CHƯƠNG II
Tuấn
đến ở với ông bà Tư Bá đã được một tuần. Công việc của Tuấn : buổi
sáng, lùa 2 con bò mẹ và 4 con bò con ra đồng cho ăn cỏ. Buổi chiều, đi
cắt cỏ và dọn dẹp trong vườn. Công việc không có gì nặng nhọc lắm, nhưng
phải làm luôn tay.
Khu
vườn ông Tư khá rộng, có lẽ gần ba mẫu tây đất. Vườn bao một hàng giậu
kín, có mương nước chạy vòng quanh. Trong vườn trồng nhiều cây ăn quả :
dừa xiêm, xoài, ổi xá lỵ, mãng cầu v.v… Cây cao, cây thấp, rợp bóng mát.
Giữa
vườn là nhà ở : Một nhà lớn nằm dọc và một nhà nhỏ nằm ngang. Nhà xây
gạch, lợp ngói, theo lối cổ. Nhà lớn là nhà ở, còn nhà nhỏ làm kho lúa
và làm nhà bếp. Trước nhà là một sân rộng, tráng xi-măng.
Ông
Tư Bá là một điền chủ hạng trung bình. Ruộng đất ông đều cho người ta
canh tác. Đến mùa, họ đong lúa cho ông. Ông chỉ chăm sóc vườn cây ăn
trái và nuôi vài cặp bò sữa.
Ông
Tư Bá còn có một sở thích đặc biệt là sưu tầm đồ cổ. Hễ ở đâu, dẫu xa
xôi, có những đồ cổ muốn bán, ông cũng lần mò đến xem, hợp ý thì giá nào
ông cũng mua. Hai gian nhà lớn, gồm phòng khách và gian chái, là giang
sơn riêng của ông chứa đồ cổ : các chậu, bình, bằng sứ, bằng đồng, đủ
kiểu lớn nhỏ. Theo các nhà sành sõi nhận xét, có nhiều thứ sản xuất từ
mấy thế kỷ trước.
Thường ngày, ông Tư ở nhà lau chùi, đánh bóng, hết bình đồng này, đến chậu sứ khác. Khi ông đi đâu vắng, thì ông đóng cửa kỹ.
Ông
bà Tư Bá sinh được 4 đứa con, nhưng chỉ nuôi được 1 gái và 1 trai : Cô
Thu Dung 10 tuổi và cậu Vinh, 8 tuổi. Thu Dung học lớp nhì, Vinh học lớp
tư, tại trường xã.
Bản
tính ông Tư Bá nghiêm trang, ít nói, hòa nhã với mọi người. Ông ít giao
thiệp, hằng ngày chỉ quanh quẩn trong vườn với mấy cây ăn quả và với
mấy món đồ cổ của ông. Bà Tư là người từ tâm hiếm có. Hễ chòm xóm láng
giềng, ai gặp hoạn nạn gì, bà đều tận tình giúp đỡ. Bởi đó, người trong
xã đều cảm mến ông bà.
Mấy
ngày đầu, Tuấn mới đến giúp việc, chiều nào, bà Tư cũng cho Tuấn ăn cơm
sớm để về nhà với má. Nhà ông bà Tư ở xóm trên, nhà Tuấn ở xóm dưới,
cách nhau độ vài cây số, nhưng đường nhỏ khó đi. Nhất là Tuấn phải đi
ngang qua một bãi tha ma lạnh lẽo, dễ sợ.
Bà
Hai bị ám ảnh bởi cái chết của chồng vì rắn độc, nên lúc nào bà cũng
phập phồng lo sợ cho con. Bà lên xin bà Tư đừng cho Tuấn về nhà mỗi tối
nữa, mà chỉ cho về chiều ngày chủ nhật.
Lúc
đầu lạ, sau quen dần, Tuấn bắt đầu thích thú công việc mới. Cậu săn sóc
tắm rửa, trìu mến vuốt ve mấy con bò. Mấy con vật này cũng quen hơi
cậu, nhất là mấy con bò con, hễ thấy cậu ra mở cửa chuồng, là chúng nó
nhảy nhót tưng bừng, lè lưỡi liếm vào tay cậu và húc đầu vào người cậu
như để tỏ lòng yêu mến.
Buổi
tối, không có việc gì làm, Tuấn đọc sách và nhiều khi chỉ vẽ bài vở cho
Thu Dung và Vinh. Dần dần, hai đứa nhỏ thương mến Tuấn như anh ruột.
Ông bà Tư rất bằng lòng tính nết Tuấn. Thỉnh thoảng, bà Tư lại cho Tuấn
đem Thu Dung và Vinh về dưới nhà chơi trọn ngày chủ nhật. Xem ra bé Thu
Dung và bé Hiền hạp tính nhau lắm. Hai chị em chơi với nhau, ríu rít cả
ngày không chán.
*
Một buổi chiều, Tuấn đi cắt cỏ về, thấy em Vinh đang ngồi khóc trước cửa. Tuấn lấy làm lạ, hỏi :
- Vinh, sao em khóc ?
Vinh mếu máo :
-
Em đuổi con mèo, nó nhảy qua cửa sổ vô phòng ba, em nghe “xoảng” một
tiếng không biết nó làm vỡ cái gì của ba, em sợ ba về ba đánh em !
Tuấn tái mặt, hỏi dồn :
- Thế ba má và Thu Dung đi đâu ?
Vinh vẫn sụt sùi :
- Ba sang đánh bài bên bác Ba, còn má và chị Thu Dung đi thăm bà Năm đau bịnh.
Tuấn
bỏ giỏ cỏ trước sân, vào nhà xem. Cái cửa phòng trong ăn thông sang
phòng khách, thường ông Tư đi đâu, ông đóng kỹ, hôm nay ông lại quên
không đóng. Tuấn lấy ghế trèo lên nhìn qua. Cậu suýt la to lên, vì vật
bị mèo làm vỡ, chính là cái bát Giang Tây rất quý, mà ông Tư mới mua
được vài hôm nay !
Theo
lời ông thuật lại, thì cái bát quý giá này có từ đời vua Khang Hy bên
Tàu. Phía trong đáy bát, họ vẽ hai con cá vàng vờn nhau, chung quanh có
những cành rong xanh. Nét vẽ rất tinh xảo. Đặc điểm quý giá của nó là
lúc ban đêm hay trong phòng tối, thắp một ngọn nến, đổ nước trong vào
bát : Dưới ánh đèn lung linh, người ta sẽ thấy hai con cá vàng sống động
đang bơi lội đùa rỡn với nhau trong bát !
Thế
mà bây giờ nó bị vỡ rồi ! Tuấn lo sợ cho em Vinh, tuy không phải chính
nó làm vỡ, nhưng vì nó đuổi con mèo, chắc ông Tư sẽ cho nó một trận đòn
nên thân, vì ông quý cái bát này lắm. Ông còn đang dự định làm một bữa
tiệc mời bà con đến thưởng thức cái bát quý. Ai dè !
Tuấn nhảy xuống khỏi ghế, ra sân. Em Vinh chạy lại ôm lấy Tuấn, oà lên khóc :
- Anh Tuấn ơi, bây giờ làm sao, anh ? Ba về, ba đánh em đau lắm !
Tuấn thương hại, cậu nghĩ cách cứu em :
-
Thôi em đừng khóc nữa ! Để anh nhận với bác là chính anh đuổi con mèo.
Nhưng em phải đi chỗ khác chơi. Nếu bác có đánh anh, em cũng đừng nói gì
hết, nghe ! Anh lớn rồi, bác đánh anh không đau đâu, em đừng lo !
Bé Vinh nghe anh Tuấn nói thế, nhoẻn miệng cười, nét mặt rạng rỡ :
- Cám ơn anh ! Khi ba về, em sẽ ra sau vườn chơi.
Tuấn đem cỏ cho bò ăn, rồi vào đứng xớ rớ trước sân nhà, phập phồng chờ đợi tai hoạ sẽ đến, không biết nặng nhẹ thế nào ?
*
Ông Tư vừa mở cửa bước vào phòng, đã chạy ra hét oang oang :
- Đứa nào làm vỡ cái bát của tao rồi ? Đứa nào ?
Tuấn tái mặt, chắp tay, ấp úng :
- Thưa bác, cháu… cháu…
- “Bốp, bốp”, mầy à ! Mầy làm sao, thằng quỷ kia ?
Hai má thằng Tuấn đỏ hồng, in rõ bàn tay ông Tư, mắt nó nảy đom đóm :
- Thưa bác, cháu đuổi con mèo, rủi nó nhảy qua cửa sổ vào phòng làm vỡ cái bát !
Ông Tư tiếc của đay đảy, hét lên :
- Mầy đuổi con mèo, con mèo làm vỡ, tức là mầy làm ! Tao bắt mẹ mầy phải bán nhà mà đền cho tao !
Rồi ông ngồi phịch xuống sân, rên rỉ :
- Trời ơi ! Tôi mua được cái bát quý hơn vàng ngọc, chưa kịp xem cho thỏa, thì nó đã làm vỡ mất rồi ! Trời ơi là trời !
Bà Tư và Thu Dung vừa về đến cổng, nghe tiếng ông quát tháo, chạy vội vào. Bà dịu dàng hỏi ông :
- Có chuyện gì thế, ông ?
Ông Tư đứng dậy, nắm lấy hai tay Tuấn, mắt ông vẫn còn long lên sòng sọc :
-
Tôi vội đi quên đóng cửa sổ, thế là cái thằng quỷ này đuổi chó mèo làm
sao mà mèo nhảy qua cửa sổ vô phòng làm vỡ mất cái bát Giang Tây quý
giá, tôi vừa mua được hôm kia rồi !
Bà Tư chưng hửng, đứng yên một lúc, bà cũng tiếc của, nhưng sự đã rồi biết làm sao ? Bà ngọt ngào nói với chồng :
- Thôi, ông à ! Cháu nó lỡ dại, mình tha cho nó. Rồi mình sẽ kiếm mua cái khác !
Ông Tư cười sằng sặc, giọng cười nghe ghê rợn :
-
Mình tưởng kiếm mua cái khác dễ lắm à ? Mình thử tìm xem khắp thế giới
này, xem còn cái nào nữa không, chứ đừng nói tìm khắp nước Việt Nam này !
Không, tôi sẽ bắt má nó bán nhà đi mà đền cho tôi.
Bây giờ tôi tạm giam nó trong kho lúa, nhưng tôi cấm mình không được cho nó ăn. Ngày mai, tôi sẽ kêu má nó tới đây !
Nói rồi, ông bỏ vào nhà, đóng cửa lại. Tối hôm ấy, ông uống rượu say mèm rồi lăn ra ngủ. Bà Tư lén đem cơm cho Tuấn ăn và đem mùng, chiếu cho nó ngủ.
Cơm tối xong, ba mẹ con bà Tư buồn bã, cũng đi ngủ sớm. Bé Vinh nằm cạnh mẹ, khóc thút thít. Bà Tư ngạc nhiên hỏi con :
- Vinh, làm sao mà con khóc ?
Bé Vinh ôm lấy mẹ, mếu máo :
- Thưa má, chính con đuổi con mèo vô phòng ba, chớ không phải anh Tuấn đâu !
Bà Tư sửng sốt, ngồi dậy, hỏi nhỏ :
- Thật thế sao con ?
-
Thưa má, đúng như vậy. Anh Tuấn sợ ba đánh con đau, nên anh bảo con đi
chơi chỗ khác, để ba về, anh nhận là anh đã đuổi con mèo !
Bà Tư không ngờ Tuấn lại có lòng hy sinh đại độ như thế, bà vội vàng xuống mở cửa kho, ôm lấy Tuấn, giọng bà nghẹn ngào :
-
Con ơi, bà biết con thương em Vinh mà cam lòng nhận tội thay cho nó.
Con thật là đại lượng, bà cám ơn con lắm. Nay việc đã lỡ dĩ rồi, bà tính
như vầy :
Bà
có một người em gái tên là Bích Hà lấy chồng làm cảnh sát ở Sàigòn. Bà
viết một lá thư ghi địa chỉ rõ cho con cầm lên cho em bà. Em bà sẽ cho
con ở tạm. Vài hôm nữa, bà lên Sàigòn, sẽ lo mọi sự cho con.
Bà ngẫm nghĩ một lát rồi nói tiếp :
- Bây giờ, con thu xếp áo quần, bà đi viết thư. Con về thưa má con tự sự, rồi sáng sớm, con ra đón xe đò đi Sàigòn ngay.
Nhà
em bà rất dễ tìm. Đến bến xe xa lộ, con xuống xe, đi bộ qua cầu Phan
Thanh Giản vào thành phố Sàigòn. Con cứ đi thẳng cho đến ngã tư, con rẽ
sang phía trái là đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Con đi lên độ một cây số, rồi
xem số nhà bà ghi trên bao thư, hỏi thăm người ta chỉ nhà cho con. Nếu
con không gặp ai, con lại hỏi thăm mấy ông cảnh sát gác giữa đường.
Con cứ yên tâm mà đi, mọi sự ở nhà có bà lo xong hết. Bà sẽ liệu cách giúp đỡ má con.
Đêm
ấy, hai mẹ con bà Hai ngồi nói chuyện với nhau suốt đêm. Đến sáng, bà
Hai đưa Tuấn ra đường, đón xe lên Sàigòn. Bà đứng nhìn chiếc xe đò chở
con đi khuất rồi mới trở về.
____________________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG III