CHƯƠNG VIII
Tôi nhớ văn hào Công-Rát (Conrad) đã
viết cho một người bạn rằng cuộc sống cho ông ta cảm tưởng như mình là con
chuột mù nằm ở góc nhà, chờ đợi giờ phút người ta đập chết. Sự so sánh ấy có
thể coi như phù hợp vào biết bao nhiêu cảnh ngộ bi thảm mà chúng ta đây có thể
trải qua. Nhưng trong chúng ta cũng có nhiều người gặp được một dịp sung sướng,
một dịp may mắn, và đó là điều đã xảy ra cho bản thân tôi.
Tôi đã bán báo, làm thợ nhà
in, bán đồ chơi cho trẻ con, thổi chai, chạy việc cho thầy thuốc v.v… nhưng
trong những cuộc phiêu lưu nghề nghiệp như thế, tôi cũng như anh Sít-nê, không
bao giờ quên cái đích tối hậu đời mình là thành kịch sĩ. Vì vậy, gặp được dịp
rảnh nào là tôi đánh giày, chải áo tìm đến xin việc tại sở kịch nghệ Bờ-Lắc-Mo (Blackmore). Tôi đã đi lại như
thế mãi cho đến ngày áo quần của tôi không cho phép tôi được xuất hiện nữa.
Nhưng một tháng sau ngày anh Sít-nê tôi về, tôi được nhận vào đoàn hát. Khi
được chấp thuận và hẹn ngày giờ làm việc tôi lên xe buýt về nhà, say sưa vì
hạnh phúc. Người ta chịu trả cho tôi số tiền thù lao hai liu và mười xi linh
mỗi tuần. Như thế, tôi đã đột ngột rời khỏi cuộc đời nghèo khổ và bước vào
trong giấc mơ ôm ấp từ lâu, giấc mơ mà mẹ tôi từng nói đến với một niềm vui lạ
lùng. Tôi sẽ trở thành diễn viên sân khấu. Tất cả điều ấy xảy tới đột ngột
chừng nào, bất ngờ bao nhiêu. Suốt cái thời gian ngồi trên xe buýt tôi cảm thấy
mình đã vượt qua được một giai đoạn thật là quan trọng. Tôi không còn là nhân
vật vô danh lê lết trên các ngoại ô. Bây giờ tôi đã thuộc vào thế giới kịch
nghệ. Nghĩ thế, tôi chỉ chực khóc.
Khi tôi trở về kể lại đầu
đuôi câu chuyện người ta đã tiếp nhận tôi ra sao cho anh tôi nghe, nước mắt anh
tôi bỗng chảy đầm đìa. Anh ngồi nơi giường nhìn ra cửa sổ với vẻ suy nghĩ, vừa
lắc lư đầu và vừa gục gặc rồi nói một cách trang trọng:
- Chúng ta đang ở vào một
khúc quanh quan trọng của cuộc đời mình. Ước gì có mẹ ở đây để cùng vui với
chúng ta.
Tôi tiếp lời anh một cách
phấn khởi:
- Anh thử nghĩ coi, họ đã
chịu ký giao kèo để mình trình diễn bốn mươi tuần lễ mà cứ mỗi tuần là hai đồng
liu và mười xi linh. Em cũng đã bảo ông bầu về việc giao kèo ký kết này nọ đều
do anh quyết định cả, như thế mình còn có thể đòi được cao hơn. Ít ra năm này
anh em mình để dành được sáu chục đồng liu là ít.
Sau khi sự phấn khởi đã dịu
bớt, anh em chúng tôi nhận định là tiền thù lao hai liu và mười xi linh thật
không xứng với vai trò quan trọng mà tôi nhận lãnh trong vở tuồng đó. Tôi bảo
anh tôi cố gắng đòi thêm, nhưng cuối cùng ông bầu gánh tỏ ra không chút nao
núng nên chúng tôi cũng thấy thế là quá tốt rồi. Anh tôi đọc hết vai kịch, giúp
tôi học thuộc. Đó là một vai đáng kể, dài độ ba mươi lăm trang nhưng chỉ ba ngày
tôi đã thuộc lòng. Đến ngày trình diễn để mà duyệt xét trước khi chính thức vào
rạp người đạo diễn của đoàn hát tỏ ra hết sức ngạc nhiên hỏi tôi đã từng trình
diễn lần nào ở trên sân khấu hay chưa. Mọi người trong đoàn tỏ ra hết sức hài
lòng. Tôi chỉ còn mỗi khuyết điểm phải sửa chữa lại là hơi ngọ nguậy cái đầu và
hay nhăn nhó trong khi phát biểu.
Đến khi thực sự trình diễn,
vở kịch không được thành công. Các nhà phê bình sân khấu nặng lời chỉ trích,
chỉ riêng mình tôi được vài lời khen. Một tờ báo viết : “Có một chi tiết đáng
kể đã gỡ gạc được rất nhiều cho vở kịch, ấy là vai em bé bán báo đã gây vui
nhộn và lôi cuốn được khán giả. Vai đó đã được Sạc-Lơ Sa-Pơ-Lanh, một kịch sĩ
trẻ có tài thủ lấy”. Anh tôi đã mua mười hai tờ báo như vậy để mà lưu giữ. Suốt
cái thời gian trình diễn hai tuần, chúng tôi vẫn ở nhà cũ vì trên phương diện
kinh tế chúng tôi thấy chưa có gì thật sự bảo đảm. Vào một dịp rảnh, chúng tôi
đến dưỡng trí viện thăm mẹ. Mấy cô khán hộ đều nói là mẹ tôi không được khỏe
trong ngày hôm đó nên không thể nào thăm được. Họ kéo anh tôi lại chỗ khác để
nói chuyện và tôi nghe anh trả lời:
- Không, tôi chắc nó không
muốn đâu. (Đoạn, anh quay nhìn tôi với một vẻ mặt buồn bã) Em có muốn gặp mẹ
trong biệt phòng không?
Tôi bước lùi lại, kêu lên:
- Ồ, không. Em không thể nào
chịu nổi cảnh đó.
Nhưng anh tôi đến thăm mẹ,
bà nhận ra được anh tôi và tìm lại được một sự tỉnh táo bình thường. Vài phút
sau đó một cô khán hộ ra bảo nếu tôi muốn thăm hãy cứ theo vào và chúng tôi
cùng gặp nhau ở trong biệt phòng. Trước khi anh em chúng tôi ra về mẹ tôi kéo
riêng tôi ra một chỗ và bà thì thầm bảo tôi với một giọng nói tuyệt vọng:
- Nhớ đừng mất trí nghe con,
nếu không họ sẽ nhốt con ở đây.
Mẹ tôi phải ở trong dưỡng
trí viện đến mười tám tháng mới tìm lại được sức khỏe. Nhưng trong thời gian
tôi đi trình diễn khắp nơi thì anh tôi vẫn thường xuyên đến viếng thăm bà.
Trong chuyến trình diễn đầu
tiên ban Quản trị của đoàn hát bảo tôi cùng ở chung với vợ chồng ông Gờ-Rin (Green).
Ông là thợ mộc của đoàn, bà phụ trách việc may mặc. Ở chẳng vui gì mà ông bà
này lại còn có tật nghiện rượu. Tôi không thích ngồi ăn chung với họ, và cũng
không ưa được cách ăn uống của họ. Tôi nghĩ cuộc chung sống này đã chẳng vui gì
cho họ mà cũng chẳng vui gì cho tôi. Được ba tuần lễ, chúng tôi đồng ý ở riêng
và bởi tôi còn quá trẻ để chung sống với các đào kép khác nên tôi phải ở một
mình. Như thế, tôi sống đơn độc trong một thành phố xa lạ, một mình ở trong
chiếc phòng nhỏ bé và trước khi đêm trình diễn bắt đầu tôi cũng ít khi tiếp xúc
với một ai khác, tôi chỉ được nghe có mỗi giọng nói của tôi mỗi khi tôi nói mà
thôi. Thỉnh thoảng tôi cũng bước vào tiệm nước mà các đào kép cũng như nhân
viên của đoàn tụ tập, để xem họ chơi bi da. Nhưng tôi luôn có cảm tưởng sự tôi
hiện diện làm họ không thích chuyện trò và họ cũng tìm cách cho tôi thấy rõ
ràng điều ấy. Khi họ đùa cợt, nếu tôi hòa tiếng cười theo thì họ nhìn tôi một
cách thật là nghiêm khắc.
Dần dần nỗi buồn xâm chiếm
lấy tôi. Một tối thứ bảy khi chúng tôi đến những thành phố về phía Bắc tôi chỉ còn
nghe những hồi chuông reo thảm đạm trong khi tôi dạo bước trên đường lớn. Bóng
tối xuống dần, và nỗi cô độc của tôi cũng không có cách gì xoa dịu. Những ngày
trong tuần tôi đi lang thang vào trong các chợ địa phương mua sắm này nọ và mua
thức ăn để về cho người chủ trọ nấu nướng. Đôi khi tôi đến thuê một phòng trọ
và tôi cùng ăn với gia đình chủ. Việc này làm tôi thích thú vì cách nấu ăn của
người miền Bắc thật là sạch sẽ và rất ngon lành.
Tôi đi trình diễn trong vòng
sáu tháng. Trong thời gian đó anh Sít-nê tôi vẫn chưa thành công trong ước vọng
thành kịch sĩ nên tạm kiếm việc làm khác và được thu nhận vào bán trong một
tiệm lớn. Trong số một trăm năm chục người xin vào làm, người ta chỉ chọn mỗi
anh. Vậy mà anh vẫn cảm thấy đó là một sự thất bại nặng nề. Anh thường xuyên
viết cho tôi để cho tôi biết tin tức về mẹ nhưng tôi ít khi trả lời thư anh,
trước hết vì chữ tôi viết quá kém. Có một bức thư của anh làm tôi hết sức cảm
động. Anh đã trách tôi về việc vắng bặt thư từ, gợi lại bao nhiêu đau khổ mà chúng
tôi đã trải chịu cùng nhau, và những tủi nhục, những khổ nghèo ấy đáng lẽ phải
làm chúng tôi gắn chặt vào nhau. Anh viết “Từ
ngày mẹ của chúng ta lâm bệnh, mỗi người trong chúng ta đây chỉ còn có nhau
trên cõi đời này. Em hãy thường xuyên viết thư cho anh, để nhắc nhở anh nhớ
rằng anh vẫn còn có đứa em”. Thư anh thật là cảm động, và tôi vội vàng trả
lời. Kể từ ngày ấy, tôi nhìn anh tôi với một tâm tình khác hẳn. Bức thư của anh
làm gắn chặt thêm tình anh em giữa chúng tôi và mối tình ấy bền chặt suốt cuộc
đời tôi.
Tôi đã tập thói
quen để sống
một mình. Nhưng tôi đã mất thói quen ăn nói đến nỗi thình lình gặp một
nhân
viên đoàn hát tôi thấy lúng túng một cách khủng khiếp. Tôi không thể nào
tìm
lại ý nghĩ cho kịp để trả lời thật thích đáng những câu người ta hỏi
tôi, và
khi người ta đi rồi tôi chắc họ cũng ngờ tôi mất trí. Cô đào chánh của
đoàn tôi
thật đẹp, thật là dễ thương và thật tử tế, vậy mà đi ở ngoài phố trông
thấy cô
ta đi về phía mình tôi phải vội vàng quay lưng giả bộ chăm chú nhìn
trong tủ
kính và tìm rẽ sang lối khác để tránh chạm mặt. Dần dà tôi không chú
trọng tới
sự ăn mặc, trở thành hết sức lôi thôi. Cùng đi với đoàn bao giờ tôi cũng
trễ
lại sau cùng, và đến phút cuối tôi mới chạy đến sân ga, tóc tai bù xù,
nên
thường xuyên bị trách mắng. Để cho có bạn, tôi bèn mua một con thỏ, và
dừng lại
một nơi nào tôi tìm cách đem nó nhốt chung vào phòng mình mà không cho
chủ nhà
biết. Con thỏ thật xinh nhưng không quen sống trong nhà. Bộ lông của nó
vừa
trắng vừa sạch đến nỗi không ai ngờ rằng nó lại có thể hôi hám đến thế.
Tôi
nhốt nó trong một cái lồng bằng gỗ nhỏ, giấu ở dưới giường. Bà chủ bước
vào
trong phòng thật là vui vẻ, mang các thức ăn cho tôi, nhưng cũng liền đó
bà ta
đánh hơi thấy mùi khác lạ và vội vàng bước ra ngoài với vẻ ngạc nhiên,
lo lắng.
Đợi bà ra khỏi, tôi phóng thích ngay con thỏ để nó vọt qua khỏi phòng.
Từ đó,
tôi tìm cách dạy nó biết vọt ra khỏi chuồng mỗi lần có người gõ cửa. Khi
bà chủ
nhà khám phá được bí mật đó, tôi bèn trình bày sự việc khiến bà cũng
thấy cảm
động và bà cố gắng chịu đựng chúng tôi trong một tuần lễ. Nhưng lúc tôi
đến Tô-Ni Pân-Đi sau khi tôi đã trình bày cho bà chủ nhà biết rõ
tài nghệ của con thỏ tôi, bà ta mỉm một nụ cười bí mật không nói năng
gì. Nhưng
tối hôm đó, khi tôi trở về, thì con thỏ đã biến mất. Tôi có gặng hỏi, bà
chủ
lắc đầu và bảo:
- Chắc là nó trốn đâu đó hay
ai đánh cắp mất rồi.
Nhưng chính bà đã tìm ra một
cách giải quyết vấn đề thật là công hiệu.
Sau khi trình diễn bốn mươi
tuần lễ vòng quanh các tỉnh, đoàn của chúng tôi quay về trình diễn tám tuần
trong vùng ngoại ô Luân Đôn. Vở kịch chúng tôi đang diễn thâu gặt kết quả hết
sức rực rỡ, nên hết chuyến lưu diễn này sẽ tổ chức thêm một chuyến thứ hai độ
ba tuần lễ. Anh tôi và tôi quyết định rời khỏi chỗ cũ quá sức chật chội để tìm
thêm một ngôi nhà ở trong khu phố khang trang hơn nhiều. Như những con rắn,
chúng tôi cũng muốn thay da, rời bỏ những vết tích của quá khứ. Có một vai phụ
ở trong vở kịch trong chuyến lưu diễn sau này và tôi đề nghị với viên quản lý
đoàn hát thâu nhận anh tôi thủ vai trò đó. Anh tôi đã được chấp thuận với tiền
thù lao mỗi tuần là ba mươi lăm xi linh. Lần này chúng tôi được đi chung trong
đoàn hát. Mỗi tuần anh tôi đều viết thư về cho mẹ, và sau chuyến lưu diễn này
chúng tôi nhận được lá thư của dưỡng trí viện cho biết mẹ tôi đã bình phục rồi.
Thật là một tin hết sức vui mừng. Chúng tôi sắp xếp mọi việc để mẹ tôi rời bệnh
viện và về ở với chúng tôi. Để mừng sự đoàn tụ ấy, chúng tôi thuê một ngôi nhà
thật sang gồm có hai phòng và một phòng khách, có một dương cầm trong phòng mẹ
tôi cùng với nhiều hoa, và chúng tôi đặt một bữa ăn tối thật là sang trọng. Anh
tôi và tôi ra ga đón mẹ, hớn hở sung sướng, nhưng tôi vẫn tự hỏi lòng với ít
nhiều nỗi âu lo không hiểu mẹ tôi trở về lại với cuộc sống chúng tôi sẽ như thế
nào, vì tôi hiểu rằng những sợi dây đã ràng buộc chặt chẽ chúng tôi như là ngày
xưa không bao giờ tìm lại được.
Cuối cùng tàu đến. Chúng tôi
nhớn nhác dò xét từng khuôn mặt người bước xuống từ các toa tàu. Rồi mẹ tôi
đến, tươi cười bước tới một cách trầm lặng. Bà không lộ một vẻ gì xúc động khi
anh em tôi gặp bà, mà đã đón tiếp chúng tôi với sự phải phép thân tình. Rõ ràng
mẹ tôi cũng cần phải có thời gian để mà hòa hợp.
Trên chuyến xe ngựa ngắn
ngủi từ ga về nhà, mẹ con chúng tôi nói hàng trăm chuyện. Sau phút phấn khởi
dẫn dắt mẹ tôi xem nhà, xem căn phòng dành riêng cho bà, chúng tôi họp lại ở
trong phòng khách, nhìn nhau nghẹn ngào. Đó là một ngày đẹp trời, căn phòng
chúng tôi nhìn ra đường phố yên tĩnh, nhưng sự vắng lặng bây giờ trở thành nặng
nề và mặc dù tôi cảm thấy muốn được toại lòng tôi cũng phải chống chọi lại một
nỗi ngột ngạt. Người mẹ khốn khổ của tôi chỉ đòi hỏi thật ít ỏi trong cuộc đời
này để được sống vui, gợi tôi tưởng nhớ lại cái quá khứ buồn thảm của mình. Và
mẹ tôi là con người cuối cùng trên cõi đời này có thể tác động đến tôi như thế.
Tôi tìm mọi cách che giấu những cảm nghĩ ấy. Mẹ tôi có phần già hơn và nặng nề
hơn. Tôi thường lấy làm kiêu hãnh về cái dáng đi của bà, về cách ăn mặc của bà
và tôi muốn đem bà đến trình diện với đoàn, nhưng bây giờ bà có vẻ xuềnh xoàng.
Chừng đoán được ý nghĩ tôi bà quay lại nhìn với một ánh mắt dò hỏi. Tôi đưa tay
vén mái tóc mẹ tôi một cách ngượng ngập và mỉm cười nói với bà:
- Trước khi đưa mẹ đến gặp
đoàn hát, con muốn mẹ thật khỏe đã.
Mẹ tôi nhìn tôi, rồi cầm búp
phấn xoa lên mặt bà vui vẻ nói:
- Mẹ thật sung sướng vì còn
được sống.
Chỉ một thời gian ngắn sau,
chúng tôi hòa hợp và nỗi buồn rầu của tôi cũng tan biến đi. Mẹ tôi hiểu rõ hơn
chúng tôi nhiều rằng cái thời kỳ âu yếm thân mật khi chúng tôi còn ở tuổi ấu
thơ giờ đã qua rồi, và điều đó làm cho bà trở thành yêu quý đối với chúng tôi
hơn nữa. Trong cuộc lưu diễn mẹ tôi lo các công việc mua sắm về phần chợ búa,
bà thường mua các kẹo bánh, trái cây và hoa về cho chúng tôi. Vì ở ngày xưa,
trong cái thời gian khốn khổ nghèo nàn là vậy, khi có dịp đi mua gì vào chiều
thứ bảy mẹ tôi cũng vẫn cố gắng mua về cho chúng tôi một bó hoa nhỏ giá độ một
xu. Nhưng cũng đôi khi mẹ tôi ít nói, tỏ ra dè dặt và thái độ ấy làm tôi buồn
lòng. Mẹ đã xử sự như một người khách trong nhà hơn là mẹ của chúng tôi.
Được chừng một tháng mẹ tôi
muốn quay trở về Luân Đôn vì bà nóng lòng muốn lo thu dọn để khi hết chuyến lưu
diễn anh em chúng tôi có một ngôi nhà tươm tất để ở. Bà còn bảo rằng đi theo
đoàn hát chỉ thêm tốn kém.
Mẹ tôi thuê một căn nhà khá
tốt, tìm cách trang trí thật đẹp. Hai anh em tôi mỗi tuần lãnh được bốn liu và
năm xi-linh, chúng tôi cùng trích để gởi cho mẹ một liu và năm xi-linh. Hết kỳ
lưu diễn lần thứ hai này anh em tôi sẽ cùng ở với mẹ trong nhiều tuần lễ. Dù
rất sung sướng trong cảnh sống ấy, thâm tâm chúng tôi vẫn thích được đi lưu
diễn trở lại. Hẳn là mẹ tôi cũng hiểu điều đó. Khi bà tiễn anh em tôi ở tại sân
ga trông bà rất vui nhưng chúng tôi thấy bên trong như ẩn nỗi buồn. Trong kỳ
lưu diễn lần thứ ba này mẹ tôi viết gởi chúng tôi có cho biết về một sự éo le
do chính định mệnh gây nên là bà Lu-i, người vợ thứ hai của cha tôi đã chết ở
viện Tế bần Lâm Bết, cùng nơi mà mẹ con tôi đã từng trú ngụ ngày xưa. Sau khi
cha tôi qua đời được chừng bốn năm thì bà nối gót, để lại đứa bé một mình, và
nó cũng được gởi đến trường học Hân Huên mà anh em tôi ngày xưa đã phải trải
qua. Mẹ tôi viết rằng bà có đến thăm đứa bé, cho nó biết bà là ai, nhắc lại anh
tôi và tôi đã cùng chung sống với cha mẹ nó ở phu phố cũ. Nhưng nó hầu như
không nhớ được gì, vì vào thời đó nó mới lên bốn. Nó cũng không còn giữ lại một
hình ảnh nào về cha nó nữa. Bây giờ nó đã lên mười. Nó mang tên của mẹ nó khi
bà còn bé, và theo như mẹ tôi biết thì nó không còn ai là bà con thân thích. Mẹ
tôi tả nó như một đứa bé xinh đẹp, ít nói, cả thẹn và vốn ưu tư. Mẹ tôi đem đến
cho nó kẹo bánh, trái cây và hứa hẹn sẽ thường xuyên thăm nó, điều mà chúng tôi
chắc chắn là bà giữ lời, mãi cho đến lúc bà bị mất trí trở lại và phải đưa vào
dưỡng trí viện.
Cái tin mẹ tôi đau lại làm
anh em tôi thực là khổ tâm. Chúng tôi không bao giờ biết rõ được chi tiết của
sự việc ấy. Anh em tôi nhận được một thông báo vắn tắt cho biết người ta tìm
thấy mẹ tôi lang thang ở ngoài đường phố miệng nói lảm nhảm. Chúng tôi không còn
có thể làm gì khác hơn là phải chấp nhận số mệnh của người mẹ khốn khổ ấy. Bà
không bao giờ tìm lại hoàn toàn được tâm não mình. Trong nhiều năm dài bà đã
héo mòn trong dưỡng trí viện cho đến ngày anh em tôi có đủ phương tiện đưa bà
chữa trị trong một bệnh viện.
Đôi khi những vị hung thần
chuyên gieo tai họa cho người cũng thấy mệt mỏi và lại rũ lòng thương hại, như
trong trường hợp mẹ tôi. Trong bảy năm sau của cuộc đời bà, bà đã sống trong
tiện nghi đầy đủ, giữa hoa và ánh sáng, và thấy những đứa con bà đạt được danh
vọng và sự giàu sang ở ngoài mọi sự mơ ước của bà.
Sạc-Lơ Sa-Pơ-Lanh
(Vũ Hạnh lược dịch)