Chủ nhật…
Với tòa soạn Thiếu Nhi,
tuần lễ bao giờ cũng khởi đầu bằng ngày chủ nhật. Bởi sáng chủ nhật là ngày mang
báo đi chụp phim. Giao được 32 trang báo cho tuần nầy, lại phải bắt đầu khởi sự
cho 32 trang báo tuần kế tiếp. Mọi cố gắng trong 7 ngày qua đã trở về con số
không để rồi bắt đầu lại. Cứ thế tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng
khác, đều đặn như một guồng máy đã chuyển động liên tục trong gần 2 năm.
Hôm nay ở nhà in, ấn công
vẫn làm việc. Ruột báo Thiếu
Nhi số 79 đã in được một mặt mầu
xanh. Cầm khuôn báo trên tay, sự bực bội bắt đầu nhen nhúm. Hai trang Tin Tin
và Đặc Vụ than đá lại không có tiêu đề ở trên. Đành phải nhắc lần nữa với nhân
viên có trách nhiệm làm phim trên bản kẽm. Nhắc và nhắc. Đó là chuyện thường
xuyên của khách hàng. Nhà in có nhiều khách hàng, nhân viên phụ trách có nhiều
việc. Không nhắc thì bị bỏ quên là lẽ đương nhiên. Nhưng cái bực bội này không
thấm vào đâu với sự thất vọng sâu xa khi tôi cầm trên tay khuôn giấy in 4 trang
bìa của T.N các số 79, 80, 81 và 82. Máy đang chạy đến khuôn mực đen cuối cùng.
Tất cả mầu sắc đã hiện lên đầy đủ. Hàng ngàn tờ bìa đã in xong. Những tờ khác
đang chuyển động ào ào lần cuối trên máy tự động. Cứ mỗi một giây đồng hồ trôi
qua là 1 tờ bìa được nhả ra. Nó sẽ được gửi đi toàn quốc. Nhưng tất cả, từng
tờ, từng tờ được nhả xuống đều xám ngoét như nhau, xấu xí như nhau, xấu đến độ
tôi đứng chết lặng người đi mà không thốt lên được lời nào. Tôi nhớ lại hôm họa
sĩ Vi Vi đem bản chính đến tòa soạn, mọi người đều xúm lại suýt soa. Nhất là
hình bìa số 79 vẽ Nai và số 80 hình hai nữ sinh đóng vai Trưng Vương trong số
kỷ niệm Hai Bà. Tôi không thấy cái vẻ rực rỡ ở bản chính hôm nào. Tất cả đều
xám ngoét. Bản kẽm đã lên quá nhiều mầu xanh và thiếu mầu vàng. Hôm nay chủ
nhật rồi. Thứ hai phải cho lên máy xén để xả khuôn bìa làm 4 mảnh. Thứ ba phải
chở bìa đi để cho in hộp thư ở mặt trong. Thứ tư phải đem lại chỗ thợ đóng để
ráp ruột vào và cắt xén. Thứ năm phải có báo để đem đi nạp bản. Sáng sớm thứ
sáu nhà phát hành đã cho xe lại chở đi như thường lệ. Làm gì có thì giờ để sửa
chữa. Thế là bao nhiêu hy vọng đem lại cho độc giả một loạt bìa đẹp đã tiêu
tan. Báo đang ở giai đoạn cần lôi cuốn độc giả bằng cả nội dung lẫn hình thức.
Kinh nghiệm đã cho thấy lần nào bìa xấu, độc giả sụt đi rõ rệt. Có những độc
giả chỉ mua báo vì mỗi một cái bìa! Ông chủ nhà in, vì là ngày chủ nhật, không
có mặt. Đành buồn bã ra về lòng ngổn ngang đủ thứ thắc mắc, buồn bực. Đến buổi
trưa, điện thoại trở lại cho nhà in, tôi không giấu được sự to tiếng. Rõ ràng
là tôi tự thấy mình đang nổi cơn giận dữ. Sự giận dữ chắc chắn sẽ lôi kéo tới
những phút áy náy và ân hận. Nhưng lời cuối cùng trong điện thoại, dẫu thế nào
thì cũng phải ôn tồn hơn:
- Xin so giùm bản in với bản
chính. Xin làm phim kỹ giùm. Xin in cho loại mực đắt tiền hơn. Xin trông nom
giùm kỹ lưỡng hơn. Xin cho thợ chuyên nghiệp hơn chạy máy.
Xin, xin và xin. Thà như thế
còn hy vọng được tốt đẹp hơn ở loạt bìa tới!
Khi ở nhà in ra, tôi trở về
tòa soạn. Hôm nay là ngày chủ nhật. Xe cộ tràn ngập ngoài cổng lấn ra cả đường
đi. Trong phòng họp, tiếng ca hát và cười đùa ồn ào như chợ vỡ. Tôi hình dung
ra khuôn mặt đầm đìa mồ hôi của những Trịnh Việt Thảo, Lê Tuyên quang, Uyên
Thụy Phương… và của tất cả mọi người. Căn phòng hẳn đang mờ mịt những hơi
người. Bụi hẳn bay túa lên từng đợt vì những cái dậm chân thình thịch theo nhịp
hát. Ở ngoài sân, nhiều em khác còn đứng vòng trong vòng ngoài trước mặt bàn
đầy ngập thẻ mượn sách. Đã từ lâu, tôi không tham dự vào đám đông ồn ào này.
Một phần vì sức khỏe, tôi không thể chịu đựng cái nóng và cái ngộp của đám đông
được lấy quá 15 phút. Một phần khác, tôi rất ngại phải trả lời những câu hỏi “Bài của cháu bao giờ đăng?” “Bài của cháu
tại sao không đăng?” “Nếu không đăng, xin chú cho biết khuyết điểm để lần sau
sẽ sửa chữa.” – Tôi không thể trả lời được câu hỏi nào thỏa đáng, bởi muốn
được thỏa đáng phải nói chuyện hàng giờ cho mỗi trường hợp, trong khi số bài
không được lựa đăng tính từ đầu đến nay, hẳn cũng đã tới cả ngàn bài. Như thế chỉ còn một cách là rút
êm vào hậu trường. Đó là một căn phòng hẹp ở đằng sau. Những buổi tối, anh chị
em trong tòa soạn thường hội họp ở đó để sửa soạn cho tờ báo trong tuần kế
tiếp.
Gặp bác Văn Việt ở tòa soạn.
Tinh thần của bác suy sụp kinh khủng khi đề cập đến việc bán báo ở các trường.
Hồi T.N ra số 62, tòa soạn đã tính rút xuống bán nguyệt san thì bác nhẩy ra
nhận việc phổ biến báo ở các trường. Mọi người coi bác như một “Cứu tinh dân
tộc”. Tất cả những đề nghị của bác trong dự án “cứu nguy cho tờ báo” đều được
chấp nhận hết. Tôi đã thảo và cho in 10.000 lá thư gửi quí vị phụ huynh. Mỗi lá
thư kèm vào 1 tờ báo biếu. Chiến dịch biếu báo được tất cả mọi người trong tòa
soạn, kể cả các em trong Ban ĐH Trung Ương xúm lại phụ giúp : ghép thư, dán
băng giấy, đóng dấu và đề tên. Mỗi tuần, 2.000 số báo được gửi đi các trường.
Mỗi tuần, các toán nhỏ trong tòa soạn tìm tới tận nơi hội họp của các Hội đoàn
ở sở Thú, ở Vườn Tao Đàn, ở các Cư Xá, biếu báo và giới thiệu báo. Đi đến đâu
T.N cũng được tiếp đón nồng nhiệt. Niềm hy vọng dâng lên tràn ngập. Nỗi đe dọa
phải xuống bán nguyệt san từ từ tiêu tán. Sau 4 tuần lễ phát động chiến dịch cổ
động T.N ở các trường, kể từ số 72, bắt đầu T.N được bầy bán ở văn phòng các
trường học. Mọi người hồi hộp chờ đợi
kết quả, mong chẳng phụ công các bác Văn Trung, Đặng Hoàng, Huy Yên và nhất là
bác Văn Việt, thân già còm cõi ngày nào cũng đi sớm (trước giờ sở làm việc) và
buổi trưa (giờ tan sở) đội nắng lếch thếch để đem gửi báo tới các trường (40
trường). Bốn mươi trường học, báo được gửi bán ở ngay văn phòng giá từ 40 đến
50đ (tùy theo nhà trường có lấy tiền hoa hồng hay không). Nhưng số bán không
lên được bao nhiêu (độc giả còn dè dặt chăng?) và cho đến số 77 thì nhiều
trường bắt đầu từ chối không nhận bán cho nữa. Lý do : bán không được, sợ để
hoài sẽ phụ lòng trông mong của tòa soạn. Cho đến bây giờ thì người hăng hái và
tận tụy nhất tòa soạn là bác Văn Việt cũng bắt đầu thấy chán nản.
____________________________________________________________________
____________________________________________________________________
Xem tiếp KỲ II