CHƯƠNG V
Anh Sít-nê tôi bây giờ lên
mười bốn tuổi, đã rời trường học và giữ chân bưu tín viên ở nhà dây thép gần
đấy. Nhờ cái đồng lương nhỏ nhoi của anh và tiền mẹ tôi kiếm được trong sự may
vá, chúng tôi cũng sống đắp đổi qua ngày. Tiền mẹ tôi kiếm thật là ít ỏi mà
công việc bà thật là nặng nề. Thường thường, buổi tối, tôi thức nhìn bà cúi
khòm người trên máy may, ngọn đèn dầu hôi tỏa sáng lờ mờ chung quanh đầu bà và
khuôn mặt bà cúi xuống trong khoảng tranh tối tranh sáng, đôi môi của bà hé ra
theo sự điều khiển đường may chạy nhanh dưới mũi kim máy, và cứ như thế tiếng
máy đều đều đưa tôi vào trong giấc ngủ. Khi phải làm khuya như vậy, thường là
cần phải thanh toán một món nợ nào. Không kể hàng tuần phải trả tiền góp chiếc
máy may đó.
Một cuộc khủng hoảng xảy ra
: anh Sít-nê cần có bộ đồ mới. Mọi khi anh vẫn mặc bộ đồng phục của bưu tín
viên để mà đi làm, mặc luôn cả ngày chủ nhật, cho đến một lúc bạn bè của anh
diễu cợt quá sá điều đó. Suốt hai tuần liền, vào ngày nghỉ việc, anh phải ở mãi
trong nhà, cho đến khi mẹ chúng tôi tìm cách mua về cho anh một bộ quần áo nỉ
xanh. Tôi cũng không hiểu làm sao mà bà tìm được mười tám “xi linh” để mua sắm.
Số tiền ấy làm điên đảo đời sống kinh tế chúng tôi, đến nỗi mẹ tôi cứ mỗi buổi
sáng thứ hai lại đem bộ quần áo ấy gởi tiệm cầm đồ vì vào ngày đó anh tôi đã đi
làm việc với bộ đồng phục của sở, rồi đến thứ bẩy bà lại mang tiền đến chuộc
cho anh tôi mặc vào trong ngày nghỉ. Cứ thế cầm đi cầm lại suốt một năm trời
cho đến cái ngày bộ quần áo kia đã cũ mèm rồi. Và chúng tôi gặp một nỗi khó
khăn đáng kể.
Theo như lệ thường buổi sáng
thứ hai hôm đó mẹ tôi đem bộ quần áo đến tiệm cầm đồ. Ông chủ tiệm tỏ một ý
lưỡng lự:
- Thưa bà, chúng tôi không
sao đưa món tiền cũ cho bà mượn được.
Mẹ tôi ngạc nhiên:
- Sao vậy, thưa ông?
- Thiệt là bất lợi cho chúng
tôi quá, vì bà coi xem, cái quần đã mòn hết rồi.
Rồi ông luồn tay dưới đáy:
- Nhìn xem, có thể ngó xuyên
qua được đây này.
Mẹ tôi gặng lại:
- Nhưng thứ bảy sau chúng
tôi sẽ lấy lại mà.
Người chủ tiệm vẫn lắc đầu:
- Cùng lắm chúng tôi có thể
giao bà ba đồng là tiền chiếc áo mà thôi.
Mẹ tôi rất ít khi khóc,
nhưng sau chuyện đó bà đã đầm đìa nước mắt. Bà vẫn trông vào bảy đồng cầm bộ
quần áo để mà sống qua tuần lễ.
Quần áo của tôi thật ra cũng
tả tơi rồi. Bộ đồ trình diễn ở trong đoàn vũ được đem mặc mãi bây giờ coi thực
hết sức nham nhở. Chỗ nào cũng có miếng vá, ở cùi, ở quần, ở vớ.
Một hôm từ nhà thương về mẹ
tôi thấy một đám trẻ chọc ghẹo một bà cụ già tả tơi, dơ bẩn, nên dừng lại để la
chúng. Tóc bà cụ bị cạo sạch, một điều hiếm thấy vào thời đó, và lũ trẻ con vừa
cười vừa xô đẩy nhau trước bà, nhăn những bộ mặt gớm ghiếc làm như đụng chạm
đến bà là bị truyền nhiễm lập tức. Người đàn bà khốn khổ kia đứng yên như một
con nai đã bị săn đuổi đến bước đường cùng thì vừa kịp lúc mẹ tôi can thiệp.
Liền đó bà ta cũng nhận ra được mẹ tôi, kêu lên:
- Lin không nhìn ra mình
sao? Ê-va đây mà!
Lin là biệt danh mẹ tôi dùng
trong đoàn hát. Mẹ tôi nhận ngay được người bạn cũ vào thời ở ca nhạc đường.
Lúc ấy tôi bối rối quá nên tôi đi thẳng và ngồi đợi mẹ tôi ở góc đường. Bọn trẻ
đi qua trước tôi vừa cười và nói những lời diễu cợt. Tôi giận không biết chừng
nào. Tôi quay lại nhìn mẹ tôi xem có việc gì xảy ra và thấy hai người đàn bà
đang tiến dần về phía tôi. Rồi mẹ tôi hỏi bà kia:
- Còn nhớ thằng bé Sác-li
của mình đấy không?
- Nhớ chứ – Người đàn bà nói
với giọng thấm đầy nước mắt – tôi bồng nó hoài hồi nó còn nhỏ đấy mà.
Cái ý tưởng đó làm tôi khổ
tâm vì người đàn bà trông thật dơ bẩn và gớm ghiếc quá. Lại càng bối rối hơn
nữa là cứ nhìn thấy trên đường mà chúng tôi đi nhiều người quay lại để nhìn.
Người đàn bà kia một thời đã được nổi danh xinh đẹp. Nhưng khi đã tàn tạ rồi,
không còn theo đuổi được nghiệp cầm ca lại bị đau ốm nằm lâu ở trong bệnh viện
nên lúc ra khỏi nhà thương phải ngủ ở dưới gầm cầu và trong những nhà cứu trợ. Mẹ
tôi dẫn bà đi tắm ở nơi phòng tắm công cộng rồi đưa về nhà, điều đó làm tôi
hoảng quá. Tôi không làm sao biết được có phải bị bệnh mà bà lâm vào tình trạng
như thế hay không. Có điều mà tôi nhận thấy hết sức khó coi là bà nằm ngủ trên
giường của anh Sít-nê. Mẹ tôi chia sớt cho bà một ít áo quần, đưa cho bà mượn
vài đồng xi linh, rồi sau ba ngày nghỉ ngơi ở nhà chúng tôi bà lại ra đi. Kể từ
ngày ấy tôi không bao giờ nghe nói về bà ta nữa.
Tiệm nước Ba Con Nai ở trong
thành phố không phải là nơi cha tôi thường đến nhưng một buổi chiều đi ngang
qua đấy tự nhiên tôi muốn dòm vào bên trong xem có ông không. Tôi hé cửa nhìn
vào và thấy cha tôi ngồi trong góc phòng. Tôi tính bỏ đi nhưng sắc diện ông đột
nhiên bừng sáng và ông làm dấu để gọi tôi vào. Thái độ của ông làm tôi ngạc
nhiên vì ông ít khi cởi mở như thế. Trông ông có vẻ đau nặng. Đôi mắt hõm sâu
và khắp người đều phù thũng. Một tay ông đặt vô ngực, theo kiểu của Nã Phá
Luân, có lẽ để cho dễ thở. Buổi chiều hôm ấy ông tỏ ra rất ân cần với tội, hỏi
thăm tin tức mẹ tôi và anh Sít-nê, và trước khi tôi ra về ông còn ôm tôi vào
lòng và lần đầu tiên ông đã hôn tôi. Đó cũng là lần cuối cùng tôi nhìn thấy ông
trong cõi đời này.
Ba tuần sau người ta đưa ông
vào bệnh viện Thánh Tô Ma. Phải cho ông nốc rượu say rồi mới đưa ông đi được.
Khi ông biết mình ở đâu, ông vùng vẫy thật dữ dội, nhưng với bệnh tình như thế
ông không thể nào thoát khỏi. Ông đã qua đời vì chứng thủy thũng lúc còn quá
trẻ, ba mươi bảy tuổi. Người ta đã rút từ đầu gối của ông ra gần hai mươi lít nước.
Mẹ tôi đã đến nhiều lần thăm ông và những chuyến thăm viếng ấy càng làm cho bà
buồn thêm. Bà kể rằng ông đã nói với bà ước muốn được quay lại sống bên bà và
cùng qua bên Phi Châu làm lại cuộc đời. Khi tôi tỏ ra vui mừng trước một viễn
ảnh như thế thì mẹ tôi bỗng lắc đầu vì bà hiểu rõ tất cả sự tình. Bà nói : “Ông
ta chỉ nói cho vui lòng mẹ đấy thôi”. Một hôm bà từ nhà thương trở về có vẻ hết
sức giận dữ vì cha Mác-Nên (Mc. Neil) lúc thăm cha tôi đã nói : “Trời ơi, này anh Sác-Li,
tôi nhìn thấy anh tôi lại nhớ đến câu cách ngôn xưa : Gieo gió thì thế nào cũng
gặt bão”. Mẹ tôi nói tiếp : “An ủi một người sắp chết mà mở miệng nói như vậy
cũng lạ đời thật”. Vài ngày sau đó, cha tôi từ trần. Nhà thương muốn biết ai sẽ
lo phần chôn cất. Không còn một đồng xu nào trong túi mẹ tôi nhờ Hội Cứu tế
nghệ sĩ lo liệu. Nhưng ý kiến này gây nên nhiều sự chống đối dữ dội ở bên họ
hàng cha tôi. Họ quan niệm rằng giao cho cơ quan từ thiện chôn cất là điều xấu
hổ. Người em nhỏ nhất của cha tôi mới ở Phi Châu trở về ghé lại Luân Đôn cho
biết ông sẽ chịu hết phí tổn về việc tống táng.
Ngày đi đưa đám chúng tôi
phải đến bệnh viện để gặp gỡ hết mọi người ở trong họ hàng cha tôi rồi mới đi
đến nghĩa địa. Anh Sít-nê không dự được vì bận công việc ở sở. Mẹ tôi và tôi đi
đến bệnh viện sớm trước hai tiếng đồng hồ, vì bà muốn nhìn lại một lần cuối cha
tôi trước khi người ta đậy nắp áo quan. Quan tài được độn bằng xa ten trắng và
ở nơi đóng khung lại khuôn mặt cha tôi có những bông hoa cúc nhỏ. Mẹ tôi thấy
cách trang trí ấy thật đơn giản và thật cảm động nên bà hỏi ai đã khéo trình
bày như vậy. Nhân viên bệnh viện bảo có một người đàn bà đến từ lúc sáng tinh
sương với một đứa bé. Người ấy là bà Lu-i.
Ở trong chiếc xe đưa đám dẫn
đầu, mẹ tôi, chú tôi và tôi cùng ngồi. Hành trình đi đến nghĩa địa thật là gian
nan vì mẹ tôi chưa bao giờ gặp chú em đó. Ông ta là một kiểu loại con người tự
cho phong nhã hào hoa, nói bằng một giọng kiểu cách. Tuy rằng ông rất lễ độ
nhưng cách đối xử thật là lạnh lùng. Người ta bảo ông rất giàu, làm chủ nhiều
trại nuôi ngựa lớn lao ở Nam
Phi và trong trận giặc chống người Bô E ông đã cung cấp ngựa cho chính phủ Anh.
Lúc khởi sự việc chôn cất
thì trời tuôn mưa. Những phu đào huyệt ném đất trên mặt áo quan gây những tiếng
động thô bạo. Quang cảnh có gì áo não và khủng khiếp quá khiến tôi bỗng òa lên
khóc. Rồi đến những người ở trong gia đình ném hoa và các vòng hoa lên mộ. Mẹ
tôi, không có gì để ném cả, lấy chiếc khăn tay rất quý của tôi và bảo : “ Này
con, hãy ném khăn này cho phần mẹ con chúng ta”. Sau đó họ hàng bên nội của tôi
dừng lại quán nước ăn trưa, và trước khi họ từ biệt chúng tôi họ cũng ngỏ lời
lịch sự hỏi chúng tôi muốn về đâu thì họ đưa xe đến nơi.
Khi chúng tôi trở lại nhà,
chẳng còn chút gì bỏ vào bụng ngoại trừ một tách mỡ bò, mẹ tôi không có một
đồng xu nào trong túi. Còn lại hai xu cuối cùng thì bà đã đưa anh tôi mang theo
để ăn trưa. Từ ngày cha tôi lâm bệnh, bà không còn có thì giờ rảnh rỗi để làm
việc, và ngày hôm ấy, gần vào cuối tuần bảy đồng hào lương của anh Sít-nê cũng
tiêu hết rồi. Đi chôn cất về chúng tôi thật đói. May thay một người mua đồ ve
chai đi ngang qua đường và chúng tôi còn một cái lò nấu dầu hôi đã cũ. Mặc dầu
tiếc rẻ mẹ tôi cũng đem bán đi để lấy nửa xu và mua nửa xu bánh mì ăn với mỡ
bò.
Vì là vợ chính thức nên qua
ngày sau mẹ tôi được gọi tới bệnh viện nhận đồ đạc cha tôi. Đồ đạc gồm có một
bộ quần áo màu đen dính đầy vết máu, ít quần áo lót, một cái sơ mi, một cà vạt
đen, một cái áo ngủ đã cũ và đôi giày vải có mấy quả cam nhét ở bên trong. Khi
mẹ tôi lôi mấy quả cam ra, nửa đồng tiền vàng rơi theo. Thiệt là món quà hết
sức bất ngờ.
________________________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG VI