CHƯƠNG IX
SĂN ĐUỔI
Thế là tôi ở lại một mình. Con Ca Phi ngạc nhiên đưa
mắt nhìn hết Bình, Tâm đang bỏ đi lại đến tôi như có ý muốn hỏi : “Tại
sao cậu Chiêm không đi cùng với các bạn ?”
Con đường Tân Lập đã nhỏ hẹp, hai bên lại san sát toàn nhà, đứng sớ rớ tại đây rất dễ bị để ý. Phải tìm chỗ nào khuất để nấp núp mới được. Đối diện với nhà hàng bi-da là một bức tường xây thấp chạy dài theo một khu vườn lớn. Ở một khoảng, có chỗ một cái cửa nhưng chưa có cánh, tôi dắt Ca Phi bước vào thật nhanh. Nấp sau bức tường chưa đầy năm phút, chợt nghe tiếng xe gắn máy nổ phía xa xa mỗi lúc một rõ. Liếc nhanh mắt qua chỗ trống, tôi thấy một người đàn ông xuống xe ngay trước cửa căn nhà nhỏ. Đúng Hai Ngữ đây rồi. Trông anh ta hãy còn trẻ, vào khoảng hơn ba mươi, ba mươi lăm tuổi gì đó. Khuôn mặt thuôn dài, thân hình cao lớn, đẫy đà.
Dựa xe gắn máy sát tường, Hai Ngữ bước vào trong nhà nhưng không mở mấy cánh cửa sổ. Tôi đoán, có lẽ y sẽ lại đi nữa. Nếu không, ắt đã phải dắt xe vào trong vườn rồi chứ. Tôi cuống lên, chỉ e anh ta đi mất hút trước khi Tâm, Bình lên đến nơi. Phần tôi, chạy bộ thì theo dõi sao được một người cưỡi xe gắn máy.
May sao, nơi đầu đường phía xa xa, đã thấy xuất hiện bóng Tâm, Bình đang cắm cổ đạp xe. Hai anh bạn tôi tài thật. Vừa đi vừa về lấy xe không đầy mười lăm phút. Tôi chạy vội tới :
- Ê, coi chừng ! Hai Ngữ về rồi đấy, xe gắn máy anh ta dựng sát tường kia kìa, thấy không ? Cửa sổ đóng im ỉm thế kia, biết đâu y lại chẳng đứng bên trong ghé mắt nhìn qua khe ván ?
Bình Trọc vội vàng :
- Vậy chúng mình cứ làm ra vẻ tự nhiên đi thẳng tới quán bi-da “thụt” một “mắt”. Như vậy hắn sẽ không nghi ngờ gì hết. Bé Thơ đứng lại đây canh chừng. Con gái thường ít bị để ý.
Dựng ba chiếc xe đạp dưới gốc bàng, ba đứa tôi bước vào, nói với bà chủ cho mượn ít trái bi da, chăm chú “thụt”, chăm chú ghi điểm. Thỉnh thoảng, Tâm, Bình hoặc tôi, lại liếc nhanh ra ngoài xem bé Thơ có báo động gì không.
Một tiếng đồng hồ trôi qua… Không biết chúng tôi phải kéo dài “mắt” bi-da này cho tới bao giờ? Bỗng bé Thơ ra dấu cho biết là Hai Ngữ xuất hiện. Hắn ta nhẩy lên xe nhưng lại tụt xuống tức thì. Máy xe không chịu nổ. Bé Thơ báo hiệu là Hai Ngữ đang lúi húi sửa xe.
Ba đứa tôi vờ cắm cúi trên bàn bi da, đồng thời, Tâm cắt đặt công việc :
- Bình và tôi theo sát Hai Ngữ ! Chiêm đạp cách xa một chút, nghe !
Bình Trọc hỏi ngay :
- Còn Ca Phi ?... À, nhưng để ca Phi chạy theo xe đạp giữa phố xa đông người, xe cộ như mắc cửi, rồi Hai Ngữ có thể sanh nghi thì phiền ra.
Tôi liền giao phó cho bé Thơ.
Chợt có tiếng xe nổ máy.
Hai Ngữ nhằm phía trung tâm thành phố trực chỉ. Tâm, Bình dắt xe đạp nhảy phóc lên. Khi hai bạn tôi băng đi khoảng hai trăm thước, bé Thơ khẽ la :
- Anh Chiêm theo đi… ! Tất cả… may mắn nghe !
May sao, buổi sáng hôm ấy, Bình Trọc lại mặc một chiếc sơ mi cộc tay màu vàng chóe. Tôi theo hút nó không một chút khó khăn tới một ngả tư đèn đỏ.
Đèn bật xanh, bóng chiếc áo vàng lao vào một con đường hai bên trồng toàn me. Khách bộ hành, xe cộ đi lại tấp nập. Tôi không còn trông thấy Hai Ngữ đâu nữa, nhưng Bình, Tâm vẫn đạp vun vút. Thoáng cái đã tới công trường Cộng Hòa, nơi bé Thơ cùng Tường Vi ra đón bọn tôi hôm mới đến. Bình và Tâm vòng theo bùng binh, chạy dọc theo một đại lộ dẫn tới đầu cầu sông Biên Hòa, tức là ra ngoại ô.
Tôi đạp dấn lên cho kịp hai bạn. Bình mím môi :
- Phiền nhỉ ! Hai Ngữ phóng ra đồng quê là tụi mình mất hút, hết theo nổi.
Nhưng ngay lúc đó, Tâm reo lên, đồng thời đạp thật lẹ :
- Ấy kìa ! Gã quẹo tay mặt rồi. Đuổi mau !
Đúng thế ! Tôi thoáng thấy bóng Hai Ngữ quẹo xe theo con đường vắng vẻ dẫn tới một khu phố toàn những căn nhà thấp lụp xụp. Tâm, Bình bứt tôi một quãng khá xa. Chợt vừa đạp, Tâm vừa ngoảnh mặt lại, giơ tay ra dấu cho tôi đạp chậm bớt. Cuộc săn đuổi đã tới hồi gay cấn chăng ? Mới nới chân được ít vòng, ngẩng lên, bóng Tâm, Bình đã mất hút. Nhưng không lo ! Đường này độc đạo, có chỗ quẹo nào đâu. Chưa đầy hai phút sau, tôi đã bắt kịp hai người. Tâm, Bình xuống xe từ lúc nào. Bình bước lại gần tôi, một ngón tay đặt lên môi :
- Tụi mình giấu xe vào bụi cây tứ quý kia, rồi tìm chỗ nấp, mau !
Tôi thắc mắc :
- “Con mồi” đâu rồi ?
- Chiêm không thấy xe gắn máy kia sao ? Dựa sát tường đó ! Hai Ngữ dựng xe đấy để leo con đường dốc ngược kia kìa. Chắc gã không đi xa đâu.
Ba đứa tôi chờ một lúc khá lâu. Hai Ngữ vẫn chưa lộ dạng. Tôi đề nghị với hai bạn đi lên con đường dốc ấy thám thính một vòng thử coi, không e ngại gì hết, vì “con mồi” có biết chúng tôi là ai đâu. Con phố dốc cao này tên là đường Vạn Sinh. Bên tay mặt có một dãy tường cao tới gần bốn thước. Bên tay trái lại một dãy tường khác nhưng thấp hơn, chắc bên trong phải có nhà cửa gì đó, nếu không, tại sao lại có ba cánh cửa mở hé thế kia ? Hai Ngữ phải bỏ lại xe gắn máy dưới chân dốc vì xe không thể leo được. Nhưng trong ba khuôn cửa kia, gã đã đi vào khuôn nào ? Hay gã lên đỉnh dốc, rồi từ đó quẹo sang con đường khác ?
Bình Trọc hăm hở :
- Lên đỉnh dốc coi thử.
Trên chót đỉnh, đường Vạn Sinh lượn thành hình bán nguyệt rồi lại dẫn ra đường đi vào trung tâm thành phố. Không một dấu tích gì chứng tỏ Hai Ngữ đã đặt chân tới tận đỉnh dốc. Chúng tôi đành quay trở xuống. Chợt, Tâm khẽ kéo tay tôi, nói nhanh :
- Nấp kín đi, kìa !
Quả thật, Hai Ngữ đang bước ra chỗ để xe máy. Mặc dầu chỗ nấp hơi xa, qua bụi cỏ cao rậm, chúng tôi vẫn nhìn rõ. Anh ta cột một cái gì đó vào “pọt ba ga”, hình như là một cái túi rỗng, loại túi vẫn dùng để đựng khoai thì phải. Xong xuôi, Hai Ngữ nhẩy lên xe quay trở về đường cũ.
Bình Trọc :
- Té ra anh ta lên đây chỉ để lấy cái túi ấy ở nhà ai đó và bây giờ trở về nhà.
Tâm đứng lên :
- Mặc ! Tụi mình cứ đuổi theo.
Ra tới đại lộ, Hai Ngữ không quẹo tay trái để về trung tâm thành phố mà lại rẽ phía tay mặt, hướng cầu sông Biên Hòa. Không chừng gã đi tìm mua khoai tây tại một nông trại nào đó.
Vượt khỏi cây cầu, Hai Ngữ phóng thẳng một mạch ra đồng quê.
Bình Trọc lắc đầu:
- Hỏng bét ! Đường chạy thẳng ra cánh đồng thế này, theo sao nổi !
Tâm khuyến khích :
- Có gì mà không nổi ? Xe của Hai Ngữ cà rịch, cà tàng, cứ “pan” luôn ấy mà.
Phía trước, xe gắn máy của “con mồi” chạy băng băng. Ba phút sau, tụi tôi đã bị bỏ rất xa. Đạp có tới hai cây số nữa vẫn chưa thấy bóng dáng Hai Ngữ đâu. Nguy hơn nữa, tới chỗ này, đường lại chia thành hai ngả.
Bình phân công :
- Chiêm theo con đường này. Tôi và Tâm theo con đường kia.
Con đường tôi theo là quốc lộ, càng đạp tới lại càng dốc ngược mãi lên. Được gần một cây số, chợt tim tôi đập thình thịch như trống làng. Trước mặt, cách chừng một trăm thước, Hai Ngữ đang ngồi cắm cúi sửa xe bên vệ đường. Phản ứng tự nhiên thúc đẩy, chút síu nữa tôi quay trở đầu xe. Chợt nghĩ lại kịp : như vậy con mồi sẽ sinh nghi. Tôi liền đạp dấn thêm mấy vòng thật nhanh, qua chỗ gã đàn ông ngồi, lòng nghĩ thầm : “Tâm, Bình đạp theo đường kia mãi không thấy gì, chắc thế nào cũng quay sang đường này với mình”. Được một quãng khá xa, tôi xuống xe ngồi nghỉ mệt sau một bụi sim rậm rạp.
Chừng mười phút sau, tôi lại nhẩy lên xe từ từ đạp có ý chờ “con mồi”. Chưa được hai cây số, đã nghe tiếng máy xe nổ ròn phía sau. Đúng Hai Ngữ. Hắn ta vượt qua mặt tôi, rồi biến dạng ngay chỗ đường vòng trước mặt.
Thấm mệt, không còn mong gì đuổi kịp, tôi cứ thong thả vừa đạp vừa đưa mắt nhìn qua rặng cây mọc hai bên đường, bắt đầu từ quãng đường vòng. Cũng may, ở đây không còn con đường rẽ nào khác. Tuy không nhìn thấy gì nhưng nhờ nghe tiếng máy xe nổ, tôi vẫn theo hút được Hai Ngữ.
Đột nhiên, không nghe tiếng gì nữa, và qua rặng cây, chẳng còn thấy tăm hơi con mồi đâu hết. Hai Ngữ tắt máy xuống xe ? Hay chiếc xe lại dở chứng “pan” nữa ?
Tôi đưa mắt nhìn quanh cố tìm xem anh ta đâu, chợt trông thấy một ngôi nhà bỏ hoang. Bao nhiêu mệt nhọc tiêu tán hết, tôi dắt xe rảo bước lại gần. Ngôi nhà hoang chỉ còn trơ lại bốn bức tường, bên trên không có mái.
Hai Ngữ có xuống xe tại đây không ? À, hay là y có xuống xe rồi dắt vào con đường mòn nhỏ hẹp gồ ghề như sống trâu kia ? Không có lối nào đi vào con đường mòn ấy cả. Hoặc giả, chiếc xe lại “pan” bất tử và anh ta phải xuống xe dắt bộ ?
Tôi lại nhẩy lên xe, cắm đầu đạp, nhằm trái đồi trước mặt, theo con đường lượn vòng như khúc rắn. Hai bên lề đường, sim rừng, ổi dại mọc rải rác. Vẫn không thấy tăm hơi Hai Ngữ đâu hết. Được chừng hai cây số, dừng chân đạp, tôi suy luận rằng, nếu gã xuống đi bộ, tay lại đẩy xe, chắc hẳn chưa thể tới chỗ tôi đang đứng được. Ồ ! Hay là tôi lầm ? Xe không tắt máy như tôi đã lầm tưởng mà tiếng nổ chỉ bị át đi vì quãng đường vòng gần cái gò đất kia, “con mồi” vẫn phây phây phóng thẳng và bây giờ đã… đi xa lắm rồi !
Chán nản, tôi trở đầu xe, cho xe đổ dốc. Mới xuống tới lưng chừng đã thấy Tâm, Bình mồ hôi nhễ nhại đang cắm đầu cắm cổ đạp lên. Tôi đoán đúng ! Tâm, Bình đuổi theo đường bên kia một quãng xa, không thấy gì liền quay xe đạp qua con đường bên tôi. Tôi nói rõ cho hai bạn nghe việc Hai Ngữ vượt qua mặt tôi rồi biến dạng cả người lẫn xe tại chỗ có căn nhà bỏ hoang. Bình sáng ngời đôi mắt :
- Nhà bỏ hoang ? Ở đâu thế ?
Tôi đưa tay chỉ về phía sau lưng :
- Gần đây thôi ! Chừng một cây số ! Qua đường vòng là tới.
- Quay trở lại, mau !
Tâm, Bình cũng chẳng hơn gì tôi. Cả hai đều nhận thấy rằng căn nhà hoang không có một chỗ nào có thể ẩn nấp được. Hai nữa, nhà lại xây cất gần đường cái, không thể chứa chấp một cái gì khả nghi hết. Đường đi lối lại quanh đó không còn gì khác ngoài con đường mòn gồ ghề như xương sống trâu mà đầu đường lại là một rãnh nước rộng hơn một thước. Tôi nói với các bạn :
- Tới quãng này, tôi vừa trông thấy gã thấp thoáng sau rặng cây kia chợt tiếng máy xe im bặt. Thế là hết, chẳng còn thấy bóng dáng người và xe đâu nữa.
Bình Trọc có vẻ suy nghĩ hăng lắm :
- Chiêm ! Liệu con Ca Phi có thể lùng ra vết tích “con mồi” của chúng ta nếu nó được đánh hơi cái mũ nồi Chiêm lấy ở trong nhà vườn của Hai Ngữ không ?
- Chắc lắm chứ !
- Vậy thì tốt quá. Chúng ta sẽ trở lại đây, dắt theo cả Ca Phi. Bây giờ trưa rồi, ta về kẻo bé Thơ chờ đợi.
Ba chúng tôi nhẩy lên xe, nhắm phía thành phố, cho xe đổ dốc băng băng.
Con đường Tân Lập đã nhỏ hẹp, hai bên lại san sát toàn nhà, đứng sớ rớ tại đây rất dễ bị để ý. Phải tìm chỗ nào khuất để nấp núp mới được. Đối diện với nhà hàng bi-da là một bức tường xây thấp chạy dài theo một khu vườn lớn. Ở một khoảng, có chỗ một cái cửa nhưng chưa có cánh, tôi dắt Ca Phi bước vào thật nhanh. Nấp sau bức tường chưa đầy năm phút, chợt nghe tiếng xe gắn máy nổ phía xa xa mỗi lúc một rõ. Liếc nhanh mắt qua chỗ trống, tôi thấy một người đàn ông xuống xe ngay trước cửa căn nhà nhỏ. Đúng Hai Ngữ đây rồi. Trông anh ta hãy còn trẻ, vào khoảng hơn ba mươi, ba mươi lăm tuổi gì đó. Khuôn mặt thuôn dài, thân hình cao lớn, đẫy đà.
Dựa xe gắn máy sát tường, Hai Ngữ bước vào trong nhà nhưng không mở mấy cánh cửa sổ. Tôi đoán, có lẽ y sẽ lại đi nữa. Nếu không, ắt đã phải dắt xe vào trong vườn rồi chứ. Tôi cuống lên, chỉ e anh ta đi mất hút trước khi Tâm, Bình lên đến nơi. Phần tôi, chạy bộ thì theo dõi sao được một người cưỡi xe gắn máy.
May sao, nơi đầu đường phía xa xa, đã thấy xuất hiện bóng Tâm, Bình đang cắm cổ đạp xe. Hai anh bạn tôi tài thật. Vừa đi vừa về lấy xe không đầy mười lăm phút. Tôi chạy vội tới :
- Ê, coi chừng ! Hai Ngữ về rồi đấy, xe gắn máy anh ta dựng sát tường kia kìa, thấy không ? Cửa sổ đóng im ỉm thế kia, biết đâu y lại chẳng đứng bên trong ghé mắt nhìn qua khe ván ?
Bình Trọc vội vàng :
- Vậy chúng mình cứ làm ra vẻ tự nhiên đi thẳng tới quán bi-da “thụt” một “mắt”. Như vậy hắn sẽ không nghi ngờ gì hết. Bé Thơ đứng lại đây canh chừng. Con gái thường ít bị để ý.
Dựng ba chiếc xe đạp dưới gốc bàng, ba đứa tôi bước vào, nói với bà chủ cho mượn ít trái bi da, chăm chú “thụt”, chăm chú ghi điểm. Thỉnh thoảng, Tâm, Bình hoặc tôi, lại liếc nhanh ra ngoài xem bé Thơ có báo động gì không.
Một tiếng đồng hồ trôi qua… Không biết chúng tôi phải kéo dài “mắt” bi-da này cho tới bao giờ? Bỗng bé Thơ ra dấu cho biết là Hai Ngữ xuất hiện. Hắn ta nhẩy lên xe nhưng lại tụt xuống tức thì. Máy xe không chịu nổ. Bé Thơ báo hiệu là Hai Ngữ đang lúi húi sửa xe.
Ba đứa tôi vờ cắm cúi trên bàn bi da, đồng thời, Tâm cắt đặt công việc :
- Bình và tôi theo sát Hai Ngữ ! Chiêm đạp cách xa một chút, nghe !
Bình Trọc hỏi ngay :
- Còn Ca Phi ?... À, nhưng để ca Phi chạy theo xe đạp giữa phố xa đông người, xe cộ như mắc cửi, rồi Hai Ngữ có thể sanh nghi thì phiền ra.
Tôi liền giao phó cho bé Thơ.
Chợt có tiếng xe nổ máy.
Hai Ngữ nhằm phía trung tâm thành phố trực chỉ. Tâm, Bình dắt xe đạp nhảy phóc lên. Khi hai bạn tôi băng đi khoảng hai trăm thước, bé Thơ khẽ la :
- Anh Chiêm theo đi… ! Tất cả… may mắn nghe !
May sao, buổi sáng hôm ấy, Bình Trọc lại mặc một chiếc sơ mi cộc tay màu vàng chóe. Tôi theo hút nó không một chút khó khăn tới một ngả tư đèn đỏ.
Đèn bật xanh, bóng chiếc áo vàng lao vào một con đường hai bên trồng toàn me. Khách bộ hành, xe cộ đi lại tấp nập. Tôi không còn trông thấy Hai Ngữ đâu nữa, nhưng Bình, Tâm vẫn đạp vun vút. Thoáng cái đã tới công trường Cộng Hòa, nơi bé Thơ cùng Tường Vi ra đón bọn tôi hôm mới đến. Bình và Tâm vòng theo bùng binh, chạy dọc theo một đại lộ dẫn tới đầu cầu sông Biên Hòa, tức là ra ngoại ô.
Tôi đạp dấn lên cho kịp hai bạn. Bình mím môi :
- Phiền nhỉ ! Hai Ngữ phóng ra đồng quê là tụi mình mất hút, hết theo nổi.
Nhưng ngay lúc đó, Tâm reo lên, đồng thời đạp thật lẹ :
- Ấy kìa ! Gã quẹo tay mặt rồi. Đuổi mau !
Đúng thế ! Tôi thoáng thấy bóng Hai Ngữ quẹo xe theo con đường vắng vẻ dẫn tới một khu phố toàn những căn nhà thấp lụp xụp. Tâm, Bình bứt tôi một quãng khá xa. Chợt vừa đạp, Tâm vừa ngoảnh mặt lại, giơ tay ra dấu cho tôi đạp chậm bớt. Cuộc săn đuổi đã tới hồi gay cấn chăng ? Mới nới chân được ít vòng, ngẩng lên, bóng Tâm, Bình đã mất hút. Nhưng không lo ! Đường này độc đạo, có chỗ quẹo nào đâu. Chưa đầy hai phút sau, tôi đã bắt kịp hai người. Tâm, Bình xuống xe từ lúc nào. Bình bước lại gần tôi, một ngón tay đặt lên môi :
- Tụi mình giấu xe vào bụi cây tứ quý kia, rồi tìm chỗ nấp, mau !
Tôi thắc mắc :
- “Con mồi” đâu rồi ?
- Chiêm không thấy xe gắn máy kia sao ? Dựa sát tường đó ! Hai Ngữ dựng xe đấy để leo con đường dốc ngược kia kìa. Chắc gã không đi xa đâu.
Ba đứa tôi chờ một lúc khá lâu. Hai Ngữ vẫn chưa lộ dạng. Tôi đề nghị với hai bạn đi lên con đường dốc ấy thám thính một vòng thử coi, không e ngại gì hết, vì “con mồi” có biết chúng tôi là ai đâu. Con phố dốc cao này tên là đường Vạn Sinh. Bên tay mặt có một dãy tường cao tới gần bốn thước. Bên tay trái lại một dãy tường khác nhưng thấp hơn, chắc bên trong phải có nhà cửa gì đó, nếu không, tại sao lại có ba cánh cửa mở hé thế kia ? Hai Ngữ phải bỏ lại xe gắn máy dưới chân dốc vì xe không thể leo được. Nhưng trong ba khuôn cửa kia, gã đã đi vào khuôn nào ? Hay gã lên đỉnh dốc, rồi từ đó quẹo sang con đường khác ?
Bình Trọc hăm hở :
- Lên đỉnh dốc coi thử.
Trên chót đỉnh, đường Vạn Sinh lượn thành hình bán nguyệt rồi lại dẫn ra đường đi vào trung tâm thành phố. Không một dấu tích gì chứng tỏ Hai Ngữ đã đặt chân tới tận đỉnh dốc. Chúng tôi đành quay trở xuống. Chợt, Tâm khẽ kéo tay tôi, nói nhanh :
- Nấp kín đi, kìa !
Quả thật, Hai Ngữ đang bước ra chỗ để xe máy. Mặc dầu chỗ nấp hơi xa, qua bụi cỏ cao rậm, chúng tôi vẫn nhìn rõ. Anh ta cột một cái gì đó vào “pọt ba ga”, hình như là một cái túi rỗng, loại túi vẫn dùng để đựng khoai thì phải. Xong xuôi, Hai Ngữ nhẩy lên xe quay trở về đường cũ.
Bình Trọc :
- Té ra anh ta lên đây chỉ để lấy cái túi ấy ở nhà ai đó và bây giờ trở về nhà.
Tâm đứng lên :
- Mặc ! Tụi mình cứ đuổi theo.
Ra tới đại lộ, Hai Ngữ không quẹo tay trái để về trung tâm thành phố mà lại rẽ phía tay mặt, hướng cầu sông Biên Hòa. Không chừng gã đi tìm mua khoai tây tại một nông trại nào đó.
Vượt khỏi cây cầu, Hai Ngữ phóng thẳng một mạch ra đồng quê.
Bình Trọc lắc đầu:
- Hỏng bét ! Đường chạy thẳng ra cánh đồng thế này, theo sao nổi !
Tâm khuyến khích :
- Có gì mà không nổi ? Xe của Hai Ngữ cà rịch, cà tàng, cứ “pan” luôn ấy mà.
Phía trước, xe gắn máy của “con mồi” chạy băng băng. Ba phút sau, tụi tôi đã bị bỏ rất xa. Đạp có tới hai cây số nữa vẫn chưa thấy bóng dáng Hai Ngữ đâu. Nguy hơn nữa, tới chỗ này, đường lại chia thành hai ngả.
Bình phân công :
- Chiêm theo con đường này. Tôi và Tâm theo con đường kia.
Con đường tôi theo là quốc lộ, càng đạp tới lại càng dốc ngược mãi lên. Được gần một cây số, chợt tim tôi đập thình thịch như trống làng. Trước mặt, cách chừng một trăm thước, Hai Ngữ đang ngồi cắm cúi sửa xe bên vệ đường. Phản ứng tự nhiên thúc đẩy, chút síu nữa tôi quay trở đầu xe. Chợt nghĩ lại kịp : như vậy con mồi sẽ sinh nghi. Tôi liền đạp dấn thêm mấy vòng thật nhanh, qua chỗ gã đàn ông ngồi, lòng nghĩ thầm : “Tâm, Bình đạp theo đường kia mãi không thấy gì, chắc thế nào cũng quay sang đường này với mình”. Được một quãng khá xa, tôi xuống xe ngồi nghỉ mệt sau một bụi sim rậm rạp.
Chừng mười phút sau, tôi lại nhẩy lên xe từ từ đạp có ý chờ “con mồi”. Chưa được hai cây số, đã nghe tiếng máy xe nổ ròn phía sau. Đúng Hai Ngữ. Hắn ta vượt qua mặt tôi, rồi biến dạng ngay chỗ đường vòng trước mặt.
Thấm mệt, không còn mong gì đuổi kịp, tôi cứ thong thả vừa đạp vừa đưa mắt nhìn qua rặng cây mọc hai bên đường, bắt đầu từ quãng đường vòng. Cũng may, ở đây không còn con đường rẽ nào khác. Tuy không nhìn thấy gì nhưng nhờ nghe tiếng máy xe nổ, tôi vẫn theo hút được Hai Ngữ.
Đột nhiên, không nghe tiếng gì nữa, và qua rặng cây, chẳng còn thấy tăm hơi con mồi đâu hết. Hai Ngữ tắt máy xuống xe ? Hay chiếc xe lại dở chứng “pan” nữa ?
Tôi đưa mắt nhìn quanh cố tìm xem anh ta đâu, chợt trông thấy một ngôi nhà bỏ hoang. Bao nhiêu mệt nhọc tiêu tán hết, tôi dắt xe rảo bước lại gần. Ngôi nhà hoang chỉ còn trơ lại bốn bức tường, bên trên không có mái.
Hai Ngữ có xuống xe tại đây không ? À, hay là y có xuống xe rồi dắt vào con đường mòn nhỏ hẹp gồ ghề như sống trâu kia ? Không có lối nào đi vào con đường mòn ấy cả. Hoặc giả, chiếc xe lại “pan” bất tử và anh ta phải xuống xe dắt bộ ?
Tôi lại nhẩy lên xe, cắm đầu đạp, nhằm trái đồi trước mặt, theo con đường lượn vòng như khúc rắn. Hai bên lề đường, sim rừng, ổi dại mọc rải rác. Vẫn không thấy tăm hơi Hai Ngữ đâu hết. Được chừng hai cây số, dừng chân đạp, tôi suy luận rằng, nếu gã xuống đi bộ, tay lại đẩy xe, chắc hẳn chưa thể tới chỗ tôi đang đứng được. Ồ ! Hay là tôi lầm ? Xe không tắt máy như tôi đã lầm tưởng mà tiếng nổ chỉ bị át đi vì quãng đường vòng gần cái gò đất kia, “con mồi” vẫn phây phây phóng thẳng và bây giờ đã… đi xa lắm rồi !
Chán nản, tôi trở đầu xe, cho xe đổ dốc. Mới xuống tới lưng chừng đã thấy Tâm, Bình mồ hôi nhễ nhại đang cắm đầu cắm cổ đạp lên. Tôi đoán đúng ! Tâm, Bình đuổi theo đường bên kia một quãng xa, không thấy gì liền quay xe đạp qua con đường bên tôi. Tôi nói rõ cho hai bạn nghe việc Hai Ngữ vượt qua mặt tôi rồi biến dạng cả người lẫn xe tại chỗ có căn nhà bỏ hoang. Bình sáng ngời đôi mắt :
- Nhà bỏ hoang ? Ở đâu thế ?
Tôi đưa tay chỉ về phía sau lưng :
- Gần đây thôi ! Chừng một cây số ! Qua đường vòng là tới.
- Quay trở lại, mau !
Tâm, Bình cũng chẳng hơn gì tôi. Cả hai đều nhận thấy rằng căn nhà hoang không có một chỗ nào có thể ẩn nấp được. Hai nữa, nhà lại xây cất gần đường cái, không thể chứa chấp một cái gì khả nghi hết. Đường đi lối lại quanh đó không còn gì khác ngoài con đường mòn gồ ghề như xương sống trâu mà đầu đường lại là một rãnh nước rộng hơn một thước. Tôi nói với các bạn :
- Tới quãng này, tôi vừa trông thấy gã thấp thoáng sau rặng cây kia chợt tiếng máy xe im bặt. Thế là hết, chẳng còn thấy bóng dáng người và xe đâu nữa.
Bình Trọc có vẻ suy nghĩ hăng lắm :
- Chiêm ! Liệu con Ca Phi có thể lùng ra vết tích “con mồi” của chúng ta nếu nó được đánh hơi cái mũ nồi Chiêm lấy ở trong nhà vườn của Hai Ngữ không ?
- Chắc lắm chứ !
- Vậy thì tốt quá. Chúng ta sẽ trở lại đây, dắt theo cả Ca Phi. Bây giờ trưa rồi, ta về kẻo bé Thơ chờ đợi.
Ba chúng tôi nhẩy lên xe, nhắm phía thành phố, cho xe đổ dốc băng băng.
CHƯƠNG X
TRONG HANG TỐI
Về đến nơi, đồng hồ chỉ một giờ. Bé Thơ đã ăn cơm
trưa, đang ngồi đợi. Bình kể lại đầu đuôi sự việc và điều chúng tôi nghi
ngờ. Nghe xong, bé Thơ cắt đặt :
- Bây giờ, anh Chiêm dắt theo con Ca Phi cùng với anh Tâm, Bình trở lại chỗ căn nhà hoang. Thơ tin rằng, có cái mũ nồi ấy, con Ca Phi đánh hơi sẽ truy lùng ra tung tích Hai Ngữ. Nhưng cũng phải có một người tới canh chừng tại đầu dốc Vạn Sinh nơi Hai Ngữ đến lấy cái túi. Để tôi nhờ Tường Vi lo việc này cho. Phần tôi, tôi sẽ lên ấp Tân Lập, canh gác căn nhà riêng của anh ta.
Cuộc theo dõi hồi sớm mai không có gì là xa xôi, vất vả lắm, gần hai chục cây số vừa đi vừa về thôi, nhưng đường có nhiều dốc, lắm khi cứ phải đứng thẳng người trên hai bàn đạp mới đạp nổi, ba đứa tôi, ai nấy bắp chân mỏi rã rời. Tuy nhiên, công việc đã có phần nào ích lợi. Như bé Thơ, tôi cũng tin rằng con Ca Phi sẽ khám phá ra điều bí ẩn về sự biệt tăm của Hai Ngữ tại khu vực có căn nhà bỏ hoang.
Ba giờ chiều, sau khi được ăn một bữa cơm thật ngon miệng, cả bọn sửa soạn ra đi. Tường Vi lên dốc Vạn Sinh bí mật canh chừng, bé Thơ tới ấp Tân Lập, vào nhà hàng giả vờ xem “thụt” bi da để dò xét căn nhà Hai Ngữ. Trong khi đó, Tâm, Bình và tôi dắt theo Ca Phi trực chỉ khu vực căn nhà bỏ hoang, bên kia bờ sông Biên Hòa.
Bữa nay, tiết trời nóng bức, không khí nặng nề, bầu trời có nhiều mây xám y hệt hôm chúng tôi chờ trước cửa trụ sở Cuộc Cảnh Sát. Tôi dặn Tâm, Bình cứ đạp xe thong thả để Ca Phi theo đỡ mệt. Dưới lớp lông dầy của nó đã thấy mồ hôi nham nháp. Lên tới cầu, tôi liếc mắt ngắm nhìn làn nước trong xanh. Nếu không bận công tác lùng xét kẻ tình nghi, chắc tôi đã nhẩy xuống tắm bơi một chầu thỏa thích.
Qua cầu, đều chân đạp một hồi nữa, cả bọn đã tới quãng đường chia hai. Ba chúng tôi theo con lộ nhỏ bên tay mặt phóng đi. Ca Phi đều bước chạy bên xe tôi. Được gần ba cây số, đã thấy con đường dốc cao trước mặt. Để dưỡng sức cho Ca Phi, tôi đề nghị với hai bạn xuống xe nghỉ chân một lúc dưới gốc một cây si cổ thụ bóng lá mát rượi, trước khi leo dốc.
Chẳng mấy chốc, mấy bức tường hoen ố của căn nhà hoang phế đã hiện ra. Chúng tôi xuống đi bộ sau khi giấu xe thật kín dưới mấy bụi sim rừng, ổi dại rậm rạp. Rút dây da, tôi thòng vào vòng đai cổ Ca Phi, đoạn đưa chiếc mũ nồi cho nó đánh hơi. Ca Phi hít ngửi một hồi, vẫy đuôi rối rít, ra hiệu đã hiểu là tôi muốn gì. Tâm đề nghị :
- Dắt Ca Phi vào trong căn nhà đổ nát này coi xem Hai Ngữ có tới đây không Chiêm ?
Bên chân tường ẩm mốc, trước cánh cửa đóng im ỉm, con Ca Phi cứ ngước mặt lên ngó tôi chăm chú như muốn nói :
- “Trong này không có gì đâu, cậu Chiêm !”.
Tôi chỉ mong con Ca Phi phát giác ra được một cái hầm hoặc cái hang nào đó, nhưng không thấy gì. Tôi liền dắt nó lên cho đánh hơi đều khắp mặt đường. Liệu có tìm ra dấu vết kẻ tình nghi hay không mà coi bộ nó ngập ngừng lúng túng quá vậy ? Có lẽ cái mũ nồi cũ, lâu ngày không dùng đến, mùi đã đổi khác rồi chăng ? Và Hai Ngữ không bị “pan” xe tại chỗ này như tôi đã lầm tưởng? Nếu vậy thì gã vẫn ngồi phây phây trên xe, chân không chạm đất, làm sao có dấu vết để Ca Phi có thể đánh hơi dò tìm ra được.
Thấy chúng tôi lộ vẻ băn khoăn suy nghĩ, Ca Phi húc mõm vào tay đòi hỏi tôi cho nó ngửi lại chiếc mũ lần nữa. Rồi tôi dắt nó men theo đường cái đi ngược lên quãng dốc.
Bình gật gù :
- Có lẽ Chiêm lầm thật đấy. Lúc sáng nay, chắc Hai Ngữ không bị “pan” xe, mà chỉ có tiếng máy xe bị lấp đi khi anh ta quẹo “cua” chỗ cái gò đất kia kìa.
Bình vừa nói dứt câu, chợt Ca Phi trì rất mạnh sợi dây da, kéo sểnh tôi xuống dưới vệ đường thấp, đuôi vẫy tíu tít. Cả bọn cúi xuống chăm chú nhìn xem có gì lạ.
Bỗng Tâm la lớn :
- A, đây rồi ! Có vết dầu xe ! Nhất định phải có một chiếc xe đậu tại đây rồi !
Bình hỏi ngay :
- Xe đậu tại đây ?
- Phải ! Đúng là xe đậu ! Nếu là xe chạy, tất nhiên những giọt dầu nhớt phải rải rác cách xa nhau chứ.
- Không chừng là xe hơi !
Bình Trọc chống hai tay xuống đất, cúi sát mặt hít ngửi mấy giọt dầu :
- Không, không phải xe hơi ! Đây là xăng pha nhớt để chạy xe gắn máy.
Vậy ra Hai Ngữ đã xuống xe tại chỗ này. Nhưng sao không thấy một con đường nào khác cả. Hay gã đã xuống xe dắt bộ. Đánh hơi thật kỹ quanh mấy giọt dầu một lần nữa, Ca Phi kéo tôi tới một bãi rộng mọc đầy những sim, và cỏ ràng ràng rậm rì xanh tốt. Có vết chân người in lõm trên đám lá khô.
Chợt Bình Trọc khẽ reo :
- Coi này ! Có cả vết bánh xe nữa ! Thấy không ? Vệt dài, trũng trên lá khô ẩm mục đó !
Đúng rồi ! Đúng là đã có người dắt xe gắn máy đi qua đây. Ca Phi theo dò đúng quá. Đi hết cánh rừng thấp, con chó vẫn không chịu dừng chân. Cả bọn lại băng qua một thửa ruộng khô phơi mặt đất nứt nẻ trắng xóa. Không thấy dấu vết gì khả nghi. Ca Phi vẫn tiếp tục tiến tới, dắt tôi đến một cái hố dài trông như một cái hầm trú ẩn đào sâu dưới mặt đất. Nó nhẩy xuống, kéo tụi tôi men theo cái hố dài tiến bước… Một tấm liếp bằng gỗ che kín một cửa hầm xây bằng xi măng án ngữ trước mặt.
Bình Trọc :
- Lạ nhỉ ! Không phải cửa nhà, chẳng phải cửa hang…
Tâm :
- Hay là cửa vào một cái hầm mỏ gì đó. À, mà có nghe nói ở đây có hầm mỏ gì đâu nhỉ !
Tôi chợt nhớ ra. Lúc sáng, khi theo hút Hai Ngữ, tôi để ý thấy con đường ở đây hơi lạ. Hai bên lề đường có nhiều viên gạch rơi vãi rải rác đó đây.
- Có thể đây là một cái lò gạch cũ.
Tâm gật đầu :
- Có lý ! Có thể đây là một cái lò gạch lâu ngày không dùng đến nữa. Nhưng sao lại có cửa khoá?
Trong khi Ca Phi đưa mũi đánh hơi dưới mấy tấm ván cửa, tôi ghé mắt dòm qua khe gỗ hở cố nhìn xem có cái gì lạ bên trong đường hầm. Bóng tối như bưng lấy mắt.
Bình Trọc giật áo tôi :
- Cẩn thận ! Coi chừng có người ở trong đấy !
Cả ba ghé sát tai vào cửa nghe ngóng. Không có gì lạ. Bên trong hoàn toàn im lặng. Tâm cố lay cánh cửa có lỗ khóa cứng ngắc.
- Nhất định phải xem có cái gì ở trong đó. Coi con Ca Phi kìa. Nó cương quyết đòi vào bằng được đấy.
Dứt lời, Bình ghé vai hích mạnh. Cánh cửa gỗ vẫn không nhích. Cả ba chúng tôi hợp lực nhau lấy vai tông mạnh. Một tấm ván sút đinh rớt xuống. Lỗ hổng đủ người đi lọt. Chúng tôi bước vào. Mùi ẩm mốc bốc lên sặc sụa khiến cả bọn nhăn mặt. Ca Phi lắc mạnh đầu, nhẩy mũi luôn mấy cái.
Không có đèn chắc không nhìn thấy gì hết, dù có tháo tung tất cả ván cửa.
Bình Trọc rút chiếc đèn bấm nhỏ :
- Có đèn đây nhưng “pin” yếu lắm.
Tia sáng vàng vọt lóe ra nhưng chiếu xa không đầy năm thước. Tôi rón rén đặt bước, con Ca Phi kéo dây da phăng tới. Đất mềm lún xuống dưới bước chân.
Bình chiếu đèn lên cao rồi lại soi kỹ mặt đất :
- Đúng rồi ! Đây là một cái lò gạch cũ, được đào thêm cho rộng ra và sâu hơn để làm chỗ trồng nấm. Vì thế mới có cửa khóa cẩn thận.
Nó cúi xuống lượm lên hai cái nấm nhỏ trắng tinh đoạn chiếu đèn soi quanh để kiếm thêm nữa.
- Nhưng rồi chỗ trồng nấm này cũng bị bỏ luôn. Nếu không thì đã phải có nhiều nấm lắm chứ. Nhặt cho kỹ cũng chưa chắc được một giỏ.
Nếu vậy, Hai Ngữ lén lút tới đây chỉ là để hái nấm còn sót lại cho vào cái túi cột ở sau xe. Tâm, Bình và tôi đều nghĩ như thế.
Tâm :
- Tụi mình mất toi thì giờ vô ích. Thì ra anh Hai Ngữ mò đến đây chỉ là để hái trộm nấm.
Bình tỏ vẻ nghi ngờ :
- Nhưng anh ta đâu có cần phá cửa để vào. Chắc y có chìa khóa. Mà thử hỏi tại sao anh ta có chìa khóa riêng để mở cửa vào thật ngon lành như thế ?
- Biết đâu Hai Ngữ lại chẳng đã có thời kỳ làm việc tại đây ?
Con Ca Phi vẫn trì kéo tôi đi sâu thêm nữa. Nó dừng lại, húc mõm vào tay đòi tôi cho ngửi cái mũ nồi lần nữa.
Bình bấm đèn bước theo. Quả nhiên có kẻ nào đó đã vào đây, đốt cả lửa để đun nấu. Nhiều mẩu gỗ cháy dở chứng tỏ điều đó. Lại có nhiều vết giầy in trên nền đất ẩm.
Tâm bảo Bình :
- Chiếu đèn ra sát mặt đất đi Bình ! Vết giầy lạ sẽ nổi lên rõ rệt.
Vết giầy khá nhiều, to lớn không bằng nhau chứng tỏ ít nhất đã có hai người vào đây.
Bình Trọc khẽ reo :
- Ba chứ không phải hai đâu ! Có cả một người đàn bà nữa. Coi những lỗ nhỏ do giầy hay guốc cao gót in xuống đất này.
Tôi cúi nhìn cho rõ những lỗ nhỏ do gót guốc hay giầy đàn bà in xuống, chợt trống ngực đập thình thịch. Bất giác tôi hét lên :
- Soi đèn tới đây ! Bình, mau lên !
Ánh đèn bấm không sáng lắm nhưng cũng tạm đủ để soi rõ những vết giầy trẻ con in không sâu trên mặt đất ẩm. Lập tức, tôi rút chiếc săng đan nhỏ của bé Kính từ trong túi ra, áp lên một vết giầy trẻ con rõ nhất. Đế chiếc săng đan so với vết giầy nhỏ hơn một chút.
- Đúng rồi ! Đôi săng đan mới bà Tám Vinh mua cho bé Kính buổi sáng hôm bé bị bắt đi, nhất định phải lớn hơn chiếc săng đan cũ chứ.
Thế là nhờ con Ca Phi, chúng tôi đã khám phá ra một điều khá ghê rợn. Bé Kính bị đem giấu tại đây và bọn gian bắt cóc em gồm có ba người. Nhưng không hiểu sao chúng lại bỏ đây mà đi, đem theo cả bé Kính ?
Tâm chép miệng tiếc rẻ :
- Bọn mình tới trễ mất rồi. Tiền chuộc đã trao và chúng đã đem trả lại bé Kính. Thế là bọn gian thoát thân và ông lang thang vẫn bị nghi ngờ, tiếp tục bị giam giữ không biết đến bao giờ.
Tâm nói đúng. Sự thật có thể như thế. Mọi người yên tâm phần nào về bé Kính. Ủa, quái thật ! Không biết tại sao chúng tôi vẫn cảm thấy bồn chồn khắc khoải. Một niềm khắc khoải rất kỳ lạ khiến chúng tôi có cảm tưởng là sự việc không chỉ giản dị như thế. Hay vì không tìm bắt được thủ phạm, ba anh em chúng tôi buồn quá, đâm ra nghĩ quẩn chăng ?
Còn đang bối rối, không biết quyết định lẽ nào, chợt ánh đèn “pin” của Bình quét lên vách hầm phía bên phải, soi trúng cái gì trăng trắng giắt trong khe đá. Không thể bảo đó là mấy cái nấm được. Chộp vội đèn bấm, tôi soi lên, rút ra được hai mảnh giấy gấp tư.
- A, hai mảnh giấy báo !
Đúng là hai mảnh giấy đăng tin bắt cóc cắt trong báo ra. Những mục tin chúng tôi đã được đọc. Một đề ngày 20. Một đề ngày 21. Tôi đưa đèn bấm cho Bình nhờ soi dùm để xem xét thật kỹ. Trên hai mảnh báo đều có đoạn gạch bút chì làm dấu.
Tôi bảo các bạn :
- Tâm, Bình thấy chưa ! Bọn gian chú trọng đến mọi tin tức liên quan đến cuộc lùng xét của cảnh sát tại vùng quê ven biên. Chúng sợ bị phát giác đấy. Vì thế chúng phải bỏ đây mà đi đem theo bé Kính để giấu tại một nơi khác.
Tâm tán thành :
- Đúng thế ! Có điều bọn họ bỏ đi cũng chưa lâu lắm đâu vì hồi sớm mai này, Hai Ngữ còn tới đây kia mà.
Tôi khẽ lắc đầu tỏ vẻ hoài nghi :
- Biết đâu hắn chẳng trở lại để thu nhặt, dọn sạch mọi dấu vết có thể tố giác cả bọn. Hai Ngữ có đem cả cái túi theo đó.
Bình xoa xoa cái đầu trọc :
- Ừ, ừ, có thể thế lắm. Nhưng làm thế nào để biết được bọn gian bỏ đi từ bao giờ nhỉ ? Tôi nghi như thế này : một là chúng sợ bị phát giác nên tìm đường đào tẩu, hai là sau khi nhận tiền chuộc chúng đã đem bé Kính trả lại rồi chăng ?
Tâm :
- Vậy thì chỉ có về nhà, chúng mình mới biết chắc được. Nếu bé Kính đã được đem trao trả, tất nhiên cả tỉnh phải đồn ầm lên chứ. Bây giờ chúng ta về coi xem tin tức ra sao.
Tôi huýt gió gọi Ca Phi. Cả bọn bước ra khỏi hang nấm sau khi đã đóng lại mấy tấm ván cửa.
Rủi quá ! Vừa bước ra lấy xe đạp thì trời đổ mưa. Tâm giơ cổ tay xem đồng hồ : sáu giờ mười lăm. Bình Trọc lộ vẻ nóng ruột :
- Về ! Đợi cho hết mưa thì tối mịt. Xe lại không đèn.
Thế là dưới trời mưa không lớn lắm, ba anh em từ từ đạp xe, hết sức đề phòng mặt đường trơn trượt. Bình Trọc thỉnh thoảng lại loạng choạng tay lái như muốn lao cả người lẫn xe xuống ruộng. Con Ca Phi đều đều gõ móng lách cách trên mặt đường, sát bên xe tôi. Chốc chốc nó lại quẫy mạnh thân mình để rũ cho hết nước mưa khiến hai ống quần tôi ướt nhẹp.
Hơn một giờ sau, trời tối mịt, cả bọn mới về tới công viên. Ai nấy ướt như chuột lột. Chắc hẳn bé Thơ về từ trước, vẫn rình chúng tôi bên cửa sổ nhà sàn, nên vừa xuống xe đã thấy bé xuất hiện, đầu đội mưa chạy xuống gian nhà ương cây.
- Chu choa ! Các anh ướt lướt thướt, bùn đất tèm lem hà ! Có gì rắc rối không mà quá xá vậy ?
Tôi mỉm cười trấn an bạn :
- Yên trí đi, bé Thơ ! Chỉ có một chầu tắm mưa bằng thích thôi !
Chợt bé Thơ nhìn ba đứa tôi, giọng đổi khác :
- Các anh có biết tin gì không ?... Hình như tiền chuộc đã nạp rồi mà bé Kính vẫn chưa được đem trả lại.
- Bây giờ, anh Chiêm dắt theo con Ca Phi cùng với anh Tâm, Bình trở lại chỗ căn nhà hoang. Thơ tin rằng, có cái mũ nồi ấy, con Ca Phi đánh hơi sẽ truy lùng ra tung tích Hai Ngữ. Nhưng cũng phải có một người tới canh chừng tại đầu dốc Vạn Sinh nơi Hai Ngữ đến lấy cái túi. Để tôi nhờ Tường Vi lo việc này cho. Phần tôi, tôi sẽ lên ấp Tân Lập, canh gác căn nhà riêng của anh ta.
Cuộc theo dõi hồi sớm mai không có gì là xa xôi, vất vả lắm, gần hai chục cây số vừa đi vừa về thôi, nhưng đường có nhiều dốc, lắm khi cứ phải đứng thẳng người trên hai bàn đạp mới đạp nổi, ba đứa tôi, ai nấy bắp chân mỏi rã rời. Tuy nhiên, công việc đã có phần nào ích lợi. Như bé Thơ, tôi cũng tin rằng con Ca Phi sẽ khám phá ra điều bí ẩn về sự biệt tăm của Hai Ngữ tại khu vực có căn nhà bỏ hoang.
Ba giờ chiều, sau khi được ăn một bữa cơm thật ngon miệng, cả bọn sửa soạn ra đi. Tường Vi lên dốc Vạn Sinh bí mật canh chừng, bé Thơ tới ấp Tân Lập, vào nhà hàng giả vờ xem “thụt” bi da để dò xét căn nhà Hai Ngữ. Trong khi đó, Tâm, Bình và tôi dắt theo Ca Phi trực chỉ khu vực căn nhà bỏ hoang, bên kia bờ sông Biên Hòa.
Bữa nay, tiết trời nóng bức, không khí nặng nề, bầu trời có nhiều mây xám y hệt hôm chúng tôi chờ trước cửa trụ sở Cuộc Cảnh Sát. Tôi dặn Tâm, Bình cứ đạp xe thong thả để Ca Phi theo đỡ mệt. Dưới lớp lông dầy của nó đã thấy mồ hôi nham nháp. Lên tới cầu, tôi liếc mắt ngắm nhìn làn nước trong xanh. Nếu không bận công tác lùng xét kẻ tình nghi, chắc tôi đã nhẩy xuống tắm bơi một chầu thỏa thích.
Qua cầu, đều chân đạp một hồi nữa, cả bọn đã tới quãng đường chia hai. Ba chúng tôi theo con lộ nhỏ bên tay mặt phóng đi. Ca Phi đều bước chạy bên xe tôi. Được gần ba cây số, đã thấy con đường dốc cao trước mặt. Để dưỡng sức cho Ca Phi, tôi đề nghị với hai bạn xuống xe nghỉ chân một lúc dưới gốc một cây si cổ thụ bóng lá mát rượi, trước khi leo dốc.
Chẳng mấy chốc, mấy bức tường hoen ố của căn nhà hoang phế đã hiện ra. Chúng tôi xuống đi bộ sau khi giấu xe thật kín dưới mấy bụi sim rừng, ổi dại rậm rạp. Rút dây da, tôi thòng vào vòng đai cổ Ca Phi, đoạn đưa chiếc mũ nồi cho nó đánh hơi. Ca Phi hít ngửi một hồi, vẫy đuôi rối rít, ra hiệu đã hiểu là tôi muốn gì. Tâm đề nghị :
- Dắt Ca Phi vào trong căn nhà đổ nát này coi xem Hai Ngữ có tới đây không Chiêm ?
Bên chân tường ẩm mốc, trước cánh cửa đóng im ỉm, con Ca Phi cứ ngước mặt lên ngó tôi chăm chú như muốn nói :
- “Trong này không có gì đâu, cậu Chiêm !”.
Tôi chỉ mong con Ca Phi phát giác ra được một cái hầm hoặc cái hang nào đó, nhưng không thấy gì. Tôi liền dắt nó lên cho đánh hơi đều khắp mặt đường. Liệu có tìm ra dấu vết kẻ tình nghi hay không mà coi bộ nó ngập ngừng lúng túng quá vậy ? Có lẽ cái mũ nồi cũ, lâu ngày không dùng đến, mùi đã đổi khác rồi chăng ? Và Hai Ngữ không bị “pan” xe tại chỗ này như tôi đã lầm tưởng? Nếu vậy thì gã vẫn ngồi phây phây trên xe, chân không chạm đất, làm sao có dấu vết để Ca Phi có thể đánh hơi dò tìm ra được.
Thấy chúng tôi lộ vẻ băn khoăn suy nghĩ, Ca Phi húc mõm vào tay đòi hỏi tôi cho nó ngửi lại chiếc mũ lần nữa. Rồi tôi dắt nó men theo đường cái đi ngược lên quãng dốc.
Bình gật gù :
- Có lẽ Chiêm lầm thật đấy. Lúc sáng nay, chắc Hai Ngữ không bị “pan” xe, mà chỉ có tiếng máy xe bị lấp đi khi anh ta quẹo “cua” chỗ cái gò đất kia kìa.
Bình vừa nói dứt câu, chợt Ca Phi trì rất mạnh sợi dây da, kéo sểnh tôi xuống dưới vệ đường thấp, đuôi vẫy tíu tít. Cả bọn cúi xuống chăm chú nhìn xem có gì lạ.
Bỗng Tâm la lớn :
- A, đây rồi ! Có vết dầu xe ! Nhất định phải có một chiếc xe đậu tại đây rồi !
Bình hỏi ngay :
- Xe đậu tại đây ?
- Phải ! Đúng là xe đậu ! Nếu là xe chạy, tất nhiên những giọt dầu nhớt phải rải rác cách xa nhau chứ.
- Không chừng là xe hơi !
Bình Trọc chống hai tay xuống đất, cúi sát mặt hít ngửi mấy giọt dầu :
- Không, không phải xe hơi ! Đây là xăng pha nhớt để chạy xe gắn máy.
Vậy ra Hai Ngữ đã xuống xe tại chỗ này. Nhưng sao không thấy một con đường nào khác cả. Hay gã đã xuống xe dắt bộ. Đánh hơi thật kỹ quanh mấy giọt dầu một lần nữa, Ca Phi kéo tôi tới một bãi rộng mọc đầy những sim, và cỏ ràng ràng rậm rì xanh tốt. Có vết chân người in lõm trên đám lá khô.
Chợt Bình Trọc khẽ reo :
- Coi này ! Có cả vết bánh xe nữa ! Thấy không ? Vệt dài, trũng trên lá khô ẩm mục đó !
Đúng rồi ! Đúng là đã có người dắt xe gắn máy đi qua đây. Ca Phi theo dò đúng quá. Đi hết cánh rừng thấp, con chó vẫn không chịu dừng chân. Cả bọn lại băng qua một thửa ruộng khô phơi mặt đất nứt nẻ trắng xóa. Không thấy dấu vết gì khả nghi. Ca Phi vẫn tiếp tục tiến tới, dắt tôi đến một cái hố dài trông như một cái hầm trú ẩn đào sâu dưới mặt đất. Nó nhẩy xuống, kéo tụi tôi men theo cái hố dài tiến bước… Một tấm liếp bằng gỗ che kín một cửa hầm xây bằng xi măng án ngữ trước mặt.
Bình Trọc :
- Lạ nhỉ ! Không phải cửa nhà, chẳng phải cửa hang…
Tâm :
- Hay là cửa vào một cái hầm mỏ gì đó. À, mà có nghe nói ở đây có hầm mỏ gì đâu nhỉ !
Tôi chợt nhớ ra. Lúc sáng, khi theo hút Hai Ngữ, tôi để ý thấy con đường ở đây hơi lạ. Hai bên lề đường có nhiều viên gạch rơi vãi rải rác đó đây.
- Có thể đây là một cái lò gạch cũ.
Tâm gật đầu :
- Có lý ! Có thể đây là một cái lò gạch lâu ngày không dùng đến nữa. Nhưng sao lại có cửa khoá?
Trong khi Ca Phi đưa mũi đánh hơi dưới mấy tấm ván cửa, tôi ghé mắt dòm qua khe gỗ hở cố nhìn xem có cái gì lạ bên trong đường hầm. Bóng tối như bưng lấy mắt.
Bình Trọc giật áo tôi :
- Cẩn thận ! Coi chừng có người ở trong đấy !
Cả ba ghé sát tai vào cửa nghe ngóng. Không có gì lạ. Bên trong hoàn toàn im lặng. Tâm cố lay cánh cửa có lỗ khóa cứng ngắc.
- Nhất định phải xem có cái gì ở trong đó. Coi con Ca Phi kìa. Nó cương quyết đòi vào bằng được đấy.
Dứt lời, Bình ghé vai hích mạnh. Cánh cửa gỗ vẫn không nhích. Cả ba chúng tôi hợp lực nhau lấy vai tông mạnh. Một tấm ván sút đinh rớt xuống. Lỗ hổng đủ người đi lọt. Chúng tôi bước vào. Mùi ẩm mốc bốc lên sặc sụa khiến cả bọn nhăn mặt. Ca Phi lắc mạnh đầu, nhẩy mũi luôn mấy cái.
Không có đèn chắc không nhìn thấy gì hết, dù có tháo tung tất cả ván cửa.
Bình Trọc rút chiếc đèn bấm nhỏ :
- Có đèn đây nhưng “pin” yếu lắm.
Tia sáng vàng vọt lóe ra nhưng chiếu xa không đầy năm thước. Tôi rón rén đặt bước, con Ca Phi kéo dây da phăng tới. Đất mềm lún xuống dưới bước chân.
Bình chiếu đèn lên cao rồi lại soi kỹ mặt đất :
- Đúng rồi ! Đây là một cái lò gạch cũ, được đào thêm cho rộng ra và sâu hơn để làm chỗ trồng nấm. Vì thế mới có cửa khóa cẩn thận.
Nó cúi xuống lượm lên hai cái nấm nhỏ trắng tinh đoạn chiếu đèn soi quanh để kiếm thêm nữa.
- Nhưng rồi chỗ trồng nấm này cũng bị bỏ luôn. Nếu không thì đã phải có nhiều nấm lắm chứ. Nhặt cho kỹ cũng chưa chắc được một giỏ.
Nếu vậy, Hai Ngữ lén lút tới đây chỉ là để hái nấm còn sót lại cho vào cái túi cột ở sau xe. Tâm, Bình và tôi đều nghĩ như thế.
Tâm :
- Tụi mình mất toi thì giờ vô ích. Thì ra anh Hai Ngữ mò đến đây chỉ là để hái trộm nấm.
Bình tỏ vẻ nghi ngờ :
- Nhưng anh ta đâu có cần phá cửa để vào. Chắc y có chìa khóa. Mà thử hỏi tại sao anh ta có chìa khóa riêng để mở cửa vào thật ngon lành như thế ?
- Biết đâu Hai Ngữ lại chẳng đã có thời kỳ làm việc tại đây ?
Con Ca Phi vẫn trì kéo tôi đi sâu thêm nữa. Nó dừng lại, húc mõm vào tay đòi tôi cho ngửi cái mũ nồi lần nữa.
Bình bấm đèn bước theo. Quả nhiên có kẻ nào đó đã vào đây, đốt cả lửa để đun nấu. Nhiều mẩu gỗ cháy dở chứng tỏ điều đó. Lại có nhiều vết giầy in trên nền đất ẩm.
Tâm bảo Bình :
- Chiếu đèn ra sát mặt đất đi Bình ! Vết giầy lạ sẽ nổi lên rõ rệt.
Vết giầy khá nhiều, to lớn không bằng nhau chứng tỏ ít nhất đã có hai người vào đây.
Bình Trọc khẽ reo :
- Ba chứ không phải hai đâu ! Có cả một người đàn bà nữa. Coi những lỗ nhỏ do giầy hay guốc cao gót in xuống đất này.
Tôi cúi nhìn cho rõ những lỗ nhỏ do gót guốc hay giầy đàn bà in xuống, chợt trống ngực đập thình thịch. Bất giác tôi hét lên :
- Soi đèn tới đây ! Bình, mau lên !
Ánh đèn bấm không sáng lắm nhưng cũng tạm đủ để soi rõ những vết giầy trẻ con in không sâu trên mặt đất ẩm. Lập tức, tôi rút chiếc săng đan nhỏ của bé Kính từ trong túi ra, áp lên một vết giầy trẻ con rõ nhất. Đế chiếc săng đan so với vết giầy nhỏ hơn một chút.
- Đúng rồi ! Đôi săng đan mới bà Tám Vinh mua cho bé Kính buổi sáng hôm bé bị bắt đi, nhất định phải lớn hơn chiếc săng đan cũ chứ.
Thế là nhờ con Ca Phi, chúng tôi đã khám phá ra một điều khá ghê rợn. Bé Kính bị đem giấu tại đây và bọn gian bắt cóc em gồm có ba người. Nhưng không hiểu sao chúng lại bỏ đây mà đi, đem theo cả bé Kính ?
Tâm chép miệng tiếc rẻ :
- Bọn mình tới trễ mất rồi. Tiền chuộc đã trao và chúng đã đem trả lại bé Kính. Thế là bọn gian thoát thân và ông lang thang vẫn bị nghi ngờ, tiếp tục bị giam giữ không biết đến bao giờ.
Tâm nói đúng. Sự thật có thể như thế. Mọi người yên tâm phần nào về bé Kính. Ủa, quái thật ! Không biết tại sao chúng tôi vẫn cảm thấy bồn chồn khắc khoải. Một niềm khắc khoải rất kỳ lạ khiến chúng tôi có cảm tưởng là sự việc không chỉ giản dị như thế. Hay vì không tìm bắt được thủ phạm, ba anh em chúng tôi buồn quá, đâm ra nghĩ quẩn chăng ?
Còn đang bối rối, không biết quyết định lẽ nào, chợt ánh đèn “pin” của Bình quét lên vách hầm phía bên phải, soi trúng cái gì trăng trắng giắt trong khe đá. Không thể bảo đó là mấy cái nấm được. Chộp vội đèn bấm, tôi soi lên, rút ra được hai mảnh giấy gấp tư.
- A, hai mảnh giấy báo !
Đúng là hai mảnh giấy đăng tin bắt cóc cắt trong báo ra. Những mục tin chúng tôi đã được đọc. Một đề ngày 20. Một đề ngày 21. Tôi đưa đèn bấm cho Bình nhờ soi dùm để xem xét thật kỹ. Trên hai mảnh báo đều có đoạn gạch bút chì làm dấu.
Tôi bảo các bạn :
- Tâm, Bình thấy chưa ! Bọn gian chú trọng đến mọi tin tức liên quan đến cuộc lùng xét của cảnh sát tại vùng quê ven biên. Chúng sợ bị phát giác đấy. Vì thế chúng phải bỏ đây mà đi đem theo bé Kính để giấu tại một nơi khác.
Tâm tán thành :
- Đúng thế ! Có điều bọn họ bỏ đi cũng chưa lâu lắm đâu vì hồi sớm mai này, Hai Ngữ còn tới đây kia mà.
Tôi khẽ lắc đầu tỏ vẻ hoài nghi :
- Biết đâu hắn chẳng trở lại để thu nhặt, dọn sạch mọi dấu vết có thể tố giác cả bọn. Hai Ngữ có đem cả cái túi theo đó.
Bình xoa xoa cái đầu trọc :
- Ừ, ừ, có thể thế lắm. Nhưng làm thế nào để biết được bọn gian bỏ đi từ bao giờ nhỉ ? Tôi nghi như thế này : một là chúng sợ bị phát giác nên tìm đường đào tẩu, hai là sau khi nhận tiền chuộc chúng đã đem bé Kính trả lại rồi chăng ?
Tâm :
- Vậy thì chỉ có về nhà, chúng mình mới biết chắc được. Nếu bé Kính đã được đem trao trả, tất nhiên cả tỉnh phải đồn ầm lên chứ. Bây giờ chúng ta về coi xem tin tức ra sao.
Tôi huýt gió gọi Ca Phi. Cả bọn bước ra khỏi hang nấm sau khi đã đóng lại mấy tấm ván cửa.
Rủi quá ! Vừa bước ra lấy xe đạp thì trời đổ mưa. Tâm giơ cổ tay xem đồng hồ : sáu giờ mười lăm. Bình Trọc lộ vẻ nóng ruột :
- Về ! Đợi cho hết mưa thì tối mịt. Xe lại không đèn.
Thế là dưới trời mưa không lớn lắm, ba anh em từ từ đạp xe, hết sức đề phòng mặt đường trơn trượt. Bình Trọc thỉnh thoảng lại loạng choạng tay lái như muốn lao cả người lẫn xe xuống ruộng. Con Ca Phi đều đều gõ móng lách cách trên mặt đường, sát bên xe tôi. Chốc chốc nó lại quẫy mạnh thân mình để rũ cho hết nước mưa khiến hai ống quần tôi ướt nhẹp.
Hơn một giờ sau, trời tối mịt, cả bọn mới về tới công viên. Ai nấy ướt như chuột lột. Chắc hẳn bé Thơ về từ trước, vẫn rình chúng tôi bên cửa sổ nhà sàn, nên vừa xuống xe đã thấy bé xuất hiện, đầu đội mưa chạy xuống gian nhà ương cây.
- Chu choa ! Các anh ướt lướt thướt, bùn đất tèm lem hà ! Có gì rắc rối không mà quá xá vậy ?
Tôi mỉm cười trấn an bạn :
- Yên trí đi, bé Thơ ! Chỉ có một chầu tắm mưa bằng thích thôi !
Chợt bé Thơ nhìn ba đứa tôi, giọng đổi khác :
- Các anh có biết tin gì không ?... Hình như tiền chuộc đã nạp rồi mà bé Kính vẫn chưa được đem trả lại.
_______________________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG XI, XII