
- Chị biết ký giả Huỳnh Phương không chị?
Chị ngước nhìn tôi cười:
- Báo nhiều, nên ký giả cũng nhiều. Chị chỉ quen tên vài ba ông trong các báo chị ưa đọc thôi. Em vừa nói tên ký giả nào nhỉ?
- Huỳnh Phương!
- Một ký giả có thể có nhiều bút hiệu, cho nhiều loại bài khác nhau. Chị chưa gặp bài bào ký tên Huỳnh Phương trong mấy tờ báo chị quen đọc cả. Nhưng em hỏi ký giả Huỳnh Phương làm gì? Em biết ông ta à? Ông ta già hay trẻ?
Tôi lúng túng:
- Em không biết ông ta nên mới hỏi thăm chị. Có lẽ ông ta lớn tuổi rồi, vào loại cha chú chúng mình. Em muốn biết ông ta ở báo nào để tìm gặp...
- Bộ em có bài muốn đăng báo hả? Muốn tấp tểnh làm văn chứ gì?
Tôi đỏ mặt. Chuyện viết văn, làm báo, chưa bao giờ tôi dám mơ ước. Nhưng chuyện riêng của tôi, tôi cũng không tiện nói ra với chị.
- Không! Em mà viết lách gì chị! Sở dĩ em tìm gặp ông vì có một chuyện rất cần...
Chị ngồi yên không hỏi nữa, chỉ giữ nụ cười nghịch ngợm trên môi. Có lẽ chị cho rằng tôi đã nói dối vì mắc cỡ. Bằng chứng là vẻ lúng túng và hai vành tai đỏ ửng của tôi! Chắc chị cho tôi là một mầm non văn nghệ, và việc tìm gặp một ký giả lão thành không ngoài mục đích nhờ cậy về văn chương!
Chị hóm hỉnh gặng:
- Cần thật à?
- Dạ cần lắm! Em sẽ mang ơn chị rất nhiều nếu chị giúp được em...
- ?!
- ... Điều tra hộ em xem ký giả Huỳnh Phương hiện viết cho báo nào?
Nhìn nét mặt thành khẩn của tôi, chị không đùa nữa, suy nghĩ rồi bảo:
- Để chị hỏi con nhỏ bạn chị xem. Nó học ở Văn Khoa, chuyên về ngành báo chí chắc nó biết...
Và chị cao giọng nói chõ vào phòng trong, nơi ngồi học của các chị.
- Ê, Trâm, mày có biết ký giả Huỳnh Phương không?
- Biết!
- Làm ơn cho tao tiểu sử của ông ấy đi.
- Chi vậy?
- Ơ, con nhỏ này hay nhỉ! Việc riêng của tao mà. Mày biết thì nói ngay lên dùm tao...
- Mày không nói, tao không bảo!
- Tao... tao giúp một cô bé làm thuyết trình!
Giọng chị Trâm như một cô giáo khi giảng bài:
- Huỳnh Phương là một nhà biên khảo chuyên sưu tầm tài liệu về các di tích lịch sử của nước nhà. Ông đã từng du hành nhiều nơi và viết ra cuốn: "Từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu", cuốn "Di tích người Chàm"... mày chưa đọc hai cuốn này hả, cù lần?
Tôi sợ chị Trâm lại giỡn với bạn hồi nữa, vội thúc chị ngoài này:
- Chị làm ơn hỏi hộ em hiện ông ta đang viết cho báo nào?
Câu hỏi được truyền vào và chị Trâm đáp:
- Ngoài mấy cuốn sách đã xuất bản, ông còn viết cho tờ Tuần san Quê Hương phụ trách mục "Giang sơn gấm vóc" nữa.
Tôi mừng quá, đến nỗi quên cả cám ơn và luýnh quýnh gạt đổ ly nước trên bàn xuống đất. Nghe tiếng thủy tinh vỡ, chị Trâm hỏi vọng ra:
- Chi đó mày, Quyên?
Tôi nhặt những mảnh ly vỡ. Chị Quyên trả lời bạn:
- À! Ly nước đổ đó.
Khi chị cúi xuống nhặt phụ với tôi, tôi hỏi:
- Nhà báo Quê Hương ở đâu chị?
- Ở đường Phạm Ngũ Lão.
Tôi phấp phỏng mong cho đêm qua mau. Ngày mai tôi sẽ đến con đường Phạm Ngũ Lão tìm tòa báo Quê Hương gặp ký giả Huỳnh Phương.
*
Tấm biển mang nhãn hiệu tuần báo Quê Hương làm tôi
hồi hộp vô cùng. Tôi chưa hề bước chân vào một nhà báo bao giờ, nên cứ
lượn đi lượn lại hai ba lần ở trước cửa. Nhìn vào thấy mấy đầu người
cúi gằm phía sau quầy, dáng điệu chăm chú, kẻ chống tay đỡ vừng trán với
vẻ suy tư, kẻ như đang triền miên theo giòng chữ viết, khiến tôi càng
rụt rè hơn. Mãi sau, gặp một ông từ bên trong đi ra, đứng nhàn rỗi
trước cửa tôi mới dám tiến lại hỏi:
- Thưa ông, tôi muốn gặp ký giả Huỳnh Phương.
Ông ta mở to mắt nhìn tôi:
- Hả? Cô hỏi ai?
Tôi nhắc:
- Dạ, ký giả Huỳnh Phương; ông ấy có đây không ạ?
- Ồ, cả cô cũng hỏi ông ký giả này nữa à!
Một thoáng lưỡng lự, rồi ông mỉm cười – Tôi không hiểu có gì vui mà ông ta cười như vậy – Ông chỉ tay vào cánh cửa thông với nhà trong, bảo:
- Cô đi thẳng vô, có cầu thang lên lầu, leo tuốt lên trên đó, gõ phòng ông Tổng thư ký báo Quê Hương mà hỏi.
Tôi rụt rè bước bào. Qua cái quầy, mấy đầu người làm việc phía sau không hề ngửng lên. Gian trong là nhà in, chỗ các ấn công đứng sắp chữ. Những người này cũng không thèm nhìn đến tôi. Hình như họ không cần quan tâm đến người lạ từ ngoài bước vào, mặc nhiên cho rằng chỗ họ đứng làm việc là lối đi lên tòa soạn đặt trên lầu. Tuy trông thấy cầu thang, tôi vẫn ngại ngùng hỏi thăm một anh thợ trẻ. Anh chỉ gật đầu, xác nhận điều tôi hỏi là đúng rồi tiếp tục làm nốt công việc của anh. Tôi leo lên cầu thang vừa cúi nhìn những chiếc máy in đặt phía trong cùng. Tiếng máy chạy rầm rập không át nổi nhịp tim đập trong ngực tôi. Người ta gọi tiếng tim đập hồi hộp là tiếng "trống ngực" quả đúng. Tôi nghe rõ tiếng "trống ngực" của tôi càng lúc càng mạnh khi lên tới gần tòa soạn báo Quê Hương.
Tôi gõ cửa. Có tiếng bên trong đáp:
- Mời vô!
Ông Tổng thư ký tòa soạn báo Quê Hương là người đã trọng tuổi. Nét mặt ông nghiêm nghị. Ông ngước nhìn tôi qua cặp mắt kính trắng:
- Cô cần gì?
- Tôi xin gặp ký giả Huỳnh Phương.
Vừa nghe hỏi, ông Tổng thư ký tòa soạn báo Quê Hương bỗng nhiên bừng bừng nổi giận, ông nhảy nhổm trên ghế, giọng gay gắt, gần như quát tháo:
- Tôi không có thì giờ đùa rỡn. Tôi cũng không ưa cái lối đùa nghịch của các cô cậu học trò tinh quái. Đây là một nhà báo và chỗ này chúng tôi cần làm việc, cô nghe rõ chưa? Thôi, chào cô!
Ông đẩy tôi ra đóng sập cửa lại. Tôi ngẩn ngơ bước xuống cầu thang.
Thấy tôi đi ra, người đàn ông mách lối cho tôi hỏi:
- Sao cô? Gặp ông ấy chưa? Vui vẻ chứ?
Tôi sụ mặt:
- Tôi chẳng thấy vui ở chỗ nào hết. Tự nhiên, ông ấy nổi sùng lên với tôi. Người đâu mà bất lịch sự...
Nước mắt tôi ứa ra, giọng uất nghẹn:
- Tôi chỉ mới hỏi đến... ký giả Huỳnh Phương...
- Là hắn nổi sùng lên chứ gì?
- Vâng! Tôi chỉ hỏi có vậy mà ông ấy cho là tôi đùa giỡn.
- Cô không có ý đùa thật à?
Thấy tôi gật đầu mà nước mắt tràn mi người đàn ông có vẻ hối hận, ấp úng tiếp:
- Nguyên là ký giả Huỳnh Phương đã chết cách đây ba năm rồi...
- Ồ!
Tôi bật kêu lên kinh ngạc. Và sững sờ giây lát tôi hỏi:
- Ông ta chết trong một vụ đắm tầu phải không ông?
- Không, ông chết vì bệnh ở nhà thương.
- Bà vợ ông ta còn ở Saigon này không?
- Ông sống độc thân mà! Làm gì có vợ con!
Như vậy là cuộc điều tra về ký giả Huỳnh Phương chấm dứt. Tôi khỏi còn thắc mắc về ông ta nữa, nhưng tôi còn bất mãn về cách tiếp đãi của ông Tổng thư ký báo Quê Hương. Tôi hậm hực nói:
- Dù sao, cái ông ở trên lầu cũng... kỳ cục!
Ông chủ nhà in – bây giờ tôi mới biết – cười hì hì:
- Đó là lỗi tại tôi. Tôi là chủ nhà in này nên biết rõ tính nết các ông nhà báo đến in báo ở đây. Thấy ông chủ bút báo Quê Hương có tính hay bẳn gắt nên tôi định đùa một chút cho vui. Ai ngờ cơn chọc giận này lại đến lượt cô hứng chịu.
- Tại sao thế?
- Vì cô là người thứ ba đến đây hỏi thăm ký giả Huỳnh Phương.
- Những người trước tôi là ai?
- Một người nhỏ thó, không thể đoán được thuộc hạng nào, và một thiếu niên vạm vỡ. Cậu trai này đi với một người bạn, nghe người bạn gọi tên cậu ta là Chương.
- Thưa ông, tôi muốn gặp ký giả Huỳnh Phương.
Ông ta mở to mắt nhìn tôi:
- Hả? Cô hỏi ai?
Tôi nhắc:
- Dạ, ký giả Huỳnh Phương; ông ấy có đây không ạ?
- Ồ, cả cô cũng hỏi ông ký giả này nữa à!
Một thoáng lưỡng lự, rồi ông mỉm cười – Tôi không hiểu có gì vui mà ông ta cười như vậy – Ông chỉ tay vào cánh cửa thông với nhà trong, bảo:
- Cô đi thẳng vô, có cầu thang lên lầu, leo tuốt lên trên đó, gõ phòng ông Tổng thư ký báo Quê Hương mà hỏi.
Tôi rụt rè bước bào. Qua cái quầy, mấy đầu người làm việc phía sau không hề ngửng lên. Gian trong là nhà in, chỗ các ấn công đứng sắp chữ. Những người này cũng không thèm nhìn đến tôi. Hình như họ không cần quan tâm đến người lạ từ ngoài bước vào, mặc nhiên cho rằng chỗ họ đứng làm việc là lối đi lên tòa soạn đặt trên lầu. Tuy trông thấy cầu thang, tôi vẫn ngại ngùng hỏi thăm một anh thợ trẻ. Anh chỉ gật đầu, xác nhận điều tôi hỏi là đúng rồi tiếp tục làm nốt công việc của anh. Tôi leo lên cầu thang vừa cúi nhìn những chiếc máy in đặt phía trong cùng. Tiếng máy chạy rầm rập không át nổi nhịp tim đập trong ngực tôi. Người ta gọi tiếng tim đập hồi hộp là tiếng "trống ngực" quả đúng. Tôi nghe rõ tiếng "trống ngực" của tôi càng lúc càng mạnh khi lên tới gần tòa soạn báo Quê Hương.
Tôi gõ cửa. Có tiếng bên trong đáp:
- Mời vô!
Ông Tổng thư ký tòa soạn báo Quê Hương là người đã trọng tuổi. Nét mặt ông nghiêm nghị. Ông ngước nhìn tôi qua cặp mắt kính trắng:
- Cô cần gì?
- Tôi xin gặp ký giả Huỳnh Phương.
Vừa nghe hỏi, ông Tổng thư ký tòa soạn báo Quê Hương bỗng nhiên bừng bừng nổi giận, ông nhảy nhổm trên ghế, giọng gay gắt, gần như quát tháo:
- Tôi không có thì giờ đùa rỡn. Tôi cũng không ưa cái lối đùa nghịch của các cô cậu học trò tinh quái. Đây là một nhà báo và chỗ này chúng tôi cần làm việc, cô nghe rõ chưa? Thôi, chào cô!
Ông đẩy tôi ra đóng sập cửa lại. Tôi ngẩn ngơ bước xuống cầu thang.
Thấy tôi đi ra, người đàn ông mách lối cho tôi hỏi:
- Sao cô? Gặp ông ấy chưa? Vui vẻ chứ?
Tôi sụ mặt:
- Tôi chẳng thấy vui ở chỗ nào hết. Tự nhiên, ông ấy nổi sùng lên với tôi. Người đâu mà bất lịch sự...
Nước mắt tôi ứa ra, giọng uất nghẹn:
- Tôi chỉ mới hỏi đến... ký giả Huỳnh Phương...
- Là hắn nổi sùng lên chứ gì?
- Vâng! Tôi chỉ hỏi có vậy mà ông ấy cho là tôi đùa giỡn.
- Cô không có ý đùa thật à?
Thấy tôi gật đầu mà nước mắt tràn mi người đàn ông có vẻ hối hận, ấp úng tiếp:
- Nguyên là ký giả Huỳnh Phương đã chết cách đây ba năm rồi...
- Ồ!
Tôi bật kêu lên kinh ngạc. Và sững sờ giây lát tôi hỏi:
- Ông ta chết trong một vụ đắm tầu phải không ông?
- Không, ông chết vì bệnh ở nhà thương.
- Bà vợ ông ta còn ở Saigon này không?
- Ông sống độc thân mà! Làm gì có vợ con!
Như vậy là cuộc điều tra về ký giả Huỳnh Phương chấm dứt. Tôi khỏi còn thắc mắc về ông ta nữa, nhưng tôi còn bất mãn về cách tiếp đãi của ông Tổng thư ký báo Quê Hương. Tôi hậm hực nói:
- Dù sao, cái ông ở trên lầu cũng... kỳ cục!
Ông chủ nhà in – bây giờ tôi mới biết – cười hì hì:
- Đó là lỗi tại tôi. Tôi là chủ nhà in này nên biết rõ tính nết các ông nhà báo đến in báo ở đây. Thấy ông chủ bút báo Quê Hương có tính hay bẳn gắt nên tôi định đùa một chút cho vui. Ai ngờ cơn chọc giận này lại đến lượt cô hứng chịu.
- Tại sao thế?
- Vì cô là người thứ ba đến đây hỏi thăm ký giả Huỳnh Phương.
- Những người trước tôi là ai?
- Một người nhỏ thó, không thể đoán được thuộc hạng nào, và một thiếu niên vạm vỡ. Cậu trai này đi với một người bạn, nghe người bạn gọi tên cậu ta là Chương.
______________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG V