Một buổi sáng ngày 15-3-1920 tại 1 nông trại miền Bắc nước Mỹ, tuyết đã tan gần hết trên khắp cánh đồng. Trại chủ Uy Liêm khoan khoái xoa tay khi xong công việc và quay trở vào nhà.
"Tuyết sẽ tan hết nội đêm nay." Ông vui vẻ nói với vợ như vậy và kéo ghế ngồi xuống ăn bữa ăn trưa. Khi ăn xong, ông đứng dậy, nhìn qua cửa sổ và nói: "Cám ơn Thượng Đế". Trong khi đó ở chân trời về phía Tây Bắc, từng đám mây đen bay là là mặt đất, che lấp 1 phần mặt trời giữa trưa. Bà Uy Liêm nhìn đám mây và đoán thầm: "Lại sắp có trận bão từ miền Bắc đây". Đám mây ngày càng đen kịt, lúc này trông nó giống như 1 con quái vật khổng lồ.
"Bà hãy dọn dẹp bàn ăn, để tôi ra trường đón các con về." Nói xong, ông vội vã khoác chiếc áo ấm, đội cái mũ, bước vội ra ngoài và nhảy lên lưng con ngựa KÍT phóng đến trường học cách đó khoảng 4 cây số. Lúc này, mây đen đã bao phủ kín khắp bầu trời, vạn vật như sẵn sàng chờ đợi cơn bão. Rồi thì 1 làn mưa tuyết hắt vào mặt ông Uy Liêm và con ngựa, những hạt tuyết lạnh bám vào mi mắt khiến ông không mở được mắt và khó nhìn thấy đường. Ông chỉ còn thấy mờ mờ gần đó chiếc sân trường hiện ra, vội vã xuống ngựa, cột ngựa vào 1 cột hàng rào sân trường. Ông nhìn thấy con ngựa già MỐT của các con ông buộc gần đó, xong ông rảo bước vào trong trường.
Trong lớp học, thầy giáo và học trò đều thấy sắp có 1 trận bão tuyết, nhưng theo điều lệ nhà trường, nếu gặp bão tuyết, học sinh chỉ được phép ra về khi có thân nhân đến đón mặc dầu khi đi học chúng tự lái lấy những xe trượt tuyết (Sleigh).
Hà Mai, 16 tuổi, trông thấy ông Uy Liêm, bố nó, đang bước vào trong trường, nó nói với 2 em nhỏ: thằng An Mỹ, 11 tuổi và con Mỹ Linh, 8 tuổi "Ba đã đến đón chúng ta kìa, chị đoán rằng chắc ba không tin là chúng ta tự lái xe trượt tuyết 1 mình về nhà được." Trông thấy các con, ông Uy Liêm mỉm cười và giục: "Nhanh lên, các con hãy mặc áo và đi giầy bốt vào." Hà Mai giúp con Mỹ Linh mặc áo, đi giầy và thu xếp sách vở. Nó nhắc thằng An Mỹ: "Đừng quên quyển sử em nhé". Rồi ông Uy Liêm 1 tay bế Mỹ Linh, 1 tay dắt Hà Mai và thằng An Mỹ ra xe trượt tuyết. Ông kéo chiếc mui phủ kín chiếc xe, đặt 2 đứa nhỏ ngồi xuống sàn xe, đắp cho chúng mỗi đứa 1 chiếc chăn len và đội cho chúng chiếc mũ lông. Còn Hà Mai trèo lên ngồi chỗ ghế ngồi lái, trong khi bố nó buộc con ngựa MỐT vào xe. Qua làn gió bão, ông hét to: "Hãy chờ bố 1 tý, bố chạy đi lấy con ngựa KÍT đã. Bố sẽ cưỡi con KÍT để dẫn đường" nói xong ông chạy lại chỗ buộc con ngựa KÍT. Con ngựa MỐT đứng yên lặng trước cái xe chờ đợi, nó là một con ngựa ngoan, biết vâng lời và dễ dãi. Bỗng nhiên 1 tiếng sấm ầm vang làm cho nó giật mình hoảng sợ vội kéo xe phóng chạy về cổng phía Nam của sân trường. Trong lúc hoảng hốt, nó đã chạy nhầm hướng và đi lạc đường. Hà Mai vẫn không biết vì trong cơn bão tuyết, nó không mở được mắt nên không thấy đường. Nó gào to bảo 2 em nó ngồi đằng sau: "Đừng có sợ, chúng ta sẽ về tới nhà trước cả bố và con KÍT, con MỐT thuộc đường lắm". Hà Mai không thể điều khiển được con MỐT, tay nó còn bận vuốt những hạt tuyết hắt vào mặt nó. Con MỐT mệt dần vì phải vất vả chạy trong bão tuyết, nó chạy chậm dần rồi ngừng lại, đứng yên không chạy được nữa. Trong xe, thằng An Mỹ hỏi vọng ra: "Có phải chúng ta đã tới nhà không? Bố đã về đến chưa chị?" Hà Mai vội bước xuống đám tuyết phủ mặt đất. Qua lớp bão tuyết dày đặc, nó không thể định hướng chỗ nó ngừng là đâu, trên đường cái hay trên cánh đồng. Chung quanh nó, tiếng gió rít và bão tuyết ào ào bên tai. "Chị Hà Mai", thằng Mỹ An gọi lần nữa, "chúng ta đang ở đâu? Có phải chúng ta đã tới nhà rồi không?" Hà Mai từ từ quay trở lại chỗ ngồi lái và trả lời: "Không phải, chúng ta chưa về tới nhà, nhưng chị tin rằng chúng ta sẽ về tới vì con MỐT thuộc đường lắm". Con MỐT lại cố gắng lê bước kéo chiếc xe trong cơn bão tuyết. Hà Mai không thể nhìn thấy gì vì tuyết bao phủ chung quanh. Có lần con MỐT sa vào 1 hố nước bị tuyết phủ kín bên trên, Hà Mai lại phải xuống xe và khó nhọc lôi con MỐT lên khỏi cái hố. Lúc này, áo nó ướt sũng và rét run lập cập, nó đứng nghỉ bên cái xe. Chợt nhìn thấy đỉnh của 1 cọc hàng rào lấp dưới tuyết, nó cúi xuống bới đám tuyết để tìm vì nó nghĩ rằng có thể là nó sẽ lần theo hàng rào để đến 1 trang trại gần đó trú ẩn. Thằng An Mỹ bước ra khỏi xe để xem chị làm, rồi nó giúp chị phủi lớp tuyết bám đầy mặt con MỐT. Cả 2 đứa đều cố gắng tìm dấu vết chiếc cột hàng rào, kiếm mãi, kiếm mãi, nhưng chúng vẫn không kiếm được. Dưới lớp tuyết dầy đặc, chúng không tài nào kiếm được hàng rào của 1 trang trại cách chúng không xa, chỉ hơn 60 thước. Hai đứa lại quay trở vào trong xe. Con MỐT lại ra sức kéo chiếc xe. Bỗng chiếc xe ngưng lại vì vấp phải vật cứng dưới lớp tuyết. Chiếc xe lật nghiêng sang một bên và xô những đứa bé lăn ra chiếc mui xe. Hà Mai, An Mỹ và con Mỹ Linh lóp ngóp bò ra khỏi xe, đứng dậy và cố gắng lật chiếc xe lên, nhưng chiếc xe thì nặng so với sức yếu của 3 đứa trẻ nên vẫn không nhúc nhích. Chúng đành chịu bó tay, đứng đợi trong bão tuyết để mong họa chăng có ai đến cứu chúng chăng? Lúc này đã xế chiều, không 1 ánh sáng trên trời, bão tuyết vẫn rơi ào ào. Trong bóng tối, Hà Mai đang cố suy nghĩ tìm cách trở về nhà được, nó nghĩ nó có bổn phận phải cố gắng dìu dắt và săn sóc các em nó vì nó là chị lớn nhất. Bằng đôi tay bé nhỏ, nó vuốt chiếc mui xe và nói:
"Trông! Chúng ta sẽ ở trong cái mui xe, nó đẹp và chắc chắn như ở nhà". Vì chiếc xe chỉ lật nghiêng 1 bên, cái sàn xe lúc này như là một chiếc tường thấp che hướng Đông, chiếc mui xe như là một cái lều căng trên hai thành xe. Trong bóng tối, Hà Mai mò tìm những chiếc khăn và áo choàng lông, phải khó khăn lắm, vì hai tay bị tê cóng, nó mới xếp được hai cái chăn xuống sàn của một phía thành xe lúc này đã trở thành sàn xe vì xe nằm nghiêng, xong nó bảo con Mỹ Linh và thằng An Mỹ nằm xuống rồi nó choàng đôi tay bé nhỏ của nó cố che kín hai đứa em để ấp ủ cho chúng nó đỡ rét. Ba phía xe đều kín mít duy chỉ còn một phía về hướng Bắc là hở nên gió bão lùa vào phía này. Hà Mai cởi chiếc áo choàng lông nó đang mặc để cố che kín nhưng gió bão lại thổi rơi chiếc áo xuống. Không còn cách nào hơn, nó lấy chiếc áo lông của nó đắp thêm cho hai em để chống rét. Bão tuyết bắt đầu xé rách chiếc mui xe. Hà Mai nhặt những mảnh vải đắp thêm cho hai đứa nhỏ rồi nằm đè lên để ủ cho thêm ấm và giữ cho gió khỏi thổi bay những miếng vải mui rách. Bão tuyết vẫn tiếp tục phá hủy tan tành chiếc mui xe, từng trận tuyết vẫn vô tình rơi phủ lên ba đứa bé ngây thơ nằm bất động vì tê lạnh, không còn đủ sức chống lại với sự tàn nhẫn của thiên nhiên.
Con Hà Mai nằm suy nghĩ mung lung, nó nghĩ chúng nó không nên nằm yên vì tuyết sẽ phủ kín và chúng sẽ chết cứng dưới lớp tuyết đó. Nó nghiêm nghị bảo 2 em: "An Mỹ, Mỹ Linh! Các em không được chắm mắt, chúng ta hãy cố quơ chân, quơ tay như là lúc chúng ta chạy. Chị sẽ đếm từ 1 đến 100, nào chúng ta bắt đầu làm 1, 2, 3..." Nó thấy chân tay các em và của chính nó nữa, hơi nhúc nhích.
"Em mỏi quá rồi, chúng ta có thể ngừng lại một chút không?" Con Mỹ Linh van nài. "Không" Hà Mai trả lời "Chúng ta chưa có thể nghỉ được vì chị chỉ mới đếm đến 71" Rồi nó ra lệnh tiếp theo: "Hãy co và ruỗi những ngón tay 100 lần". Thằng An Mỹ nhô đầu ra khỏi chiếc áo lông và nói: "Chị nằm xuống đây với chúng em, trong này ấm lắm vì chiếc áo che kín chúng mình". "Không, chị không thể nằm được" Hà Mai trả lời, nó nghĩ rằng chiếc áo sũng nước của nó đang mặc sẽ làm cho hai em nó rét thêm, nó phải nói dối An Mỹ để từ chối "Chị phải nằm đè lên để chiếc áo đắp của các em khỏi bị bão cuốn bay mất. Chị không lạnh lắm đâu. Nào, bây giờ chúng ta hãy hát bài Mỹ Châu xinh đẹp mà chúng ta vừa hát ban sáng ở trường nào! 2, 3..." Dưới chiếc áo lông, 2 đứa bé bắt đầu cất tiếng hát, giọng chúng run run vì rét, rồi chúng cũng cố gắng hát hết cả 4 đoạn của bài ca. "Thôi bây giờ chúng ta hãy cầu Chúa phù hộ chúng ta rồi ngủ..." Con Mỹ Linh nói vậy rồi nó bắt đầu nhắm mắt ngủ... Hà Mai vội nói: "Không, không được ngủ. Em hãy cầu nguyện và đừng ngủ". Suốt đêm Hà Mai chịu khó hướng dẫn các em trong các động tác thể dục, hát những bài ca, kể những câu chuyện và cầu nguyện. Thỉnh thoảng nó lại ngồi dậy, dưới làn mưa tuyết, bằng đôi tay run rẩy nó cố phủi hết lớp tuyết bám trên chiếc áo lông và thân 2 em nó. Luôn luôn nó nhắc chừng 2 đứa bé: "Các em nhớ không được ngủ đấy nhé! Chị cũng vậy. Hãy đánh thức lẫn nhau để đừng có đứa nào ngủ. Các em có hứa chắc với chị như vậy không?"
"Em xin hứa" cả hai đứa trẻ đều đáp lại câu hỏi của Hà Mai. Lâu lâu con Mỹ Linh lại hỏi: "Sao mãi bố không đến đón chúng ta?"
Khi ông Uy Liêm lấy được ngựa quay trở lại sân trường thì không thấy chiếc xe và những đứa trẻ đâu. Ông vội phóng ngựa dưới cơn bão tuyết theo lối trở về để tìm chúng và tin chắc rằng chúng đã về đến nhà. Khi tới nhà, ông chỉ thấy vợ ông đứng đón ở cửa với vẻ mặt lo lắng. Ông quay nhìn chung quanh để tìm kiếm, rồi tuyệt vọng, ông chạy vào trong nhà gọi điện thoại báo cho các nông trại chung quanh biết. Một lúc sau, chừng 40 người tập hợp tại nhà ông và bắt đầu cuộc tìm kiếm những đứa trẻ trên quãng đường từ trại của ông Uy Liêm đến trường học. Thỉnh thoảng, họ ngừng lại tại các trại dọc đường để đổi ngựa, bàn định lại, hay nhấp một ngụm cà phê nóng. Tất cả những đứa trẻ khác đều ở yên trong nhà, duy chỉ có bọn trẻ nhà Uy Liêm là vẫn chưa thấy dấu vết, không biết giờ này chúng đang làm sao?
Gió càng thổi mạnh hơn với tốc độ hơn 10 cs/giờ, trời đã tối dần, bão tuyết tàn khốc vẫn tiếp tục không ngừng, đoàn người phải ngừng công việc tìm kiếm lại để chờ đến sáng hôm sau mới tiếp tục được. Mờ sáng hôm sau, 1 người gác trường báo là họ đã thấy dấu vết của chiếc xe trượt tuyết và con ngựa, dấu vết bắt đầu từ cổng phía Nam sân trường học và rồi bị lấp mất vì tuyết phủ. Tức khắc, nhóm người lại lên đường tìm kiếm, người thì cưỡi ngựa, kẻ lội bộ, họ đi tới, đi lui, khó nhọc và cố gắng xuyên qua bão tuyết dầy đặc phủ kín đường cái và cánh đồng. Đến hai giờ chiều thứ tư, tức là 25 giờ sau khi bọn trẻ bị lạc, đoàn người mới trông thấy chiếc xe nằm lật nghiêng ở phía Nam trường học khoảng hơn 3 cây số, bên cạnh con ngựa vẫn đứng im như pho tượng đá vì nó đã chết cứng. Họ rảo bước đến cạnh chiếc xe, thấy xác con Hà Mai nằm chết cứng úp mặt xuống, đôi tay bé nhỏ hãy còn ôm chặt quanh hai em nó để che chở như lúc nó còn sống. Nhẹ nhàng, 1 người từ từ nâng nó lên, kéo chiếc áo choàng lông và những miếng mui vải rách lên, bên dưới hai đứa bé: thằng An Mỹ và con Mỹ Linh cứng đờ nhưng hãy còn sống, chúng đã hứa với chị là sẽ không ngủ, và chúng đã giữ lời hứa.
Ngày nay, tại một thành phố gần trại của Uy Liêm, hãy còn tấm bia đá kỷ niệm mang tên Hà Mai, khắc vài hàng chữ ca tụng cô bé can đảm sinh ngày 11-4-1904 và chết ngày 16-3-1920. Quyển sổ vàng của thành phố cũng còn ghi chép câu chuyện thật này để cho du khách đọc.
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 33, ra ngày 9-4-1972)
Con Hà Mai nằm suy nghĩ mung lung, nó nghĩ chúng nó không nên nằm yên vì tuyết sẽ phủ kín và chúng sẽ chết cứng dưới lớp tuyết đó. Nó nghiêm nghị bảo 2 em: "An Mỹ, Mỹ Linh! Các em không được chắm mắt, chúng ta hãy cố quơ chân, quơ tay như là lúc chúng ta chạy. Chị sẽ đếm từ 1 đến 100, nào chúng ta bắt đầu làm 1, 2, 3..." Nó thấy chân tay các em và của chính nó nữa, hơi nhúc nhích.
"Em mỏi quá rồi, chúng ta có thể ngừng lại một chút không?" Con Mỹ Linh van nài. "Không" Hà Mai trả lời "Chúng ta chưa có thể nghỉ được vì chị chỉ mới đếm đến 71" Rồi nó ra lệnh tiếp theo: "Hãy co và ruỗi những ngón tay 100 lần". Thằng An Mỹ nhô đầu ra khỏi chiếc áo lông và nói: "Chị nằm xuống đây với chúng em, trong này ấm lắm vì chiếc áo che kín chúng mình". "Không, chị không thể nằm được" Hà Mai trả lời, nó nghĩ rằng chiếc áo sũng nước của nó đang mặc sẽ làm cho hai em nó rét thêm, nó phải nói dối An Mỹ để từ chối "Chị phải nằm đè lên để chiếc áo đắp của các em khỏi bị bão cuốn bay mất. Chị không lạnh lắm đâu. Nào, bây giờ chúng ta hãy hát bài Mỹ Châu xinh đẹp mà chúng ta vừa hát ban sáng ở trường nào! 2, 3..." Dưới chiếc áo lông, 2 đứa bé bắt đầu cất tiếng hát, giọng chúng run run vì rét, rồi chúng cũng cố gắng hát hết cả 4 đoạn của bài ca. "Thôi bây giờ chúng ta hãy cầu Chúa phù hộ chúng ta rồi ngủ..." Con Mỹ Linh nói vậy rồi nó bắt đầu nhắm mắt ngủ... Hà Mai vội nói: "Không, không được ngủ. Em hãy cầu nguyện và đừng ngủ". Suốt đêm Hà Mai chịu khó hướng dẫn các em trong các động tác thể dục, hát những bài ca, kể những câu chuyện và cầu nguyện. Thỉnh thoảng nó lại ngồi dậy, dưới làn mưa tuyết, bằng đôi tay run rẩy nó cố phủi hết lớp tuyết bám trên chiếc áo lông và thân 2 em nó. Luôn luôn nó nhắc chừng 2 đứa bé: "Các em nhớ không được ngủ đấy nhé! Chị cũng vậy. Hãy đánh thức lẫn nhau để đừng có đứa nào ngủ. Các em có hứa chắc với chị như vậy không?"
"Em xin hứa" cả hai đứa trẻ đều đáp lại câu hỏi của Hà Mai. Lâu lâu con Mỹ Linh lại hỏi: "Sao mãi bố không đến đón chúng ta?"
Khi ông Uy Liêm lấy được ngựa quay trở lại sân trường thì không thấy chiếc xe và những đứa trẻ đâu. Ông vội phóng ngựa dưới cơn bão tuyết theo lối trở về để tìm chúng và tin chắc rằng chúng đã về đến nhà. Khi tới nhà, ông chỉ thấy vợ ông đứng đón ở cửa với vẻ mặt lo lắng. Ông quay nhìn chung quanh để tìm kiếm, rồi tuyệt vọng, ông chạy vào trong nhà gọi điện thoại báo cho các nông trại chung quanh biết. Một lúc sau, chừng 40 người tập hợp tại nhà ông và bắt đầu cuộc tìm kiếm những đứa trẻ trên quãng đường từ trại của ông Uy Liêm đến trường học. Thỉnh thoảng, họ ngừng lại tại các trại dọc đường để đổi ngựa, bàn định lại, hay nhấp một ngụm cà phê nóng. Tất cả những đứa trẻ khác đều ở yên trong nhà, duy chỉ có bọn trẻ nhà Uy Liêm là vẫn chưa thấy dấu vết, không biết giờ này chúng đang làm sao?
Gió càng thổi mạnh hơn với tốc độ hơn 10 cs/giờ, trời đã tối dần, bão tuyết tàn khốc vẫn tiếp tục không ngừng, đoàn người phải ngừng công việc tìm kiếm lại để chờ đến sáng hôm sau mới tiếp tục được. Mờ sáng hôm sau, 1 người gác trường báo là họ đã thấy dấu vết của chiếc xe trượt tuyết và con ngựa, dấu vết bắt đầu từ cổng phía Nam sân trường học và rồi bị lấp mất vì tuyết phủ. Tức khắc, nhóm người lại lên đường tìm kiếm, người thì cưỡi ngựa, kẻ lội bộ, họ đi tới, đi lui, khó nhọc và cố gắng xuyên qua bão tuyết dầy đặc phủ kín đường cái và cánh đồng. Đến hai giờ chiều thứ tư, tức là 25 giờ sau khi bọn trẻ bị lạc, đoàn người mới trông thấy chiếc xe nằm lật nghiêng ở phía Nam trường học khoảng hơn 3 cây số, bên cạnh con ngựa vẫn đứng im như pho tượng đá vì nó đã chết cứng. Họ rảo bước đến cạnh chiếc xe, thấy xác con Hà Mai nằm chết cứng úp mặt xuống, đôi tay bé nhỏ hãy còn ôm chặt quanh hai em nó để che chở như lúc nó còn sống. Nhẹ nhàng, 1 người từ từ nâng nó lên, kéo chiếc áo choàng lông và những miếng mui vải rách lên, bên dưới hai đứa bé: thằng An Mỹ và con Mỹ Linh cứng đờ nhưng hãy còn sống, chúng đã hứa với chị là sẽ không ngủ, và chúng đã giữ lời hứa.
Ngày nay, tại một thành phố gần trại của Uy Liêm, hãy còn tấm bia đá kỷ niệm mang tên Hà Mai, khắc vài hàng chữ ca tụng cô bé can đảm sinh ngày 11-4-1904 và chết ngày 16-3-1920. Quyển sổ vàng của thành phố cũng còn ghi chép câu chuyện thật này để cho du khách đọc.
VĂN VIỆT phỏng dịch
theo truyện "On the way home from school"
đăng trong tạp chí Reader's Digest.
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 33, ra ngày 9-4-1972)