hai
Chiếc taxi chở chúng tôi đi
vòng qua chợ, thị dân ở đây đa số đi bộ, xe cộ có nhưng rất ít, tôi thấy du
khách đông đảo trước những cửa hàng. Những chiếc áo choàng muôn màu, đủ kiểu,
cũng là một trong những nét đặc biệt của phố xá Đalat. Thành bảo tôi, dân Saigon lên đây sẽ bị nhận diện ngay bằng những màu áo,
người dân Đalat đa số chỉ mặc áo len sậm, đen hoặc xanh, đời sống của họ đi
liền với những chiếc áo ấy. Tôi hơi hồi hộp khi chiếc xe ra khỏi khu phố chính.
Căn nhà mà chúng tôi dùng
làm nơi trú ngụ là sở hữu của gia đình Thành, tôi biết khá rõ về lịch sử của
nó, và chắc chắn chúng tôi sẽ đến đó mà không có ai tiếp đón…
Theo lời Thành thì trước kia
gia đình hắn sinh cơ lập nghiệp tại đây. Ông Tạo, ba Thành là công chức ở tòa
thị chính Đalat. Những năm trước đây đời sống công chức còn dễ chịu, lại nhờ
ông bà Tạo cố chí làm ăn nên chẳng mấy chốc gia đình trở nên sung túc, giàu có.
Ông Tạo, ngoài số công việc nhàn rỗi nơi công sở, còn chạy taxi đưa rước du
khách. Là người có học thức, đậu Tú tài Pháp năm 1938 ở Hà
Nội, và có năng khiếu về hành chánh, ông được các bạn đồng sở nể
phục. Không ai là không biết việc ông bỏ sở đi chạy xe nhưng mọi việc ông luôn
luôn hoàn thành cùng lúc với mọi người. Ông lại biết sống phải và khiêm nhượng
nên không ai có thể phiền trách. Dù sao, ông cũng là kẻ gặp nhiều may mắn. Có
lần, một cấp trên vì một sự hiểu lầm về cách đối xử của ông, đúng hơn là vì tự
ái thua kém bằng cấp đã quyết định đổi ông đi Ban Mê Thuột, nơi đèo heo hút
gió. Nhưng sự việc chưa thành thì cấp trên ấy đã được lệnh thuyên chuyển về Saigon, một điều ông ta vẫn mong ước.
May mắn đã đến với cả hai.
Năm 1965, lần đổi sở về Saigon, một dịp bất ngờ ông Tạo đã tái ngộ “người bạn
quí”. Không biết lý do nào thúc đẩy, ông bạn đã làm hòa trở lại và tỏ ý hối hận
về những viếc làm ngày xưa. Hai người hiện giờ phục vụ tại hai cơ sở khác nhau,
nhưng vẫn giữ được sự liên lạc thân tình như chưa bao giờ thù oán nhau cả.
Phần ông Tạo, về Saigon là lỡ dở một kế hoạch làm giàu vì ông đang toan bỏ
vốn ra mua mấy chiếc xe taxi cho mướn. Nhưng đầu óc của con người ham thích
kinh doanh thì luôn luôn có kế hoạch mới, nhất là ở Saigon,
môi trường thuận lợi cho việc làm ăn buôn bán. Thực vậy, bây giờ thì ông Tạo
ngoài vai trò một công chức thường – ông không muốn làm lớn để cản trở việc làm
ăn – ông còn là chủ nhân một hãng buôn đồ phụ tùng xe hơi ở Saigon…
Nhắc lại chính căn nhà mà chúng tôi sắp đến là nơi trước đây gia đình Thành
sống suốt bao năm trường. Sau khi gia đình dọn cả về Saigon,
nó được dành cho vợ chồng cô Hoa, người chị họ của ông Tạo. Nhưng từ mấy tháng
nay thì căn nhà hoàn toàn bỏ trống, gia đình cô Hoa cũng vì chuyện làm ăn phải
đổi đi nơi khác.
Đó là một căn nhà gỗ màu nâu
cũ kỹ nhưng mỹ thuật và rộng. Nhà nằm khuất sau giàn hoa giấy màu tím, những
khung cửa đóng kín mít và ngọn thông xanh vươn cao lên đầu gối… Khung cảnh chợt
thấy đã khiến tôi có cảm tình ngay.
Cánh cửa mở rộng, chúng tôi
thấy rõ sự hoang lạnh của căn nhà. Thành có vẻ xúc động trước những cảnh vật
cũ. Hắn bảo:
- Chúng mình đến để sưởi ấm
cho căn nhà này.
Tôi bắt đầu chú ý đến cái lò
sưởi bỏ trống nằm dưới một bệ cao xây ở góc nhà, cạnh bộ salon màu xám. Cách
bài trí trong nhà rất thoáng và kiểu cách, tuy không được đầy đủ. Tất cả đều
bám bụi, kể cả những bức tranh vẽ treo rải rác ở phòng ngoài. Tôi để nguyên
quần áo, nằm dài trên chiếc trường kỷ kê bên cửa sổ mà Thành vừa mở tung. Hơn
bao giờ, tôi thấy cần được nghỉ ngơi trong khi Thành đi lục lạo khắp các gian
phòng và sau nhà.
Nhưng giấc ngủ không thể đến
dễ dàng, tôi ra đứng bên khung cửa sổ đón những cơn gió lạnh làm tỉnh người,
ngoài kia thật vắng lặng, nơi mà buổi chiều chỉ còn bảng lảng đó đây, mái nhà
hàng xóm khuất bóng sau những lùm hoa dại. Thành đã trở lên và đang quét sơ bụi
trên những đồ vật. Tôi hỏi Thành bằng tiếng nói sau lưng:
- Căn nhà bỏ trống uổng quá
hả Thành?
- Ừ. Ông cụ đang chờ mình
thi đậu rồi sẽ cho lên đây ăn học.
- Bằng lòng chứ?
- Cậu giúp ý kiến cho mình
đi.
Tôi quay lại đứng dựa lưng
vào cửa sổ. Thành vẫn đang loay hoay thu dọn căn phòng. Giây lát sau, tôi thành
thật nhận xét:
- Mình nghĩ không có ngành
học nào ở trên này hợp với cậu. Nhưng có lẽ cậu cũng không muốn xa căn nhà cũ.
Thành ngừng tay nói như reo
lên:
- Hay quá, đúng như vậy.
Không ai nỡ từ bỏ dĩ vãng của mình bao giờ. Trừ quê hương miền Bắc, Đalat là
nơi mình để lại nhiều kỷ niệm thời niên thiếu. Rất tiếc là trên này không có
ngành học kỹ sư… Nhưng biết đâu đó chả là một điều may. Mình vốn đã lười biếng,
sống ở đây chắc chắn sẽ hư hỏng thêm. Tính lười của mình đã bị cậu soi mòn một
phần rồi đấy.
Lời nói tuy nhỏ mọn nhưng
chân thành của bạn khiến cho tôi cảm thấy vui vui xen lẫn một chút tin tưởng.
Thì ra ai cũng có những điểm yếu đuối riêng cần phải nhờ vào người khác. Tôi
biết Thành nói thật qua thái độ và ánh mắt, và do đó tôi lại càng thương bạn
hơn. Lâu nay tôi vẫn nghĩ một người lịch duyệt như Thành thì không còn thiếu
thốn một điều gì nữa. Tôi tự thấy lòng mình dịu lại bên cạnh những nỗi buồn khổ
của kẻ khác. Không muốn cho Thành đọc được những ý nghĩ của mình, tôi bảo:
- Chúng mình vui gì thì vui,
nhưng đừng quên cái dạ dầy Thành ạ.
Và chúng tôi quyết định đi
gột rửa những bụi bặm dọc đường một cách vội vàng để sửa soạn bữa ăn. Không ai
có thể tắm nước lạnh ở cái xứ này. Thành bảo, thế nào mình cũng có dịp vào tắm
nước nóng ở tiệm kẻo thành cú cả lũ. Những giọt nước dù ở máy đổ ra cũng lạnh
cóng thịt da, chúng tôi sửa soạn thật nhanh rồi thay quần áo sạch.
Bây giờ thì hai đứa đã thành
những người khác, tâm hồn tỉnh táo và chưng diện tươm tất. Tôi mặc áo len xám,
đi găng tay, Thành khoác pardessus trông thật đẹp, cả hai đều thắt cravate. Tôi
nhìn Thành với mái tóc bồng và bảo, cậu sẽ là một trong những người đẹp của
Đalat đêm nay. Thành cười, có một chút mỉa mai thâm trầm : người ta chỉ nhìn
nhau mà xét đoán ở bề ngoài, và thường thì sự xét đoán ấy sai lầm. Tôi đã quen
lắm với lối nói kiểu cách và ưa triết lý vụn của Thành, vả lại chỉ với bạn thân
hắn mới thế. Chợt Thành nói:
- Chúng mình sẽ dùng bữa cơm
đầu tiên ở dưới phố.
Tôi bảo:
- Chương trình hoàn toàn do
cậu định đoạt đấy nhé.
Thành cười:
- Sống như chúng mình thì
làm gì có chương trình. Đêm nay dự lễ ở nhà thờ Chính tòa… ngày giờ còn lại
dành cho những cuộc dạo chơi…
- Tuyệt quá. Tuy nhiên có vẻ
hơi thiếu thốn Thành ạ.
Chúng tôi đã ra sân, Thành
vừa khóa cửa, vừa bảo:
- Cậu muốn nói chúng mình
thiếu những bông hồng?
Tôi cười, vỗ vai Thành nói
thân mật:
- Nếu trong việc học cậu
cũng thông minh như thế nhỉ.
Thành cũng cười, sau giây
lát hắn bảo:
- Bí mật quốc phòng mà cậu
định tiết lậu giữa thanh thiên bạch nhật thì ẩu quá… về chuyện kia, nói thật,
nếu cậu muốn thì không thiếu đâu. Tôi bảo đảm muộn lắm là sáng mai cậu sẽ có
bạn đồng hành. Chỉ mong lúc ấy đừng bỏ rơi kẻ này thôi.
Mà Thành đông người quen
thật, đủ mọi hạng người, kể cả những người giao thiệp với gia đình hắn trước
kia, chúng tôi đi bộ từ nhà vào thành phố, chỗ nào cũng có dịp để chào hỏi. Tôi
bỗng thấy thèm cái tầm giao thiệp rộng rãi của bạn. Lúc nào tôi cũng có thể băn
khoăn về chính mình. Sao người ta chào hỏi với nhau một cách dễ dàng đến thế?
Thành có lối nói chuyện điềm đạm nhưng lại có vẻ gì mau mắn. Những cuộc gặp gỡ
nhiều khi chỉ để xã giao bề ngoài, nhưng không ai nhận ra ở hắn một chút giả
dối nào.
Đến một quãng đường vắng tôi
bảo:
- Mình có cảm tưởng đời cậu
sẽ đẹp và sung sướng nhờ biết cách thu phục cảm tình của mọi người.
Thành cười nhẹ, nụ cười
phảng phất một chút tự mãn nhưng không mấy hồn nhiên, hắn thành thật:
- Có nhiều người cũng nhận
xét như cậu… Nhưng, thật ra tôi có rất ít những người bạn chí tình, ở đời ai
cũng mong có tri kỷ, trong khi đa số chỉ biết nghi ngờ lòng thành thật của
người khác. Một khi còn nghi ngờ thì không thể thân nhau được.
Mải nói chuyện chúng tôi đã
vào đến bên trong trung tâm thị xã từ lúc nào. Đalat chiều tối mang một vẻ ấm
cúng lạ thường : những cánh cửa khép kín, những con đường nhỏ hẹp phủ ngát
hương đêm, những thân hình lầm lũi, cổ áo cao và đôi tay trong túi, ánh lửa ở
cuối phố của đám tài xế đợi chờ…
Bữa cơm nóng sốt đầu tiên,
chúng tôi ăn như kẻ bị bỏ đói lâu ngày. Chất rau tươi, hương thơm gia vị. Từ
một nhà hàng có cửa kính che kín nhìn xế sang chợ, chúng tôi kéo dài bữa ăn đến
khi thành phố chất ngất ánh đèn. Thời gian còn rộng, mỗi đứa gọi một tách café
nóng. Thành bảo tôi:
- Uống café ở nhà thủy tạ có
một cảm giác rất thú, café thì nóng và hơi nước từ mặt hồ đưa lên lạnh băng,
mình sẽ thấy được tất cả cái hương vị thơm nồng của giọt café nóng.
Bóng một người con gái
thoáng qua rất nhanh ngoài khung cửa kính. Thành vụt đứng dậy ra dấu và nói
nhỏ:
- Bông hồng nhung mà tớ muốn
giới thiệu với cậu.
Rồi hắn đi nhẹn ra ngoài,
dáng nhanh và hào phóng. Tôi chợt hồi hộp vì bản tính vẫn ít bình tĩnh trong
những cuộc gặp gỡ đột ngột.
Một phút sau Thành vào đem
theo “bông hồng nhung” của hắn. Người con gái có nụ cười rạng rỡ, mái tóc mềm
bóng và đặc biệt là chiếc Manteau đỏ quí phái, hai người đã tới nơi. Thành giới
thiệu:
- Bạn cả nhé.
Rồi hắn đưa tay về phía tôi:
- Linh, một bậc tài hoa của
lớp mười hai B C.V.A – Còn đây Thiên Hương, bông hồng nhung của núi đồi Đalat.
Thiên Hương vẫn cười, nụ
cười rạng rỡ. Tôi để ý đến cặp mắt sáng như sao băng có cái nhìn rất lạ, chợt
sắc rồi chợt loang vào một tia nhìn khác, cặp mắt hắt lên cao sức mãnh liệt mơ
hồ.
Chúng tôi đã vào bàn, Thiên
Hương gọi một tách trà nóng, và nói chuyện ríu rít như con chim rừng buổi sớm.
Thành lộ vẻ mừng khi gặp lại bạn cũ. Hai người quen nhau từ những năm học đệ
thất trường T.Đ., ngày mà gia đình Thành còn sống ở đây. Họ rất tự nhiên qua
câu chuyện, tôi thấy cả hai giống nhau ở nhiều điểm : nghệ sĩ và có khuynh
hướng say mê đi tìm một cái gì đích thực trong cảnh sống hiện tại. Gia đình
Hương giàu có, bố là thương gia, nhưng Hương rất ít khi lợi dụng vào gia tài để
phung phí, cô bé có nhiều dự tính sống tự lập, đó là một điều mà tôi không thể
ngờ… Đã hơn một năm, đôi bạn không gặp nhau, họ là những người thân có thể tâm
sự cả ngày mà vẫn thấy thiếu, bạn bè ở đây rất ít ai hiểu Hương như Thành.
Trong câu chuyện hắn hay cười mỉm và nhắc nhở những chuyện xưa, đào sâu sự say
mê dĩ vãng của kẻ đối diện. Câu chuyện đưa dần về hiện tại, Thành nói với tôi
một câu như đã định sẵn:
- Những ngày nghỉ của tụi
mình sẽ hào hứng thêm nhờ sự có mặt của Thiên Hương.
Thiên Hương cười, vẫn nụ
cười làm tan bóng tối:
- Anh cứ làm như Hương là
thần tiên không bằng.
Tôi chen lời:
- Tôi không biết Hương có
phải là thần tiên không nhưng tên của Hương tự nó đã mang theo cả dấu tích ngào
ngạt của trời.
- Đến một lúc nào đó, sợ
rằng Hương sẽ không còn là người của thế gian này nữa vì những lời tán tụng của
các anh.
Tôi hỏi:
- Hương có muốn thế không?
Cô bé trả lời ngay mà không
cần suy nghĩ:
- Các anh cứ làm công việc
của các anh, nhưng đừng lôi Hương ra khỏi mặt đất này tội nghiệp, vì cho đến
bây giờ, Hương vẫn chưa thấy nơi nào đẹp hơn nơi chúng ta đang sống.
Tôi cảm thấy ngột ngạt trước
những câu đối đáp của Thiên Hương. Cô bé quá thông minh, đúng như tôi nghĩ,
Hương chỉ nói mà khiến kẻ đối thoại không kịp sắp đặt những ý tưởng mạch lạc.
Nhưng cũng từ đó, bầu không
khí thân mật đã đến giữa chúng tôi như một loài hoa thơm nở trên vùng đất cao
nguyên mầu mỡ. Thành bảo:
- Từ giờ đến lúc khởi sự
Thánh lễ nửa đêm, Hương có chương trình gì chưa cho bọn này nhập với. Lâu không
về thăm Đalat, đến chiếc áo khoác cũng có vẻ ngượng ngập.
Hương khẽ reo mừng:
- Tuyệt quá. Ba má cho phép
Hương đêm nay đi lễ với gia đình một cô bạn và khuya về ăn Réveillon tại nhà
nhỏ luôn. Đáng lẽ giờ này Hương đến đó rồi. Nhưng thôi, muộn một chút cũng
chẳng sao, đằng nào cũng đã muộn, chúng mình đi dạo một vòng rồi cùng tới nhập
bọn.
Hương nói nhanh, liến
thoắng. Tôi có cảm tưởng rằng những ngày vui Đalat sẽ sống động như nụ cười và
dáng dấp của cô bé.
Chúng tôi còn nán lại một
chút nữa trong nhà hàng cho tới khi đêm đã huyền ảo phía ngoài các khung kính.
Phố xá ngợp bóng người, nhưng mờ nhạt vì ánh sáng trong căn phòng, âm thanh
cũng vậy…
Cửa kính mở, tiếng động và
hơi gió lạnh ùa ập, xô đẩy vào chúng tôi. Đó đây lũ lượt màu đèn và sắc áo.
Những chiếc khăn quàng cổ chùm lên hơi ấm. Khu phố chợ nổi bật những đường nét
huy hoàng của một ngày lễ lớn. Hình như tất cả những bóng đèn đều được trưng
dụng về đây và mọi người đều rời khỏi tổ ấm gia đình để lang thang ngoài phố.
Con người ta thích tìm vui ở một chốn lạ? Lòng tôi rộn lên cùng với phố phường
đang mở hội – Lần đầu tiên ghé đến, tôi và Đalat đã lần quyện say mê như trong
một bản đàn hợp tấu. Đêm Giáng Sinh ở Đalat, thành phố sinh động cây cỏ chợt
vươn lên sức sống, mặt nhựa reo vang nhịp phách những bước chân. Đêm tím ngắt ở
trên cao, âm thanh và hình ảnh càng rõ, dâng lên như muốn làm rạn cả vòm trời
đầy tinh tú.
Chúng tôi góp bàn chân cùng
những lớp sóng người đang cuồn cuộn chảy. Có nhìn về đây mới biết loài người đi
tìm vui cũng vội vã như khi tranh sống. Lần thứ nhất tôi nhận hút điếu thuốc do
Thành mới, đốm lửa rực hồng, cánh môi chợt ấm. Không ai có thể từ chối khí ấm trong
lúc này.
Trên đường, ba đứa vẫn góp
vui bằng những mẩu đối thoại, nhưng riêng tôi thì thỉnh thoảng. Thành và Hương
còn nối tiếp với nhau đầy kỷ niệm xa xưa, họ ân cần thuật cho nhau những gì đã
xảy ra trong suốt thời gian xa cách. Dĩ vãng trôi về với đôi bạn trẻ làm dấy
lên những nụ vui mỗi lúc. Không gì đẹp bằng kỷ niệm, con người ta thường lui về
đó làm trạm nghỉ vàng son. Trong cuộc tâm sự đầy linh thiêng bên cạnh tôi tự
thấy mình nên im lặng, không biết để dễ dàng cho cảm xúc hay để mặc niệm cho nỗi
buồn chợt lấp kín cơn vui. Tôi nghĩ đến câu nói lúc ban chiều của Thành:
“Người ta chỉ nhìn nhau mà xét đoán ở bề ngoài, và thường thì sự xét đoán ấy
sai lầm”. Có lẽ vậy. Nhìn vào cái vẻ dáng phong lưu, lịch duyệt của Thành,
không ai biết hắn là kẻ vẫn cô đơn trong tình tri kỷ ; nếu không được nghe tâm
sự của Thiên Hương, ta không thể ngờ đằng sau cái phong cách thời đại kia lại
là chỗ ngồi của một tâm hồn sâu sắc, mến mộ dĩ vãng ; và tôi, đi ở đây, trong
cái bầu khí xao động này, không ai biết tâm trí tôi đang miên man sống ở một
cõi khác, u sầu.
Đèn pha của chiếc xe đang
chạy từ cuối dốc hắt lên, chúng tôi đã rời vùng ánh sáng muôn màu để đi lần về
phía hồ Xuân Hương. Tôi thấy mặt nước thấp thoáng ở đằng xa.
- Anh Linh đang nghĩ điều gì
thế?
Tiếng Thiên Hương làm tôi
thảng thốt, trả lời:
- Tôi nghĩ rằng nếu không có
hồ Xuân Hương, Đalat sẽ bất hạnh lắm.
Thành nói thêm vào:
- Nói cho Hương biết, Linh
của chúng ta cũng đang trong tuổi mơ mộng đấy, chàng có thể đứng nhìn dòng nước
trôi hằng giờ mà không biết chán…
- Và cũng để dệt những vần
thơ kiều diễm nữa chứ anh Linh nhỉ – Hương nói tiếp, giọng hóm hỉnh.
Tôi cười:
- Tôi cũng hy vọng làm được
một bài thơ vừa ý và bài thơ đó tôi sẽ hân hạnh đề tặng Thiên Hương.
Hương chưa kịp nói gì thì
Thành đã nheo mắt:
- Thường thì bài thơ cho
người yêu chính là bài thơ đắc ý nhất phải không Linh?
Cả ba chúng tôi đều cười vui
với câu nói ấy ; cùng lúc, một hồi chuông bỗng ngân vang từ đỉnh tháp nhà thờ
bên kia những rặng thông đen thẫm, báo hiệu giờ lễ đêm đã điểm…
*
Những người bạn mới của
chúng tôi trong đêm nay là 2 người con gái. Chị Hoàng dạy học ở Couvent des Oiseaux đã lập gia đình hơn một năm rồi, chị mang dáng
dấp của một người chị cả trẻ trung và cởi mở. Chồng chị là Trung úy bộ binh
đóng quân xa nhà. Người thứ hai là Trân, Huyền Trân, được giới thiệu là em gái
cưng của chị Hoàng, nhưng tôi nghĩ hai người không phải là chị em vì giọng nói
có vẻ khác nhau nhiều.
Tôi để ý đến đôi mắt của
người con gái mang tên Trân, đôi mắt trong xanh, có tia nhìn huyền diệu và đắm
đuối. Chúng tôi làm quen nhau rất nhanh. Trong một phút thoáng qua tôi bỗng có
cảm tưởng rằng giữa tôi và Trân không thể chỉ gặp nhau như hai kẻ qua đường.
Hồi chuông trên tháp cao vẫn
vang rền giục giã mà chúng tôi năm người vẫn còn kéo dài những bước chấn dưới
con dốc cuối chân nhà thờ. Mọi người đều vội vã, riêng tôi thì đang trong cơn
mê đắm. Hương thơm thoang thoảng thoát lên từ mái tóc Huyền Trân sao nghe như
mùi vị của núi rừng hoang dại. Trong một thoáng, những bước chân tôi thấy dẻo,
cái nhìn vào cảnh vật chung quanh đã lạc thần. Một cảm giác lạ, không giống bất
cứ cảm giác nào len nhẹ vào hồn khiến tôi trở nên câm nín. Tôi sợ tiếng động,
một lời nói nào bây giờ cũng có thể làm tan mặt nước phẳng gương đang soi chiếu
cả một trời xanh hy vọng.
Toàn thân tôi được sưởi ấm
khi chen chân giữa đám đông người phía cuối nhà thờ. Trên kia đèn thắp sáng
choang. Qua kẽ vai của một rừng người đứng trước tôi thấy gian thánh rực lên
ánh hào quang, tưởng chừng như hào quang ấy tự trời cao đổ xuống. Hang Bethlehem đặt gần đó.
Tiếng nhạc tưng bừng trỗi lên cùng với những tiếng ca réo rắt, bản Thánh ca đưa
cao âm điệu, xoáy tròn theo vòm mái nhà thờ. Lòng tôi bàng hoàng về những tình
cảm tràn ngập. Mới từ chiều, tôi đã nghĩ đến câu nói của Thành “Rồi cậu sẽ còn
có nhiều cái để mà ngây ngất”. Trong muôn ngàn những hình ảnh yêu dấu tôi đi
tìm, đâu sẽ là dấu vết đam mê sau cùng? Tôi nghĩ đến Trân, đến những cuộc vui
sắp tới…
*
Tiếng vỗ tay vang lên trong
căn phòng nhỏ, cửa kính khép kín, giữ lại sự đầm ấm cho mọi người đang quây
quần quanh bàn tiệc. Chúng tôi, mỗi người một nụ cười nhỏ trên môi, trong khi
chị Hoàng tuyên bố mấy lời vào tiệc. Chị bày tỏ niềm vui sướng về sự góp mặt
của tôi và Thành trong đêm nay. Chị còn tiết lộ rằng tôi có nhiều nét giống anh
Hùng, người chồng yêu quí của chị. Mọi người khúc khích cười. Trong khi đó nhạc
giáng sinh phát thanh nho nhỏ từ chiếc cassette, không khí thật vui mà thân
mật. Ánh lửa trong lò sưởi bập bùng
cháy, chiếu trên gương mặt mỗi người.
Chúng tôi dùng rượu nho hâm
nóng cùng với thịt, bánh và trái cây. Chị Hoàng và Thiên Hương là những người
vui tính nhất. Huyền Trân thì lúc nào cũng khép nép, bé bỏng. Tôi không thể
không nhìn ngắm lúc Trân cười, tôi không biết phải diễn tả nụ cười ấy như thế
nào, nó đẹp rạng rỡ, hiền từ, lại vừa có vẻ gì kiêu sa, kín đáo.
Chiếc bàn ăn hình chữ nhật,
chị Hoàng đã phải khó khăn lắm mới xếp chỗ ngồi ổn thỏa cho mỗi người. Trân
được nhường làm chủ tọa ở một đầu bàn vì… nhỏ tuổi nhất. Đầu bàn kia để trống,
sát lò sưởi. Không hiểu vô tình hay hữu ý tôi được xếp ngồi cạnh chị Hoàng, một
bên là Trân. Chúng tôi chuyện trò với nhau, về cảnh ngoài phố lúc ban tối, về
lễ đêm, về những người quen đã trông thấy ngoài đường và về bài giảng rất hay
của vị linh mục có tuổi.
Hết chuyện chung đến chuyện
riêng, thừa dịp Thành, Thiên Hương và Trân bàn luận với nhau về việc học hành,
thi cử, tôi hỏi chị Hoàng:
- Ban nãy chị bảo em có
nhiều nét giống anh Hùng, chị thử cho em biết rõ hơn đi. Em mong biết một người
giống mình.
Chị Hoàng cười, giọng thành
thật:
- Vậy hả. Anh Hùng trông
khỏe mạnh hơn Linh nhưng dáng đi, nhất là cách nói chuyện, thì giống Linh lắm,
thâm trầm và ít nói.
- Thật xui cho em và cả cho
chị nữa vì đêm nay anh Hùng không được về phép.
- Anh ấy cũng ở gần đây thôi
nhưng hành quân bất thường lắm. Càng những ngày lễ lớn, càng không được về.
Nhiều lúc chị cô đơn quá, nếu không có Huyền Trân, chắc chị khóc suốt ngày.
Nhưng rồi chị đổi giọng khôi
hài ngay:
- Nhưng giả như anh ấy về
hoài thì cũng nguy hiểm vô cùng. Tụi này hễ gặp nhau là đi chơi quên cả làm
việc.
- Những khi ấy, chị bỏ rơi
lũ học trò của chị hay sao?
Chị Hoàng cười đáp:
- Lần đầu tiên sau ngày
cưới, anh Hùng xa nhà đến hơn hai tháng. Hôm anh được về phép thăm nhà, chị giả
bộ ốm xin nghỉ dạy học mấy ngày. Lũ học trò tưởng thật kéo tới đầy nhà, chị
phải cho Trân ra nói dối với chúng là cô giáo vừa đi khám bác sĩ… Thực tình,
chỉ có lần đó thôi. Đời chị có anh Hùng và lũ học trò là nguồn an ủi, thương
yêu nhất…
Tôi muốn hỏi để biết thêm về
chị rồi về Trân nhưng bắt gặp ánh mắt đăm chiêu của chị lại thôi. Một thoáng
buồn bã chìm trong câu nói của chị. Tôi đoán rằng chị còn có nhiều tâm sự u sầu
nữa.
Xong tiệc, chúng tôi trải
chiếu sát lò sưởi ngồi uống trà. Đêm đã khuya lắm. Nghĩ đến nỗi phải chia tay
nhau trở về căn nhà hoang lạnh của Thành, bỗng nhiên tôi muốn giữ một kỷ niệm
nào đó của Trân, của buổi hội ngộ đầy hứng khởi này. Tôi với cây đàn guitare
treo ở góc phòng mà tôi đã để ý từ khi mới vào nhà. Không khí tự nhiên phẳng
lặng, thật hợp với một cuộc trà đàm, những tiếng nói cố nhỏ lại đằng sau tiếng
reo của lửa.
Cho đến khi tiếng đàn tôi
dạo khẽ lên bài “Ai về sông Tương” thì tất cả đều yên lặng. Không khí trang
trọng quá khiến tôi không đủ bình tĩnh đánh hết bài. Tôi đề nghị Trân hát một
bản nhạc tùy ý và mọi người vỗ tay biểu đồng tình, vì Trân hát hay nổi tiếng ở
trường Bùi thị Xuân. Trân nhận lời ngay với chính bản nhạc tôi vừa dạo đàn,
dáng điệu vẫn khép nép như một loài chim bé nhỏ. Tôi say sưa đàn theo tiếng ca
của bạn, tiếng ca không điêu luyện lắm nhưng dễ thương chi lạ. Trân ngồi bó
gối, mắt nhìn vào bếp sưởi, ngun ngút ánh lửa hồng. Tôi có cảm tưởng mình đang
dạo khúc trong giấc mơ, tiếng vỗ tay của các bạn nổi lên rồi mà tôi còn thấy
mãi dư âm lời ca, tiếng nhạc văng vẳng đâu đây.
Sau đó, chúng tôi ra về
trong những lời chúc tụng, từ biệt nhau. Tôi khẽ cám ơn Trân về bài hát vừa
rồi. Trân cười nhẹ, vẫn nụ cười rạng rỡ ấy, và chúc tôi một giấc ngủ có nhiều
mộng đẹp. Riêng chị Hoàng có vẻ quyến luyến bộ ba chúng tôi ; chị rủ ngày mai
đến chơi và sẽ cùng nhau đi picnic suốt ngày. Tôi mừng đến lặng người về ý định
đó của chị.
Hai người tiễn chúng tôi
xuống cuối dốc, vì nhà chị Hoàng nằm trên lưng đồi. Bây giờ tôi mới cảm thấy
cái lạnh buốt người của đêm Đàlạt. Ngàn thông reo vi vút trên đồi cao, thông làm
cho đêm xanh thẫm, thông gieo nhạc vào lòng đất cao nguyên, và gió nữa, gió tạo
cho không gian vẻ hoang lạnh vô cùng.
Tôi và Thành đưa Thiên Hương
về tận nhà rồi mới trở lại căn nhà có giàn hoa màu tím. Đường vắng. Chúng tôi
đi trong hơi thở và sự chuyển động của cây cỏ, núi rừng. Những căn nhà hai bên
đường say ngủ, ánh trăng hạ tuần lạnh cong sau những đám mây nhỏ. Chợt Thành
hỏi khẽ:
- Tại sao cậu lại đánh bản
“Ai về sông Tương”?
Tôi cười:
- Cũng không hiểu. Có lẽ vì
nó là một bản nhạc nhẹ nhàng hợp với khung cảnh lúc ấy. Nhiều khi bản nhạc được
tôi dạo lên một cách vô ý thức.
Thành bảo:
- “Moa” nói thật, đã nghe
cậu dạo đàn nhiều lần nhưng chưa lần nào hay bằng đêm nay.
Tôi chỉ biết yên lặng trước
lời khen ấy vì khi đệm nhạc cho Trân tôi say mê đến độ không biết gì cả.
Cho đến khi về nhà, cuộn
mình trong chăn ấm và giấc ngủ chập chờn, hồn tôi còn lâng lâng trong tiếng hát
và tai tôi nghe văng vẳng đâu đây lời chúc tụng.
_________________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG BA