CHƯƠNG XI
QUA LỖ ỐNG KHÓI
Hồi chín rưỡi tối, sau khi chúng tôi ăn cơm xong, bé
Thơ từ nhà trên chạy xuống. Tường Vi, sau một chầu công tác trên dốc Vạn
Sinh canh chừng Hai Ngữ, cảm thấy hơi mệt nên nằm nghỉ ở nhà.
Bốn chúng tôi ngồi yên vị trên nệm cỏ, bắt đầu bàn soạn. Tâm yêu cầu bé Thơ kể lại cho mọi người biết tin tức đã thâu lượm được.
- Đây nhé ! Khi các anh lên xe phóng tới căn nhà bỏ hoang thì Thơ cũng nhằm ấp Tân Lập thẳng tiến, sau khi dặn dò Tường Vi thật kỹ về công tác tại khu dốc Vạn Sinh. Vừa bước ra khỏi cửa, chợt Thơ linh cảm rằng ngày hôm nay, thế nào cũng xẩy ra sự gì mới lạ. Nhân tiện đi ngang sạp báo quen thuộc, bà chủ sạp nhận ra Thơ liền gọi hỏi xem bọn mình có tìm ra địa chỉ chị Sáu Phiên không và chị ấy đã tiếp đón ra sao. Ngay lúc ấy một ông khách bước vào nói với bà chủ sạp báo rằng món tiền chuộc bé Kính đã trao rồi mà chú bé vẫn biệt tăm. Hình như, theo lẽ ra, thời hạn trao trả bé Kính là mười hai tiếng đồng hồ sau khi nhận tiền chuộc. Giây phút bàng hoàng dao động qua đi, bà chủ sạp hỏi ông khách nghe được tin ấy ở đâu. Ông khách cho biết là ngoài phố đồn ầm lên như thế, ông cũng chỉ biết thế thôi.
Tâm cất tiếng hỏi :
- Thế rồi bé Thơ làm gì nữa ?
- Ở sạp báo ra, Thơ thẳng đường lên ấp Tân Lập, vừa đi vừa để ý nghe ngóng. Đến ngả tư Nguyễn Du, gặp hai bà xách giỏ đi chợ đứng nói chuyện với nhau. Hai bà ấy nói lại tất cả những gì Thơ đã nghe tại sạp báo. Để chắc ăn hơn nữa, Thơ liền quẹo qua đường Trần Bình Trọng. Trên vỉa hè, gần nhà bé Kính, có tới sáu bẩy bà đứng bàn tán xôn xao. Một bà có vẻ thạo tin nhất cho mấy bà kia biết rằng món tiền chuộc đã nạp rồi, tại một địa điểm bí mật vùng đồng quê hồi hai giờ đêm qua, nhưng ông bà Tám Vinh vẫn không được một tin tức gì về bé Kính hết. Sau một cái chép miệng, bà ta nói tiếp : “Tội nghiệp ! Sáng nay vợ chồng chị Tám Vinh cứ hí hởn mong đợi từng giây từng phút. Chị ấy lại xào sẵn một đĩa bún tầu với cua bể, món ăn thằng nhỏ thích nhất để dành cho nó, mà rồi không vẫn hoàn không. Buồn quá chừng !
Bé Thơ ngưng nói, Tâm đăm chiêu suy nghĩ, đoạn :
- Vậy thì chuyện ấy có thật. Và nhất định là đêm qua đã có sự gì xẩy ra rồi. Thế việc bé Thơ lên ấp Tân Lập ra sao ? Gác giặc ở trên đó tới mấy giờ ? Có thấy gì khả nghi không ?
- Suốt cả buổi chiều, Thơ không hề thấy bóng dáng Hai Ngữ đâu hết !
- Thế còn Tường Vi ? Tường Vi báo cáo với Thơ về công tác tại dốc Vạn Sinh ra sao ?
Bé Thơ lộ sắc diện nghiêm trọng :
- Tường Vi cho biết là đã phải đi lên đi xuống có tới mười lần cái dốc Vạn Sinh ấy, vì nếu đứng im một chỗ, tất sẽ bị nghi ngay. Thế rồi, khoảng gần năm giờ, Tường Vi gặp một người đàn ông đi ngược lên dốc, lưng cõng một cái túi.
- Một cái túi ? Túi thế nào ?
- Túi loại vẫn dùng để đựng khoai tây mà các anh đã tả cho Thơ biết ấy. Không biết bên trong đựng gì mà coi bộ nặng lắm. Người đàn ông cõng túi rẽ xuống vệ đường phía tay trái, đi vào một trong ba cái cổng tại bức tường không mái ấy.
Bình Trọc chớp mắt thật nhanh :
- Có thể là Hai Ngữ lắm !
Tâm khẽ nghiến răng :
- Đúng chắc rồi chứ còn có thể gì nữa. Đúng là Hai Ngữ đem theo cái mà hắn đã lấy từ hang nấm về đó. Mà không biết cái đó là cái gì thế ?
Câu hỏi của Tâm không lời giải đáp. Bé Thơ :
- Nếu đúng là Hai Ngữ thì chắc hẳn hắn về đó để liên lạc với đồng bọn. Và thế nào bọn gian cũng đã đem bé Kính về đó để đem trao trả hoặc để…
Ý nghĩ ghê rợn khiến cô bé nghẹn lời, không nói tiếp được nữa.
Bình Trọc lớn tiếng :
- Bé Thơ nói đúng : Chìa khóa mở cánh cửa bí mật nhất định chỉ ở trên phố dốc Vạn Sinh. Phải tìm bằng được cái chìa khóa ấy… Và đi tìm ngay bây giờ.
Bé Thơ đứng phắt lên, đôi mắt sáng ngời :
- Phải đấy ! Ngay bây giờ ! Cho Thơ đi với ! Để lên xin phép hai bác Ninh đã. Thơ sẽ nói là đi chơi phố với các anh. Trời tạnh mưa rồi, chắc hai bác không cấm cản đâu.
Mười lăm phút sau, chúng tôi, hết thẩy bốn người, đã băng qua công viên ngập chìm trong bóng tối. Bầu trời lại không trăng, không một vì sao. Thành phố ngủ êm, đèn trong các nhà đã tắt hết.
Bình Trọc đề nghị :
- Chúng mình đi qua Trần Bình Trọng thử coi có gì lạ !
Đường Trần Bình Trọng cũng vậy. Ngoài đèn đường ra, không đâu còn ánh sáng nữa trừ nhà bà Tám Vinh, ánh đèn lọt qua khe cửa sổ đóng im ỉm. Đúng lúc chúng tôi đi ngang, cánh cửa sổ chợt mở tung, một bóng người nhô ra và tôi nghe rõ tiếng nói của bà Tám :
- Trời ơi ! Đâu có phải thằng bé !
Thì ra, tới giờ này, bọn gian vẫn chưa đem bé Kính về trả lại cho ông bà. Chúng còn chờ đợi gì nữa ? Hay là…
Lòng bồn chồn khắc khoải, chúng tôi theo nhau hướng về dốc Vạn Sinh đặt bước. Chẳng mấy chốc đã tới nơi. Trời tối quá. Bình Trọc và Thơ vấp chân vào bậc thềm đá suýt ngã mấy lần.
Thấy mọi người im lặng, con Ca Phi hình như cũng cảm thấy một cái gì nghiêm trọng, cứ đeo sát bên tôi. Tôi rút chiếc mũ nồi của Hai Ngữ ra cho nó ngửi. Ca Phi vểnh hai tai, đôi mắt sáng lên. Nó chạy dọc theo bờ tường đánh hơi rất kỹ ba cánh cửa đóng im ỉm, dừng lại trước khuôn cửa phía bên phải. Đoạn, Ca Phi ngẩng mặt ngó tôi như muốn nói : “Đây rồi ! Cậu Chiêm ! Hắn có đi qua đây !” Việc cần là phải biết bên trong bức tường có những gì ?
Tôi đưa mắt nhìn theo chiều cao bức tường không mái. Có tới hơn ba thước chứ không ít. Tâm đề nghị :
- Tôi đứng dưới cùng. Chiêm trèo lên đứng trên vai tôi. Sau hết là Bình, bé nhất, nhẹ nhất, đứng trên vai Chiêm. Tụi mình chống chắc hai bàn tay vào tường. Như vậy mới không lo ngã.
Bình Trọc đứng trên vai tôi quan sát bên trong một hồi. Nó nhẹ nhàng tụt xuống ghé tai chúng tôi, hạ thấp giọng :
- Bên trong là một cái vườn hoang. Bây giờ Tâm, Chiêm, Thơ đứng rình bên ngoài này. Tôi leo lên vai Chiêm trèo vào bên trong. Phía sau cánh cửa này có một cái ghế cao như ghế của thợ hồ ấy, có thể đặt chân lên được. Rồi tôi mở chốt cửa, cả bọn cùng vào.
Gần năm phút trôi qua. Đột nhiên, con Ca Phi khẽ rùng mình. Có tiếng chốt cửa ai rút nhè nhẹ. Đúng là Bình đang mở chốt. Quả nhiên, cánh cửa nặng từ từ hé mở.
Bình nói thật khẽ :
- Cuối khoảnh vườn này là một căn nhà nhỏ. Có mái cẩn thận nhưng hình như không có ai ở. Bên tay mặt ngay đây lại có một hàng ba chạy dài chẳng hiểu tới đâu. Tôi không dám mò vào sợ lỡ có gì nguy hiểm thì rút lui sao kịp. Bây giờ tụi mình vào hết đi. Chiêm đi trước, dắt con Ca Phi đi kèm.
Con chó khôn ngoan của tôi cũng chỉ chờ có thế. Tôi cúi người thật thấp dắt nó lủi nhanh vào khoảnh vườn hoang mọc toàn cỏ cao rậm và ghé miệng sát tai Ca Phi :
- Coi chừng đó, Ca Phi ! Khe khẽ chứ ! Không được sủa, nghe !
Lời dặn dò hơi thừa. Ca Phi thấy chúng tôi ai nấy cứ im thin thít biết ngay là nó cũng không được phép gây tiếng động. Đòi ngửi chiếc mũ nồi lần nữa, xong đâu đấy, nó nhẹ nhàng tiến thẳng vào hàng ba.
Tiếng Tâm khẽ thoảng bên tai :
- Lạ nhỉ ! Không chừng cái hàng ba này lại dẫn tới một nơi khác chăng ? Căn nhà ở phía kia cơ mà.
Tôi ra dấu cho Tâm im lặng. Rồi một tay giữ dây da cột Ca Phi một tay đưa ra cho bạn nắm. Theo gót Tâm là Bình cũng một tay nắm bạn, một tay dắt bé Thơ. Hàng ba không dài lắm. Đi hết, tới một khoảng sân. Và cuối khoảng sân khá rộng là… một căn nhà thấp. Ánh sáng đèn dầu hôi lọt qua khe cửa sổ nhỏ như sợi chỉ.
Lại tiếng thì thào của Tâm :
- Khẽ chứ ! Coi chừng đó !
Con Ca Phi rúc đầu vào tay tôi, dụi dụi. Mó ra hiệu cho tôi biết là đã nghe được tiếng gì đó. Y như rằng ! Ghé tai sát khe cửa, tôi nghe có tiếng người nói xầm xì ở gian phòng bên trong, gian hiện bọn tôi đang đối diện. Nhất định Hai Ngữ phải có mặt tại đây. Con Ca Phi có vẻ nóng lòng muốn vào ngay lập tức. Toàn thân nó run lên, rít khẽ trong cuống họng, hai chân trước lăm le chỉ chực giơ lên cào cửa. Tôi phải luôn tay kìm giữ nó. Nhưng liệu kìm giữ được bao lâu.
May sao Bình Trọc mò mẫm thế nào lại vớ được một cái thang cũ vất bỏ tại một góc sân. Nó nghĩ ngay ra một kế. Căn nhà thấp không có lầu. Đặt áp cái thang vào tường là có thể dễ dàng leo lên mái. Biết đâu trên mái lại chẳng có lỗ thông hơi có thể nghe rõ tiếng người nói.
Tâm đặt áp thang vào tường, dợm chân đặt lên bậc. Bình Trọc vội vàng níu tay bạn lại, nói nhanh :
- Để tôi, Tâm ! Tôi nhỏ con, nhẹ hơn các anh, không sợ dẫm bể ngói. Để tôi lên cho.
Dứt lời, nó thoăn thoắt bước lên thang, im lặng, nhẹ nhàng không khác một con kiến bám trên cọng cỏ. Chưa đầy phút sau, Bình đã mất hút trên mái nhà. Chúng tôi đứng dưới sân khắc khoải đợi chờ. Mãi sau, mới thấy Bình xuất hiện, thoăn thoắt đi trên mái nhà, thoăn thoắt leo xuống thang.
- Không có lỗ thông hơi. Nhưng có một ống khói lò sưởi. Ghé tai vào lỗ ống khói, tôi nghe văng vẳng có tiếng người nói. Hai người đàn ông và một người đàn bà thì phải.
Tâm khẽ hỏi :
- Hai người đàn ông và một người đàn bà ? Chắc là bọn bắt cóc bé Kính rồi. Có nghe rõ họ nói gì không ?
- Bọn họ nói khẽ lắm, không nghe rõ gì hết. Chiêm thính tai hơn tôi may ra nghe được chăng ?
Tôi liền trao dây da kềm giữ Ca Phi cho bé Thơ đoạn leo lên thang. Tâm dặn với :
- Cứ nhẹ nhàng đặt cả bàn chân lên, đừng kiễng gót, ngói mới không bị vỡ, nghe Chiêm. Ống khói ở phía này này.
Theo hướng tay Tâm chỉ, tôi rón rén đi tới đầu hông trái mái nhà. Ống khói lò sưởi chỉ là một cái ống bằng si măng lớn hơn bắp chân một chút. Tiếng động từ dưới nhà có vang vọng lên cũng đã bị đổi khác đi hết. Đúng như lời Bình nói : có hai giọng trầm trầm do tiếng nói đàn ông. Chốc chốc lại chen vào âm thanh trong trẻo của giọng nói đàn bà. Ghé sát tai vào lỗ hổng ống khói, bất chấp cả bụi than, bồ hóng, tôi nín thở lắng nghe.
Chợt tôi giật bắn người, thiếu chút nữa là nhẩy dựng lên, ngay trên mái ngói. Rõ ràng tiếng đàn bà vừa nói đến tên bé Kính.
Tim đập thình thịch, tôi ghé thật sát tai, cố gắng nghe thêm ít tiếng nữa. May quá, lần này nghe rõ hơn, lao xao như tiếng cãi nhau. Đúng thế ! Rõ ràng tiếng hai người đàn ông đang cãi lộn và hình như người đàn bà không còn ở đó nữa. Âm thanh vang vọng theo ống khói lò sưởi, tiếng còn tiếng mất. Nhưng cố hết sức lắng nghe, tôi ghi được những lời đối thoại như sau :
- Không ! Nhất định không ! Tao không chịu như thế đâu !
- Nhưng tụi mình đã thỏa thuận là đem nó trả lại cho người ta mà.
- Chẳng qua cũng tại mày hết. Mày bị lộ diện trước mắt nó. Hừ !
- Thì lỡ ra chứ ai muốn. Khi không, khăn bịt mặt tuột ngay xuống. Nhưng tôi lại kéo lên lập tức mà.
- Kéo lên lập tức ! Dù sao thằng nhỏ cũng nhìn thấy mặt mày rồi. Thế nào nó cũng nhận ra mày, đó rồi coi ! Lấy được tiền rồi mà bị “chốp” thì đau quá. Tao không chịu.
- Không chịu ! Không chịu thì anh định tính sao đây ?
- Chuyện tao vừa nói hồi nẫy đó.
- Nhưng bao giờ chứ ?
- Càng sớm càng tốt. Trước khi cảnh sát mở cuộc ruồng xét trong đêm nay.
Tiếp theo đó là im lặng. Phút im lặng kéo dài. Tôi lại ghé sát tai cố ghi từng tiếng động, dù rất nhỏ. Tiếng nói chuyện lại vẳng lên nhưng không nghe rõ. Chắc hai tên gian không còn đứng gần lò sưởi nữa. Và không chừng chúng đã rời bỏ gian phòng đó đi đâu rồi chăng ? Tôi đứng thẳng người lên, thốt ra một tiếng rên dài. Tiếng rên ấy Tâm cũng nghe rõ. Vừa xuống hết bậc thang, đã bị Tâm nắm cánh tay :
- Chiêm, sao thế hả ? Tại sao tay lại run lên thế này ?
- Bé Kính… ! Bọn gian sắp đem bé Kính đi đâu đó. Đúng là tụi nó, không sai ! Tụi nó đã lấy tiền chuộc rồi, nhưng lại không đem trả bé Kính cho ông bà Tám. Chúng sắp sửa ra đây đấy.
Tin ghê rợn khiến các bạn tôi ngây người sửng sốt đứng trơ ra như tượng gỗ.
Một lúc sau, Tâm mới quyết định :
- Chúng mình đừng đứng ở sân này nữa. Nhẩy vào trong vườn cỏ cao kia mà nấp. Mau ! Chờ tụi nó mở cửa đi ra chúng mình sẽ đột kích bất thình lình, đồng thời thả Ca Phi ra cho nó cắn xé một phen.
Cả bọn tất tả trở lại hàng ba rồi mò mẫm trong bóng tối, ẩn nấp sau một bụi cây dại.
Tâm khẽ nói với bé Thơ :
- Bé Thơ cứ ngồi im đây, không được làm gì hết nghe chưa ! Cứ để mặc ba đứa tôi. Việc này không phải việc của con gái. Dám có đánh lộn lung tung đó. Nhưng không lo, bên mình có tôi, Bình, Chiêm, ba người. Ca Phi vào nữa coi như là… sáu. Tụi gian chỉ có hai. Chắc không sao đâu. Yên trí !
Mấy phút nặng nề trôi, lâu như mấy thế kỷ.
Bình Trọc sốt ruột nói hơi lớn :
- Không chừng bọn chúng chuồn đi lối cửa khác rồi cũng nên.
Bốn chúng tôi lại rón rén đi vào hàng ba một lần nữa, chạy nhanh qua khoảng sân rồi tới sát căn nhà. Không còn ánh sáng lọt qua khe cửa sổ. Bên trong im lặng như tờ.
- Nguy rồi ! Bọn gian đã đi đâu mất hút.
Bốn chúng tôi ngồi yên vị trên nệm cỏ, bắt đầu bàn soạn. Tâm yêu cầu bé Thơ kể lại cho mọi người biết tin tức đã thâu lượm được.
- Đây nhé ! Khi các anh lên xe phóng tới căn nhà bỏ hoang thì Thơ cũng nhằm ấp Tân Lập thẳng tiến, sau khi dặn dò Tường Vi thật kỹ về công tác tại khu dốc Vạn Sinh. Vừa bước ra khỏi cửa, chợt Thơ linh cảm rằng ngày hôm nay, thế nào cũng xẩy ra sự gì mới lạ. Nhân tiện đi ngang sạp báo quen thuộc, bà chủ sạp nhận ra Thơ liền gọi hỏi xem bọn mình có tìm ra địa chỉ chị Sáu Phiên không và chị ấy đã tiếp đón ra sao. Ngay lúc ấy một ông khách bước vào nói với bà chủ sạp báo rằng món tiền chuộc bé Kính đã trao rồi mà chú bé vẫn biệt tăm. Hình như, theo lẽ ra, thời hạn trao trả bé Kính là mười hai tiếng đồng hồ sau khi nhận tiền chuộc. Giây phút bàng hoàng dao động qua đi, bà chủ sạp hỏi ông khách nghe được tin ấy ở đâu. Ông khách cho biết là ngoài phố đồn ầm lên như thế, ông cũng chỉ biết thế thôi.
Tâm cất tiếng hỏi :
- Thế rồi bé Thơ làm gì nữa ?
- Ở sạp báo ra, Thơ thẳng đường lên ấp Tân Lập, vừa đi vừa để ý nghe ngóng. Đến ngả tư Nguyễn Du, gặp hai bà xách giỏ đi chợ đứng nói chuyện với nhau. Hai bà ấy nói lại tất cả những gì Thơ đã nghe tại sạp báo. Để chắc ăn hơn nữa, Thơ liền quẹo qua đường Trần Bình Trọng. Trên vỉa hè, gần nhà bé Kính, có tới sáu bẩy bà đứng bàn tán xôn xao. Một bà có vẻ thạo tin nhất cho mấy bà kia biết rằng món tiền chuộc đã nạp rồi, tại một địa điểm bí mật vùng đồng quê hồi hai giờ đêm qua, nhưng ông bà Tám Vinh vẫn không được một tin tức gì về bé Kính hết. Sau một cái chép miệng, bà ta nói tiếp : “Tội nghiệp ! Sáng nay vợ chồng chị Tám Vinh cứ hí hởn mong đợi từng giây từng phút. Chị ấy lại xào sẵn một đĩa bún tầu với cua bể, món ăn thằng nhỏ thích nhất để dành cho nó, mà rồi không vẫn hoàn không. Buồn quá chừng !
Bé Thơ ngưng nói, Tâm đăm chiêu suy nghĩ, đoạn :
- Vậy thì chuyện ấy có thật. Và nhất định là đêm qua đã có sự gì xẩy ra rồi. Thế việc bé Thơ lên ấp Tân Lập ra sao ? Gác giặc ở trên đó tới mấy giờ ? Có thấy gì khả nghi không ?
- Suốt cả buổi chiều, Thơ không hề thấy bóng dáng Hai Ngữ đâu hết !
- Thế còn Tường Vi ? Tường Vi báo cáo với Thơ về công tác tại dốc Vạn Sinh ra sao ?
Bé Thơ lộ sắc diện nghiêm trọng :
- Tường Vi cho biết là đã phải đi lên đi xuống có tới mười lần cái dốc Vạn Sinh ấy, vì nếu đứng im một chỗ, tất sẽ bị nghi ngay. Thế rồi, khoảng gần năm giờ, Tường Vi gặp một người đàn ông đi ngược lên dốc, lưng cõng một cái túi.
- Một cái túi ? Túi thế nào ?
- Túi loại vẫn dùng để đựng khoai tây mà các anh đã tả cho Thơ biết ấy. Không biết bên trong đựng gì mà coi bộ nặng lắm. Người đàn ông cõng túi rẽ xuống vệ đường phía tay trái, đi vào một trong ba cái cổng tại bức tường không mái ấy.
Bình Trọc chớp mắt thật nhanh :
- Có thể là Hai Ngữ lắm !
Tâm khẽ nghiến răng :
- Đúng chắc rồi chứ còn có thể gì nữa. Đúng là Hai Ngữ đem theo cái mà hắn đã lấy từ hang nấm về đó. Mà không biết cái đó là cái gì thế ?
Câu hỏi của Tâm không lời giải đáp. Bé Thơ :
- Nếu đúng là Hai Ngữ thì chắc hẳn hắn về đó để liên lạc với đồng bọn. Và thế nào bọn gian cũng đã đem bé Kính về đó để đem trao trả hoặc để…
Ý nghĩ ghê rợn khiến cô bé nghẹn lời, không nói tiếp được nữa.
Bình Trọc lớn tiếng :
- Bé Thơ nói đúng : Chìa khóa mở cánh cửa bí mật nhất định chỉ ở trên phố dốc Vạn Sinh. Phải tìm bằng được cái chìa khóa ấy… Và đi tìm ngay bây giờ.
Bé Thơ đứng phắt lên, đôi mắt sáng ngời :
- Phải đấy ! Ngay bây giờ ! Cho Thơ đi với ! Để lên xin phép hai bác Ninh đã. Thơ sẽ nói là đi chơi phố với các anh. Trời tạnh mưa rồi, chắc hai bác không cấm cản đâu.
Mười lăm phút sau, chúng tôi, hết thẩy bốn người, đã băng qua công viên ngập chìm trong bóng tối. Bầu trời lại không trăng, không một vì sao. Thành phố ngủ êm, đèn trong các nhà đã tắt hết.
Bình Trọc đề nghị :
- Chúng mình đi qua Trần Bình Trọng thử coi có gì lạ !
Đường Trần Bình Trọng cũng vậy. Ngoài đèn đường ra, không đâu còn ánh sáng nữa trừ nhà bà Tám Vinh, ánh đèn lọt qua khe cửa sổ đóng im ỉm. Đúng lúc chúng tôi đi ngang, cánh cửa sổ chợt mở tung, một bóng người nhô ra và tôi nghe rõ tiếng nói của bà Tám :
- Trời ơi ! Đâu có phải thằng bé !
Thì ra, tới giờ này, bọn gian vẫn chưa đem bé Kính về trả lại cho ông bà. Chúng còn chờ đợi gì nữa ? Hay là…
Lòng bồn chồn khắc khoải, chúng tôi theo nhau hướng về dốc Vạn Sinh đặt bước. Chẳng mấy chốc đã tới nơi. Trời tối quá. Bình Trọc và Thơ vấp chân vào bậc thềm đá suýt ngã mấy lần.
Thấy mọi người im lặng, con Ca Phi hình như cũng cảm thấy một cái gì nghiêm trọng, cứ đeo sát bên tôi. Tôi rút chiếc mũ nồi của Hai Ngữ ra cho nó ngửi. Ca Phi vểnh hai tai, đôi mắt sáng lên. Nó chạy dọc theo bờ tường đánh hơi rất kỹ ba cánh cửa đóng im ỉm, dừng lại trước khuôn cửa phía bên phải. Đoạn, Ca Phi ngẩng mặt ngó tôi như muốn nói : “Đây rồi ! Cậu Chiêm ! Hắn có đi qua đây !” Việc cần là phải biết bên trong bức tường có những gì ?
Tôi đưa mắt nhìn theo chiều cao bức tường không mái. Có tới hơn ba thước chứ không ít. Tâm đề nghị :
- Tôi đứng dưới cùng. Chiêm trèo lên đứng trên vai tôi. Sau hết là Bình, bé nhất, nhẹ nhất, đứng trên vai Chiêm. Tụi mình chống chắc hai bàn tay vào tường. Như vậy mới không lo ngã.
Bình Trọc đứng trên vai tôi quan sát bên trong một hồi. Nó nhẹ nhàng tụt xuống ghé tai chúng tôi, hạ thấp giọng :
- Bên trong là một cái vườn hoang. Bây giờ Tâm, Chiêm, Thơ đứng rình bên ngoài này. Tôi leo lên vai Chiêm trèo vào bên trong. Phía sau cánh cửa này có một cái ghế cao như ghế của thợ hồ ấy, có thể đặt chân lên được. Rồi tôi mở chốt cửa, cả bọn cùng vào.
Gần năm phút trôi qua. Đột nhiên, con Ca Phi khẽ rùng mình. Có tiếng chốt cửa ai rút nhè nhẹ. Đúng là Bình đang mở chốt. Quả nhiên, cánh cửa nặng từ từ hé mở.
Bình nói thật khẽ :
- Cuối khoảnh vườn này là một căn nhà nhỏ. Có mái cẩn thận nhưng hình như không có ai ở. Bên tay mặt ngay đây lại có một hàng ba chạy dài chẳng hiểu tới đâu. Tôi không dám mò vào sợ lỡ có gì nguy hiểm thì rút lui sao kịp. Bây giờ tụi mình vào hết đi. Chiêm đi trước, dắt con Ca Phi đi kèm.
Con chó khôn ngoan của tôi cũng chỉ chờ có thế. Tôi cúi người thật thấp dắt nó lủi nhanh vào khoảnh vườn hoang mọc toàn cỏ cao rậm và ghé miệng sát tai Ca Phi :
- Coi chừng đó, Ca Phi ! Khe khẽ chứ ! Không được sủa, nghe !
Lời dặn dò hơi thừa. Ca Phi thấy chúng tôi ai nấy cứ im thin thít biết ngay là nó cũng không được phép gây tiếng động. Đòi ngửi chiếc mũ nồi lần nữa, xong đâu đấy, nó nhẹ nhàng tiến thẳng vào hàng ba.
Tiếng Tâm khẽ thoảng bên tai :
- Lạ nhỉ ! Không chừng cái hàng ba này lại dẫn tới một nơi khác chăng ? Căn nhà ở phía kia cơ mà.
Tôi ra dấu cho Tâm im lặng. Rồi một tay giữ dây da cột Ca Phi một tay đưa ra cho bạn nắm. Theo gót Tâm là Bình cũng một tay nắm bạn, một tay dắt bé Thơ. Hàng ba không dài lắm. Đi hết, tới một khoảng sân. Và cuối khoảng sân khá rộng là… một căn nhà thấp. Ánh sáng đèn dầu hôi lọt qua khe cửa sổ nhỏ như sợi chỉ.
Lại tiếng thì thào của Tâm :
- Khẽ chứ ! Coi chừng đó !
Con Ca Phi rúc đầu vào tay tôi, dụi dụi. Mó ra hiệu cho tôi biết là đã nghe được tiếng gì đó. Y như rằng ! Ghé tai sát khe cửa, tôi nghe có tiếng người nói xầm xì ở gian phòng bên trong, gian hiện bọn tôi đang đối diện. Nhất định Hai Ngữ phải có mặt tại đây. Con Ca Phi có vẻ nóng lòng muốn vào ngay lập tức. Toàn thân nó run lên, rít khẽ trong cuống họng, hai chân trước lăm le chỉ chực giơ lên cào cửa. Tôi phải luôn tay kìm giữ nó. Nhưng liệu kìm giữ được bao lâu.
May sao Bình Trọc mò mẫm thế nào lại vớ được một cái thang cũ vất bỏ tại một góc sân. Nó nghĩ ngay ra một kế. Căn nhà thấp không có lầu. Đặt áp cái thang vào tường là có thể dễ dàng leo lên mái. Biết đâu trên mái lại chẳng có lỗ thông hơi có thể nghe rõ tiếng người nói.
Tâm đặt áp thang vào tường, dợm chân đặt lên bậc. Bình Trọc vội vàng níu tay bạn lại, nói nhanh :
- Để tôi, Tâm ! Tôi nhỏ con, nhẹ hơn các anh, không sợ dẫm bể ngói. Để tôi lên cho.
Dứt lời, nó thoăn thoắt bước lên thang, im lặng, nhẹ nhàng không khác một con kiến bám trên cọng cỏ. Chưa đầy phút sau, Bình đã mất hút trên mái nhà. Chúng tôi đứng dưới sân khắc khoải đợi chờ. Mãi sau, mới thấy Bình xuất hiện, thoăn thoắt đi trên mái nhà, thoăn thoắt leo xuống thang.
- Không có lỗ thông hơi. Nhưng có một ống khói lò sưởi. Ghé tai vào lỗ ống khói, tôi nghe văng vẳng có tiếng người nói. Hai người đàn ông và một người đàn bà thì phải.
Tâm khẽ hỏi :
- Hai người đàn ông và một người đàn bà ? Chắc là bọn bắt cóc bé Kính rồi. Có nghe rõ họ nói gì không ?
- Bọn họ nói khẽ lắm, không nghe rõ gì hết. Chiêm thính tai hơn tôi may ra nghe được chăng ?
Tôi liền trao dây da kềm giữ Ca Phi cho bé Thơ đoạn leo lên thang. Tâm dặn với :
- Cứ nhẹ nhàng đặt cả bàn chân lên, đừng kiễng gót, ngói mới không bị vỡ, nghe Chiêm. Ống khói ở phía này này.
Theo hướng tay Tâm chỉ, tôi rón rén đi tới đầu hông trái mái nhà. Ống khói lò sưởi chỉ là một cái ống bằng si măng lớn hơn bắp chân một chút. Tiếng động từ dưới nhà có vang vọng lên cũng đã bị đổi khác đi hết. Đúng như lời Bình nói : có hai giọng trầm trầm do tiếng nói đàn ông. Chốc chốc lại chen vào âm thanh trong trẻo của giọng nói đàn bà. Ghé sát tai vào lỗ hổng ống khói, bất chấp cả bụi than, bồ hóng, tôi nín thở lắng nghe.
Chợt tôi giật bắn người, thiếu chút nữa là nhẩy dựng lên, ngay trên mái ngói. Rõ ràng tiếng đàn bà vừa nói đến tên bé Kính.
Tim đập thình thịch, tôi ghé thật sát tai, cố gắng nghe thêm ít tiếng nữa. May quá, lần này nghe rõ hơn, lao xao như tiếng cãi nhau. Đúng thế ! Rõ ràng tiếng hai người đàn ông đang cãi lộn và hình như người đàn bà không còn ở đó nữa. Âm thanh vang vọng theo ống khói lò sưởi, tiếng còn tiếng mất. Nhưng cố hết sức lắng nghe, tôi ghi được những lời đối thoại như sau :
- Không ! Nhất định không ! Tao không chịu như thế đâu !
- Nhưng tụi mình đã thỏa thuận là đem nó trả lại cho người ta mà.
- Chẳng qua cũng tại mày hết. Mày bị lộ diện trước mắt nó. Hừ !
- Thì lỡ ra chứ ai muốn. Khi không, khăn bịt mặt tuột ngay xuống. Nhưng tôi lại kéo lên lập tức mà.
- Kéo lên lập tức ! Dù sao thằng nhỏ cũng nhìn thấy mặt mày rồi. Thế nào nó cũng nhận ra mày, đó rồi coi ! Lấy được tiền rồi mà bị “chốp” thì đau quá. Tao không chịu.
- Không chịu ! Không chịu thì anh định tính sao đây ?
- Chuyện tao vừa nói hồi nẫy đó.
- Nhưng bao giờ chứ ?
- Càng sớm càng tốt. Trước khi cảnh sát mở cuộc ruồng xét trong đêm nay.
Tiếp theo đó là im lặng. Phút im lặng kéo dài. Tôi lại ghé sát tai cố ghi từng tiếng động, dù rất nhỏ. Tiếng nói chuyện lại vẳng lên nhưng không nghe rõ. Chắc hai tên gian không còn đứng gần lò sưởi nữa. Và không chừng chúng đã rời bỏ gian phòng đó đi đâu rồi chăng ? Tôi đứng thẳng người lên, thốt ra một tiếng rên dài. Tiếng rên ấy Tâm cũng nghe rõ. Vừa xuống hết bậc thang, đã bị Tâm nắm cánh tay :
- Chiêm, sao thế hả ? Tại sao tay lại run lên thế này ?
- Bé Kính… ! Bọn gian sắp đem bé Kính đi đâu đó. Đúng là tụi nó, không sai ! Tụi nó đã lấy tiền chuộc rồi, nhưng lại không đem trả bé Kính cho ông bà Tám. Chúng sắp sửa ra đây đấy.
Tin ghê rợn khiến các bạn tôi ngây người sửng sốt đứng trơ ra như tượng gỗ.
Một lúc sau, Tâm mới quyết định :
- Chúng mình đừng đứng ở sân này nữa. Nhẩy vào trong vườn cỏ cao kia mà nấp. Mau ! Chờ tụi nó mở cửa đi ra chúng mình sẽ đột kích bất thình lình, đồng thời thả Ca Phi ra cho nó cắn xé một phen.
Cả bọn tất tả trở lại hàng ba rồi mò mẫm trong bóng tối, ẩn nấp sau một bụi cây dại.
Tâm khẽ nói với bé Thơ :
- Bé Thơ cứ ngồi im đây, không được làm gì hết nghe chưa ! Cứ để mặc ba đứa tôi. Việc này không phải việc của con gái. Dám có đánh lộn lung tung đó. Nhưng không lo, bên mình có tôi, Bình, Chiêm, ba người. Ca Phi vào nữa coi như là… sáu. Tụi gian chỉ có hai. Chắc không sao đâu. Yên trí !
Mấy phút nặng nề trôi, lâu như mấy thế kỷ.
Bình Trọc sốt ruột nói hơi lớn :
- Không chừng bọn chúng chuồn đi lối cửa khác rồi cũng nên.
Bốn chúng tôi lại rón rén đi vào hàng ba một lần nữa, chạy nhanh qua khoảng sân rồi tới sát căn nhà. Không còn ánh sáng lọt qua khe cửa sổ. Bên trong im lặng như tờ.
- Nguy rồi ! Bọn gian đã đi đâu mất hút.
CHƯƠNG XII
LẠI MỘT CÁI HANG
Cố nhịn thở, tôi dán tai vào cánh cửa sổ. Không một
tiếng động. Ngay cả Ca Phi cũng không nghe tiếng gì hết. Tâm ghé sát tai
tôi :
- Chắc trong nhà không còn ai nữa đâu. Không chừng tụi nó chuồn lối cửa sau đi ra đường dốc Vạn Sinh, rồi từ đó băng ra bờ sông…
Tôi để ý theo dõi thái độ con Ca Phi :
- Chưa chắc ! Mình bỏ đi bây giờ là hỏng hết. Tâm thấy không ? Con Ca Phi vẫn hăm hở muốn vào kìa.
Bé Thơ tán thành :
- Đúng ! Vào đi, các anh ! Ca Phi không đánh hơi sai bao giờ. Tìm cách mở cửa sổ mà vào. Cánh cửa bằng gỗ ọp ẹp thế kia có thể tìm cách mở được đấy.
Bình Trọc lò mò ở ngoài sân kiếm được một đoạn dây kẽm. Nó lùa vào khe cửa, loay hoay một hồi đã mở được hai cánh gỗ. Nhưng còn cửa kính. May thay, lớp mát tít viền ô kính đã long gần hết. Nậy xong mấy cái đinh nhỏ, Bình đã gỡ được một ô. Nó đưa tay qua lỗ hổng, quay quả đấm sắt. Chớp mắt, hai cánh cửa kính đã mở rộng.
Tôi leo qua thành cửa sổ, nhẩy vào đứng bên trong gian phòng tối om. Ca Phi nhẩy vút theo. Tiếp đó là bé Thơ, Bình và Tâm. Cả bọn dựa lưng vào tường, lắng tai nghe ngóng. Vẫn im lặng như tờ.
Tâm khẽ nói với Bình :
- Đèn bấm đâu ?
Chiếc đèn mới được thay “pin” chắc phải sáng lắm nếu Bình không nhanh ý lấy mùi soa che mặt kính cho mờ bớt đi. Chúng tôi đang đứng trong một gian bếp bẩn thỉu, nhơm nhếch, so với bếp của bà Sáu Phiên đúng là một vực một trời. Tường ẩm mốc, vôi vữa loang lổ rớt ra từng mảng lớn. Phía cuối gian có một cánh cửa. Ca Phi chiếu ngay tia mắt tới chỗ cánh cửa đó. Tâm tiến lại nắm quả đấm xoay mạnh. Cả bọn lại đi vào một gian phòng khác có kê đồ đạc bằng gỗ : Một cái bàn đánh vẹc-ni trắng, một cái tủ cũ, loại tủ “buýp phê” nhưng bên trong không có bát đĩa hoặc đồ uống gì hết, và năm sáu cái ghế dựa.
Bình giơ tay chỉ :
- Đây, chính cái lò sưởi này đã truyền tiếng nói của bọn gian lên trên mái nhà đấy. Tụi nó chắc đã đứng hay ngồi tại cái bàn kia kìa.
Tâm và bé Thơ gật đầu công nhận lời Bình nói là đúng. Trong khi đó, con Ca Phi chỉ lăng xăng đi tìm… cửa ra vào. Thì kìa, phía cuối gian phòng, lại có một khuôn cửa nữa. Cả bọn sáp tới, áp tai vào khe ván. Khi biết chắc là đằng sau cánh cửa không có gì đáng ngại, Tâm xoay quả đấm. Đây mới đúng là một gian phòng ngủ. Sàn nhà trải thảm đàng hoàng nhưng rách một miếng lớn ngay chính giữa. Trong góc, một cái giường sắt bốn chân đã gẫy mất hai. Kê sát tường là một cái tủ lớn không gương, hai cánh đã mọt ruỗng. Trong tủ rỗng không. Sát bên tủ là một cái giá treo đầy quần áo đàn ông. Tôi chỉ cho Ca Phi mớ quần áo đó nhưng nó làm lơ, quay đi. Ý chừng không phải quần áo của Hai Ngữ. Con chó lại chạy tới cuối phòng ngủ. Tâm theo sát gót. Cánh cửa nơi đây vừa hé mở, chúng tôi biết ngay là không còn gian phòng nào tiếp cận nữa. Có nghĩa là cánh cửa này ăn thông… ra ngoài.
Tâm bực bội :
- Biết ngay mà ! Biết ngay là thế nào nhà này cũng có cửa sau. Tụi gian chuồn bằng cửa này đi mất tiêu rồi.
Bé Thơ run giọng :
- Trời ơi ! Nếu vậy thì… bé Kính ! Chúng đưa bé Kính đi để… Trời ơi !
Bình Trọc tức mình, đánh liều bật đèn “pin” sáng quắc tưởng chừng như nếu tình cờ bắt gặp bọn gian, nó dám “nhất sống nhị chết” xông tới ngay.
May sao, dưới ánh đèn, mọi người nhận thấy cánh cửa tuy ăn thông ra ngoài thật, nhưng ngoài đây lại là một cái sân nhỏ có tường cao vây chung quanh. Và nơi bốn bức tường không có một khung cửa nào. Muốn thoát ra, bọn gian chỉ còn có cách duy nhất là leo qua tường, một điều không thể thực hiện được vì chiều cao của bức tường không dưới bốn thước. Hai nữa, tội vạ gì chúng lại phải trèo tường như vậy ? Cứ việc đi ra theo lối đã vào, nghĩa là đàng hoàng mở cửa, đàng hoàng đi ra con đường dốc Vạn Sinh.
Tâm :
- Không chừng tụi nó nghe trên mái nhà do Chiêm và Bình gây ra nên hốt hoảng chuồn êm theo một lối nào khác chăng ?
Tôi cãi ngay :
- Đâu có ! Tụi nó rút lui bình tĩnh lắm mà. Hoảng hốt gì đâu. Chúng không biết Bình và tôi rình trên mái nhà. Bây giờ để Ca Phi đánh hơi dò tìm coi.
Ca Phi kéo tôi ra, tiến tới một góc sân. Chỗ góc này có một tấm vỉ sắt trông như cái nắp cống thoát nước.
Nhưng khi Bình chiếu đèn tới gần, mọi người thấy rõ không phải là nắp cống cũng chẳng phải là giếng nước, sâu khoảng chừng hai thước, trông như một cái bể cạn. Bình chỉ vào một bên thành “bể” tối om :
- Kỳ thật ! Nếu bọn gian nhẩy xuống đây, ắt chúng đã phải kéo theo cái vỉ sắt kia ra rồi chứ. Đằng này cái vỉ vẫn y nguyên tại chỗ mà.
Tâm :
- Bình ngốc lạ ! Sau khi nhẩy xuống rồi, chúng đứng dưới đưa tay kéo cái vỉ đặt lại chỗ cũ cũng được chứ. Bây giờ, mỗi người một tay nhấc lên thử coi.
Nắp vỉ vừa hé mở, Ca Phi đã lao xuống, kéo tôi nhẩy theo. A ! Thì ra đây là cửa vào một cái hầm. Tôi bảo Bình đưa đèn “pin”. Hầm xây bằng đá tảng rất chắc chắn, hướng về phía bờ sông, ăn ngầm dưới chân tường, sâu hun hút không biết đến đâu mới hết.
Từng bước một, chúng tôi thận trọng đi vào cái hang kỳ lạ, cao bằng đầu người lớn, rộng đủ hai người đi lọt. Được chừng ba chục thước, tôi ra hiệu cho cả bọn dừng lại nghe ngóng vì con Ca Phi bỗng nhiên dựng đứng hai tai, đôi mắt chăm chú nhìn về phía trước, dấu hiệu chứng tỏ nó đã nghe được tiếng động gì lạ. Bốn người lại rón rén từng bước một, tiến vào. Chợt bé Thơ khẽ nói :
- Anh Bình ! Đưa Thơ mượn đèn.
Bé Thơ chiếu đèn soi trên trần hang :
- Đúng rồi ! Các anh thấy rõ phía trên cao cũng xây bằng đá lớn. Tường Vi kể chuyện cho Thơ biết hang này nguyên là một cái cống lớn của một ông tỉ phú bỏ tiền ra làm để dẫn nước sông Biên Hòa vào đây cho đầy mấy cái bể bơi ông định xây tặng cho thành phố đấy. Nhưng, cống xây xong, chẳng may ông bị bệnh chết đi nên công cuộc ích lợi chung ấy bị bỏ dở. Đúng rồi đó !
Tâm thắc mắc :
- À, ra thế ! Nhưng rồi sao nữa, bé Thơ ?
- Sao gì ?... Như vậy cái cống này là con đường ngầm dẫn ra sông chớ gì nữa – giọng bé Thơ run run như sắp khóc – Dẫn ra sông, trời ơi ! Ra sông ! Tụi nó dẫn bé Kính ra sông ! Vậy các anh phải mau chân lên chứ. Đi chậm như rùa thế này lỡ tụi nó đem thằng nhỏ xuống thuyền đi mất thì sao ?
Cả bọn đều thấy lạnh buốt xương sống khi nghe câu nói sau chót của bé Thơ, xăm xăm tiến bước. Nhưng, kỳ lạ ! Con Ca Phi, lúc này, cứ được vài bước lại dừng chân, đôi mắt đăm đăm, đôi tai dựng đứng chong về phía trước mặt.
Tâm nói qua hơi thở nhẹ :
- Đi khẽ chứ ! Nhấc chân lên đừng kéo sột soạt để Ca Phi nghe ngóng.
Chưa đầy phút sau, cái mà con chó yêu quý của tôi nghe được đã lọt vào tai cả bọn : tiếng người nói xì xào, tiếng đá lăn lịch kịch từ phía đầu hang đằng kia vẳng tới. Tôi rỉ tai Bình dặn nó đừng bật đèn, đồng thời bảo mọi người ngồi cả xuống, nín hơi nghe ngóng. Tiếng người nói vẳng lại khá rõ cùng với tiếng đá lăn. Rồi, cách khoảng năm chục thước, chợt có ánh đèn chiếu lờ mờ ngay chỗ đường hang lượn cong như hình bán nguyệt.
Tôi hạ thấp giọng :
- Coi chừng ! Tụi nó ở phía sau chỗ hang lượn kia kìa.
Mọi người dè dặt tiến bước, chốc chốc lại ngồi xuống nghe ngóng. Tiếng đá lăn nghe mỗi lúc một rõ. Một ý kiến lóe nhanh trong đầu óc nóng bỏng của tôi. Chắc hẳn tụi gian phi bị nghẽn lối vì đường cống có chỗ bị đá sụt che lấp. Và hiện thời chúng đang giải tỏa bằng cách khiêng dọn đá để lấy lối đi.
Ngồi sệp hẳn xuống sàn hang, tay giữ chắc dây cột Ca Phi, tôi cắn môi suy nghĩ. Làm cách nào để bắt giữ bọn gian mà không bị nguy hiểm ? Tất cả ào ạt xông lên cùng một lúc ? Liệu chúng tôi có đủ sức làm thật nhanh khiến bọn gian không kịp trở tay ? Chỉ chậm một giây đồng hồ, là chúng sẽ quay phắt lại và nếu có súng trong tay, nổ đại luôn mấy phát ?
Tôi chợt nghĩ chỉ có Ca Phi mới đủ sức cứu nguy cho chúng tôi mà thôi. Cứu nguy cho cả bọn, đồng thời cứu nguy cho bé Kính nếu quả thực tụi gian phi đã đem bé Kính tới đây. Đúng thế ! Con Ca Phi nhanh nhẹn hơn chúng tôi nhiều lắm, bước chân của nó lại êm như ru, khí giới của nó vô cùng khủng khiếp tức là những cái răng nanh dài nhọn hoắt, sắc như dao. Nó dư sức lao vào bọn gian nhanh như chớp khiến chúng kkhông kịp trở tay. Tôi lim dim đôi mắt cố hình dung quang cảnh sẽ diễn ra : Ca Phi chồm tới vồ tên Hai Ngữ trước nhất vì gã là con mồi nó đang truy nã. Tên đồng bọn định bảo vệ cho Hai Ngữ thì bị Ca Phi đớp luôn. Còn mụ đàn bà kia tất nhiên sẽ chỉ tìm cách tránh né hàm răng ghê gớm của con chó. Lúc đó, chúng tôi xuất hiện thật nhanh và làm chủ tình hình ngay tức khắc.
Chương trình và kế hoạch hành động của tôi là như thế. Kể cũng đã đâu vào đấy, gọn ghẽ lắm rồi.
Nhưng, tới phút chót tôi lại cảm thấy băn khoăn do dự. Để bảo vệ tôi, để bảo vệ các bạn tôi, Ca Phi xông ra đương đầu với bọn gian, lỡ bị tụi nó nổ súng, lăn quay ra chết, Ca Phi mà chết thì đau buồn cho tôi biết chừng nào. Nhưng thời gian cấp bách quá rồi. Trước khi quyết định rút dây xích, thả Ca Phi ra, tôi ôm đầu nó, rụi mặt vào cổ nó một hồi.
Tiếng đá lăn lịch kịch xen lẫn tiếng thở dài khoái trá của tụi gian nghe càng rõ. Tôi không thể chần chừ nữa. Chúng đã mở được lối đi rồi. Tôi lấy chiếc mũ nồi, để sát mũi Ca Phi cho nó biết là tôi muốn gì đồng thời hạ thấp giọng ra lệnh một cách quyết liệt :
- Ca Phi ! Xông lên. Bắt tên này ! Giữ chặt lấy nó, nghe ! Đi !
Sợi dây da vừa tuột khỏi vòng đai cổ, Ca Phi đã nhún mình nhẩy một cái nhẹ như tên, êm như chiếc lá rơi, y hệt một con beo lao vút tới con mồi. Bốn đứa chúng tôi nín thở đợi chờ.
Chợt có tiếng đàn bà thét lên. Tiếng thét chứng tỏ sự sợ hãi cùng cực. Một tiếng rú tiếp theo, tiếng rú vì bị đau đớn quá sức, rồi là tiếng vật lộn huỳnh huỵch. Tôi đứng phắt lên hét lớn :
- Xung phong !
Đồng thời lao người về phía trước, chạy như bay. Tâm, Bình theo sát đằng sau. Bé Thơ dừng lại, nép vào vách hang, phòng hờ nếu cần sẽ chạy đi kêu cứu, trường hợp chúng tôi bị yếu thế.
May sao, cuộc tấn công đã hết sức bất ngờ. Bị Ca Phi cầm chân, hai tên gian cuống quýt vùng vẫy nhưng không thoát ra được. Mụ đàn bà run như cầy sấy nép vào vách đá, mặt cắt không còn hột máu. Chợt trông thấy ba đứa tôi, mụ hét lên báo động cho đồng bọn :
- Coi chừng, kìa !
Nhưng đã muộn, Tâm lao nhanh chộp giữ Hai Ngữ lúc đó quần áo tơi tả, tóc tai rũ rượi, ống tay áo bên phải bị dứt đứt, để lộ bắp tay mang một vết thương dài bằng ngón tay, rớm máu đỏ tươi. Ca Phi đứng thẳng người bằng hai chân sau, hai chân trước đặt lên bụng tên gian phi, kềm gã áp lưng vào vách đá. Tên đồng bọn đưa tay định rút khẩu súng lục gài ở thắt lưng. Nhưng lẹ hơn, tôi và Bình đã chồm tới, mỗi người ôm một tay gã, đồng thời tôi quát lớn : Ca Phi !
Con chó tung thân mình như mũi tên bật khỏi dây cung, sau khi đẩy bắn Hai Ngữ khiến y ngã xiêu ngã vẹo, chồm đến lẹ như chớp, đặt hai chân trước lên vai gã đồng bọn, mồm “gầu” một tiếng nghe như hổ gầm vang trong hang đá. Cái mõm dài của nó há toang hoác, nhe bộ răng trắng ởn, sắc như răng cưa, bốn răng nanh dài nhọn chỉ chực cắn sâu vào gáy tên gian ác. Tia mắt của nó loang loáng, hết nhìn Hai Ngữ lại đến mụ đàn bà. Tôi vội ra lệnh :
- Không ! Không ! Ca Phi, khoan đã !
Rồi quát bảo hai gã gian phi trong khi Bình nhanh tay tước luôn khẩu súng lục :
- Hai anh khôn hồn thì đứng im, chớ động cựa, giơ hai tay lên ! Nếu không, tôi chỉ quát một tiếng, con chó khổng lồ này sẽ ngoạm nát cổ hai anh lập tức !
Ngực áo vẫn bị Tâm túm chặt, Hai Ngữ rên lên thiểu não :
- Được, được ! Chúng tôi xin vâng… ! Nhưng cậu bảo con chó bỏ Sáu Vạn ra đã. Và cậu gì đây, xin bỏ tôi ra. Chúng tôi không dám chạy đâu.
Tôi khẽ bảo Ca Phi thả Sáu Vạn, đồng thời Tâm cũng buông Hai Ngữ ra. Tôi chỉ quát bảo hai gã đứng sát vào vách cùng với người đàn bà đồng bọn.
- Cả ba người, để hai tay lên đầu. Nhúc nhích là tôi suỵt chó cắn lòi ruột đấy.
Ba kẻ gian riu ríu tuân hành, đứng áp lưng vào tường, hai tay để trên đầu. Ca Phi ngồi cạnh đó canh chừng ráo riết.
Có tiếng bé Thơ :
- Kính, Kính. Bé Kính đâu ? Bé Kính đâu ?
Vừa dứt lời, bé Thơ đã giựt chiếc đèn bấm từ tay Bình Trọc, chiếu về phía cuối hang. Trên đống đá tảng, một bó gì đó, to bằng bó củi, dài dài, quấn trong một chiếc mền bằng dạ xám. Chạy vội đến, bé Thơ lật đật mở lớp chăn dạ. Khuôn mặt trắng bệch của chú bé hiện ra. Bé Thơ chợt rú lên:
- Trời ơi ! Bé Kính đã… đã…
Người đàn bà đoán được lý do hốt hoảng của bé Thơ vội vã nói ngay :
- Không, không phải đâu, cô ! Cháu nhỏ ngủ đấy ! Chúng tôi định đem trao trả cho ba má nó mà.
Tôi ngẫm nghĩ : Có lý nào bé Kính lại ngủ ? Nếu đúng là ngủ, thì tại sao nó không giật mình thức tỉnh khi nghe tiếng vật lộn huỳnh huỵch và tiếng Ca Phi sủa “gầu, gầu” ầm vang trong hang đá ? Bé Thơ cúi sát mặt em nhỏ, đặt tay áp vào ngực :
- A, đúng rồi ! Bé Kính đang ngủ thật ! Tim vẫn còn đập đều hoà.
Đoạn, đưa mũi sát miệng chú nhỏ :
- Kỳ quá ! Hơi thở của bé Kính có mùi gì hăng hắc lạ lắm !
Ngẩng phắt đầu lên, quắc mắt nhìn mụ gian phi, bé Thơ quát lên :
- Các người bắt thằng bé uống thuốc mê cho nó khỏi la lên phải không ?
Người đàn bà tránh tia nhìn của bé Thơ, chối phắt :
- Không đâu cô ! Đằng nào chúng tôi cũng đem nó trao trả mà. Tôi xin thề rằng…
Tâm khẽ nói :
- Đừng nghe lời mụ ta. Cảnh sát sẽ phanh phui ra sự thực. Lo gì ! Việc cần bây giờ là ra khỏi cái hang cống này đã. Thơ bồng bé Kính. Còn mọi việc để tụi này lo.
Ba kẻ gian phi được Tâm ra lệnh bắt quay trở lại, đi lên căn nhà hồi nẫy. Tới nơi, tôi bắt họ dựa lưng vào tường, tay vẫn để trên đầu. Nếu tỏ lộ bất cứ một cử chỉ gì khả nghi, con chó lợi hại sẽ được lệnh tấn công lập tức.
Tâm cắt việc :
- Bây giờ, bé Thơ chạy ngay tới đường Trần Bình Trọng báo tin cho ông bà Tám Vinh biết là đã tìm được bé Kính mười phần mạnh giỏi, nghe. Còn Chiêm, Chiêm đã hai lần lên Cuộc Cảnh Sát, vậy chạy đến cấp báo tin vui này đi.
Tôi không đợi Tâm nói tới hai lần. Có thế chứ ! Đúng là dịp tốt để tôi chứng minh cho mấy ông cảnh sát thấy rằng : Con Ca Phi của tôi cũng biết theo dò dấu vết mà lại theo dò rất đúng là đằng khác.
- Chắc trong nhà không còn ai nữa đâu. Không chừng tụi nó chuồn lối cửa sau đi ra đường dốc Vạn Sinh, rồi từ đó băng ra bờ sông…
Tôi để ý theo dõi thái độ con Ca Phi :
- Chưa chắc ! Mình bỏ đi bây giờ là hỏng hết. Tâm thấy không ? Con Ca Phi vẫn hăm hở muốn vào kìa.
Bé Thơ tán thành :
- Đúng ! Vào đi, các anh ! Ca Phi không đánh hơi sai bao giờ. Tìm cách mở cửa sổ mà vào. Cánh cửa bằng gỗ ọp ẹp thế kia có thể tìm cách mở được đấy.
Bình Trọc lò mò ở ngoài sân kiếm được một đoạn dây kẽm. Nó lùa vào khe cửa, loay hoay một hồi đã mở được hai cánh gỗ. Nhưng còn cửa kính. May thay, lớp mát tít viền ô kính đã long gần hết. Nậy xong mấy cái đinh nhỏ, Bình đã gỡ được một ô. Nó đưa tay qua lỗ hổng, quay quả đấm sắt. Chớp mắt, hai cánh cửa kính đã mở rộng.
Tôi leo qua thành cửa sổ, nhẩy vào đứng bên trong gian phòng tối om. Ca Phi nhẩy vút theo. Tiếp đó là bé Thơ, Bình và Tâm. Cả bọn dựa lưng vào tường, lắng tai nghe ngóng. Vẫn im lặng như tờ.
Tâm khẽ nói với Bình :
- Đèn bấm đâu ?
Chiếc đèn mới được thay “pin” chắc phải sáng lắm nếu Bình không nhanh ý lấy mùi soa che mặt kính cho mờ bớt đi. Chúng tôi đang đứng trong một gian bếp bẩn thỉu, nhơm nhếch, so với bếp của bà Sáu Phiên đúng là một vực một trời. Tường ẩm mốc, vôi vữa loang lổ rớt ra từng mảng lớn. Phía cuối gian có một cánh cửa. Ca Phi chiếu ngay tia mắt tới chỗ cánh cửa đó. Tâm tiến lại nắm quả đấm xoay mạnh. Cả bọn lại đi vào một gian phòng khác có kê đồ đạc bằng gỗ : Một cái bàn đánh vẹc-ni trắng, một cái tủ cũ, loại tủ “buýp phê” nhưng bên trong không có bát đĩa hoặc đồ uống gì hết, và năm sáu cái ghế dựa.
Bình giơ tay chỉ :
- Đây, chính cái lò sưởi này đã truyền tiếng nói của bọn gian lên trên mái nhà đấy. Tụi nó chắc đã đứng hay ngồi tại cái bàn kia kìa.
Tâm và bé Thơ gật đầu công nhận lời Bình nói là đúng. Trong khi đó, con Ca Phi chỉ lăng xăng đi tìm… cửa ra vào. Thì kìa, phía cuối gian phòng, lại có một khuôn cửa nữa. Cả bọn sáp tới, áp tai vào khe ván. Khi biết chắc là đằng sau cánh cửa không có gì đáng ngại, Tâm xoay quả đấm. Đây mới đúng là một gian phòng ngủ. Sàn nhà trải thảm đàng hoàng nhưng rách một miếng lớn ngay chính giữa. Trong góc, một cái giường sắt bốn chân đã gẫy mất hai. Kê sát tường là một cái tủ lớn không gương, hai cánh đã mọt ruỗng. Trong tủ rỗng không. Sát bên tủ là một cái giá treo đầy quần áo đàn ông. Tôi chỉ cho Ca Phi mớ quần áo đó nhưng nó làm lơ, quay đi. Ý chừng không phải quần áo của Hai Ngữ. Con chó lại chạy tới cuối phòng ngủ. Tâm theo sát gót. Cánh cửa nơi đây vừa hé mở, chúng tôi biết ngay là không còn gian phòng nào tiếp cận nữa. Có nghĩa là cánh cửa này ăn thông… ra ngoài.
Tâm bực bội :
- Biết ngay mà ! Biết ngay là thế nào nhà này cũng có cửa sau. Tụi gian chuồn bằng cửa này đi mất tiêu rồi.
Bé Thơ run giọng :
- Trời ơi ! Nếu vậy thì… bé Kính ! Chúng đưa bé Kính đi để… Trời ơi !
Bình Trọc tức mình, đánh liều bật đèn “pin” sáng quắc tưởng chừng như nếu tình cờ bắt gặp bọn gian, nó dám “nhất sống nhị chết” xông tới ngay.
May sao, dưới ánh đèn, mọi người nhận thấy cánh cửa tuy ăn thông ra ngoài thật, nhưng ngoài đây lại là một cái sân nhỏ có tường cao vây chung quanh. Và nơi bốn bức tường không có một khung cửa nào. Muốn thoát ra, bọn gian chỉ còn có cách duy nhất là leo qua tường, một điều không thể thực hiện được vì chiều cao của bức tường không dưới bốn thước. Hai nữa, tội vạ gì chúng lại phải trèo tường như vậy ? Cứ việc đi ra theo lối đã vào, nghĩa là đàng hoàng mở cửa, đàng hoàng đi ra con đường dốc Vạn Sinh.
Tâm :
- Không chừng tụi nó nghe trên mái nhà do Chiêm và Bình gây ra nên hốt hoảng chuồn êm theo một lối nào khác chăng ?
Tôi cãi ngay :
- Đâu có ! Tụi nó rút lui bình tĩnh lắm mà. Hoảng hốt gì đâu. Chúng không biết Bình và tôi rình trên mái nhà. Bây giờ để Ca Phi đánh hơi dò tìm coi.
Ca Phi kéo tôi ra, tiến tới một góc sân. Chỗ góc này có một tấm vỉ sắt trông như cái nắp cống thoát nước.
Nhưng khi Bình chiếu đèn tới gần, mọi người thấy rõ không phải là nắp cống cũng chẳng phải là giếng nước, sâu khoảng chừng hai thước, trông như một cái bể cạn. Bình chỉ vào một bên thành “bể” tối om :
- Kỳ thật ! Nếu bọn gian nhẩy xuống đây, ắt chúng đã phải kéo theo cái vỉ sắt kia ra rồi chứ. Đằng này cái vỉ vẫn y nguyên tại chỗ mà.
Tâm :
- Bình ngốc lạ ! Sau khi nhẩy xuống rồi, chúng đứng dưới đưa tay kéo cái vỉ đặt lại chỗ cũ cũng được chứ. Bây giờ, mỗi người một tay nhấc lên thử coi.
Nắp vỉ vừa hé mở, Ca Phi đã lao xuống, kéo tôi nhẩy theo. A ! Thì ra đây là cửa vào một cái hầm. Tôi bảo Bình đưa đèn “pin”. Hầm xây bằng đá tảng rất chắc chắn, hướng về phía bờ sông, ăn ngầm dưới chân tường, sâu hun hút không biết đến đâu mới hết.
Từng bước một, chúng tôi thận trọng đi vào cái hang kỳ lạ, cao bằng đầu người lớn, rộng đủ hai người đi lọt. Được chừng ba chục thước, tôi ra hiệu cho cả bọn dừng lại nghe ngóng vì con Ca Phi bỗng nhiên dựng đứng hai tai, đôi mắt chăm chú nhìn về phía trước, dấu hiệu chứng tỏ nó đã nghe được tiếng động gì lạ. Bốn người lại rón rén từng bước một, tiến vào. Chợt bé Thơ khẽ nói :
- Anh Bình ! Đưa Thơ mượn đèn.
Bé Thơ chiếu đèn soi trên trần hang :
- Đúng rồi ! Các anh thấy rõ phía trên cao cũng xây bằng đá lớn. Tường Vi kể chuyện cho Thơ biết hang này nguyên là một cái cống lớn của một ông tỉ phú bỏ tiền ra làm để dẫn nước sông Biên Hòa vào đây cho đầy mấy cái bể bơi ông định xây tặng cho thành phố đấy. Nhưng, cống xây xong, chẳng may ông bị bệnh chết đi nên công cuộc ích lợi chung ấy bị bỏ dở. Đúng rồi đó !
Tâm thắc mắc :
- À, ra thế ! Nhưng rồi sao nữa, bé Thơ ?
- Sao gì ?... Như vậy cái cống này là con đường ngầm dẫn ra sông chớ gì nữa – giọng bé Thơ run run như sắp khóc – Dẫn ra sông, trời ơi ! Ra sông ! Tụi nó dẫn bé Kính ra sông ! Vậy các anh phải mau chân lên chứ. Đi chậm như rùa thế này lỡ tụi nó đem thằng nhỏ xuống thuyền đi mất thì sao ?
Cả bọn đều thấy lạnh buốt xương sống khi nghe câu nói sau chót của bé Thơ, xăm xăm tiến bước. Nhưng, kỳ lạ ! Con Ca Phi, lúc này, cứ được vài bước lại dừng chân, đôi mắt đăm đăm, đôi tai dựng đứng chong về phía trước mặt.
Tâm nói qua hơi thở nhẹ :
- Đi khẽ chứ ! Nhấc chân lên đừng kéo sột soạt để Ca Phi nghe ngóng.
Chưa đầy phút sau, cái mà con chó yêu quý của tôi nghe được đã lọt vào tai cả bọn : tiếng người nói xì xào, tiếng đá lăn lịch kịch từ phía đầu hang đằng kia vẳng tới. Tôi rỉ tai Bình dặn nó đừng bật đèn, đồng thời bảo mọi người ngồi cả xuống, nín hơi nghe ngóng. Tiếng người nói vẳng lại khá rõ cùng với tiếng đá lăn. Rồi, cách khoảng năm chục thước, chợt có ánh đèn chiếu lờ mờ ngay chỗ đường hang lượn cong như hình bán nguyệt.
Tôi hạ thấp giọng :
- Coi chừng ! Tụi nó ở phía sau chỗ hang lượn kia kìa.
Mọi người dè dặt tiến bước, chốc chốc lại ngồi xuống nghe ngóng. Tiếng đá lăn nghe mỗi lúc một rõ. Một ý kiến lóe nhanh trong đầu óc nóng bỏng của tôi. Chắc hẳn tụi gian phi bị nghẽn lối vì đường cống có chỗ bị đá sụt che lấp. Và hiện thời chúng đang giải tỏa bằng cách khiêng dọn đá để lấy lối đi.
Ngồi sệp hẳn xuống sàn hang, tay giữ chắc dây cột Ca Phi, tôi cắn môi suy nghĩ. Làm cách nào để bắt giữ bọn gian mà không bị nguy hiểm ? Tất cả ào ạt xông lên cùng một lúc ? Liệu chúng tôi có đủ sức làm thật nhanh khiến bọn gian không kịp trở tay ? Chỉ chậm một giây đồng hồ, là chúng sẽ quay phắt lại và nếu có súng trong tay, nổ đại luôn mấy phát ?
Tôi chợt nghĩ chỉ có Ca Phi mới đủ sức cứu nguy cho chúng tôi mà thôi. Cứu nguy cho cả bọn, đồng thời cứu nguy cho bé Kính nếu quả thực tụi gian phi đã đem bé Kính tới đây. Đúng thế ! Con Ca Phi nhanh nhẹn hơn chúng tôi nhiều lắm, bước chân của nó lại êm như ru, khí giới của nó vô cùng khủng khiếp tức là những cái răng nanh dài nhọn hoắt, sắc như dao. Nó dư sức lao vào bọn gian nhanh như chớp khiến chúng kkhông kịp trở tay. Tôi lim dim đôi mắt cố hình dung quang cảnh sẽ diễn ra : Ca Phi chồm tới vồ tên Hai Ngữ trước nhất vì gã là con mồi nó đang truy nã. Tên đồng bọn định bảo vệ cho Hai Ngữ thì bị Ca Phi đớp luôn. Còn mụ đàn bà kia tất nhiên sẽ chỉ tìm cách tránh né hàm răng ghê gớm của con chó. Lúc đó, chúng tôi xuất hiện thật nhanh và làm chủ tình hình ngay tức khắc.
Chương trình và kế hoạch hành động của tôi là như thế. Kể cũng đã đâu vào đấy, gọn ghẽ lắm rồi.
Nhưng, tới phút chót tôi lại cảm thấy băn khoăn do dự. Để bảo vệ tôi, để bảo vệ các bạn tôi, Ca Phi xông ra đương đầu với bọn gian, lỡ bị tụi nó nổ súng, lăn quay ra chết, Ca Phi mà chết thì đau buồn cho tôi biết chừng nào. Nhưng thời gian cấp bách quá rồi. Trước khi quyết định rút dây xích, thả Ca Phi ra, tôi ôm đầu nó, rụi mặt vào cổ nó một hồi.
Tiếng đá lăn lịch kịch xen lẫn tiếng thở dài khoái trá của tụi gian nghe càng rõ. Tôi không thể chần chừ nữa. Chúng đã mở được lối đi rồi. Tôi lấy chiếc mũ nồi, để sát mũi Ca Phi cho nó biết là tôi muốn gì đồng thời hạ thấp giọng ra lệnh một cách quyết liệt :
- Ca Phi ! Xông lên. Bắt tên này ! Giữ chặt lấy nó, nghe ! Đi !
Sợi dây da vừa tuột khỏi vòng đai cổ, Ca Phi đã nhún mình nhẩy một cái nhẹ như tên, êm như chiếc lá rơi, y hệt một con beo lao vút tới con mồi. Bốn đứa chúng tôi nín thở đợi chờ.
Chợt có tiếng đàn bà thét lên. Tiếng thét chứng tỏ sự sợ hãi cùng cực. Một tiếng rú tiếp theo, tiếng rú vì bị đau đớn quá sức, rồi là tiếng vật lộn huỳnh huỵch. Tôi đứng phắt lên hét lớn :
- Xung phong !
Đồng thời lao người về phía trước, chạy như bay. Tâm, Bình theo sát đằng sau. Bé Thơ dừng lại, nép vào vách hang, phòng hờ nếu cần sẽ chạy đi kêu cứu, trường hợp chúng tôi bị yếu thế.
May sao, cuộc tấn công đã hết sức bất ngờ. Bị Ca Phi cầm chân, hai tên gian cuống quýt vùng vẫy nhưng không thoát ra được. Mụ đàn bà run như cầy sấy nép vào vách đá, mặt cắt không còn hột máu. Chợt trông thấy ba đứa tôi, mụ hét lên báo động cho đồng bọn :
- Coi chừng, kìa !
Nhưng đã muộn, Tâm lao nhanh chộp giữ Hai Ngữ lúc đó quần áo tơi tả, tóc tai rũ rượi, ống tay áo bên phải bị dứt đứt, để lộ bắp tay mang một vết thương dài bằng ngón tay, rớm máu đỏ tươi. Ca Phi đứng thẳng người bằng hai chân sau, hai chân trước đặt lên bụng tên gian phi, kềm gã áp lưng vào vách đá. Tên đồng bọn đưa tay định rút khẩu súng lục gài ở thắt lưng. Nhưng lẹ hơn, tôi và Bình đã chồm tới, mỗi người ôm một tay gã, đồng thời tôi quát lớn : Ca Phi !
Con chó tung thân mình như mũi tên bật khỏi dây cung, sau khi đẩy bắn Hai Ngữ khiến y ngã xiêu ngã vẹo, chồm đến lẹ như chớp, đặt hai chân trước lên vai gã đồng bọn, mồm “gầu” một tiếng nghe như hổ gầm vang trong hang đá. Cái mõm dài của nó há toang hoác, nhe bộ răng trắng ởn, sắc như răng cưa, bốn răng nanh dài nhọn chỉ chực cắn sâu vào gáy tên gian ác. Tia mắt của nó loang loáng, hết nhìn Hai Ngữ lại đến mụ đàn bà. Tôi vội ra lệnh :
- Không ! Không ! Ca Phi, khoan đã !
Rồi quát bảo hai gã gian phi trong khi Bình nhanh tay tước luôn khẩu súng lục :
- Hai anh khôn hồn thì đứng im, chớ động cựa, giơ hai tay lên ! Nếu không, tôi chỉ quát một tiếng, con chó khổng lồ này sẽ ngoạm nát cổ hai anh lập tức !
Ngực áo vẫn bị Tâm túm chặt, Hai Ngữ rên lên thiểu não :
- Được, được ! Chúng tôi xin vâng… ! Nhưng cậu bảo con chó bỏ Sáu Vạn ra đã. Và cậu gì đây, xin bỏ tôi ra. Chúng tôi không dám chạy đâu.
Tôi khẽ bảo Ca Phi thả Sáu Vạn, đồng thời Tâm cũng buông Hai Ngữ ra. Tôi chỉ quát bảo hai gã đứng sát vào vách cùng với người đàn bà đồng bọn.
- Cả ba người, để hai tay lên đầu. Nhúc nhích là tôi suỵt chó cắn lòi ruột đấy.
Ba kẻ gian riu ríu tuân hành, đứng áp lưng vào tường, hai tay để trên đầu. Ca Phi ngồi cạnh đó canh chừng ráo riết.
Có tiếng bé Thơ :
- Kính, Kính. Bé Kính đâu ? Bé Kính đâu ?
Vừa dứt lời, bé Thơ đã giựt chiếc đèn bấm từ tay Bình Trọc, chiếu về phía cuối hang. Trên đống đá tảng, một bó gì đó, to bằng bó củi, dài dài, quấn trong một chiếc mền bằng dạ xám. Chạy vội đến, bé Thơ lật đật mở lớp chăn dạ. Khuôn mặt trắng bệch của chú bé hiện ra. Bé Thơ chợt rú lên:
- Trời ơi ! Bé Kính đã… đã…
Người đàn bà đoán được lý do hốt hoảng của bé Thơ vội vã nói ngay :
- Không, không phải đâu, cô ! Cháu nhỏ ngủ đấy ! Chúng tôi định đem trao trả cho ba má nó mà.
Tôi ngẫm nghĩ : Có lý nào bé Kính lại ngủ ? Nếu đúng là ngủ, thì tại sao nó không giật mình thức tỉnh khi nghe tiếng vật lộn huỳnh huỵch và tiếng Ca Phi sủa “gầu, gầu” ầm vang trong hang đá ? Bé Thơ cúi sát mặt em nhỏ, đặt tay áp vào ngực :
- A, đúng rồi ! Bé Kính đang ngủ thật ! Tim vẫn còn đập đều hoà.
Đoạn, đưa mũi sát miệng chú nhỏ :
- Kỳ quá ! Hơi thở của bé Kính có mùi gì hăng hắc lạ lắm !
Ngẩng phắt đầu lên, quắc mắt nhìn mụ gian phi, bé Thơ quát lên :
- Các người bắt thằng bé uống thuốc mê cho nó khỏi la lên phải không ?
Người đàn bà tránh tia nhìn của bé Thơ, chối phắt :
- Không đâu cô ! Đằng nào chúng tôi cũng đem nó trao trả mà. Tôi xin thề rằng…
Tâm khẽ nói :
- Đừng nghe lời mụ ta. Cảnh sát sẽ phanh phui ra sự thực. Lo gì ! Việc cần bây giờ là ra khỏi cái hang cống này đã. Thơ bồng bé Kính. Còn mọi việc để tụi này lo.
Ba kẻ gian phi được Tâm ra lệnh bắt quay trở lại, đi lên căn nhà hồi nẫy. Tới nơi, tôi bắt họ dựa lưng vào tường, tay vẫn để trên đầu. Nếu tỏ lộ bất cứ một cử chỉ gì khả nghi, con chó lợi hại sẽ được lệnh tấn công lập tức.
Tâm cắt việc :
- Bây giờ, bé Thơ chạy ngay tới đường Trần Bình Trọng báo tin cho ông bà Tám Vinh biết là đã tìm được bé Kính mười phần mạnh giỏi, nghe. Còn Chiêm, Chiêm đã hai lần lên Cuộc Cảnh Sát, vậy chạy đến cấp báo tin vui này đi.
Tôi không đợi Tâm nói tới hai lần. Có thế chứ ! Đúng là dịp tốt để tôi chứng minh cho mấy ông cảnh sát thấy rằng : Con Ca Phi của tôi cũng biết theo dò dấu vết mà lại theo dò rất đúng là đằng khác.
__________________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG XIII, XIV