Bảy giờ tối, cái xe cà tàng
chở trầu mới về đến Phan Thiết. Tuy đói meo, nhưng xuống xe xong hai người về
nhà trọ rửa mặt qua loa, thay quần áo rồi hộc tốc lên xích lô đến nhà thầy.
Thông cảm cho sự nóng lòng của Tâm, Hà không phàn nàn gì cả, vẫn giữ vẻ tươi
tỉnh để bạn vui lòng. Phần Tâm, rất cảm ơn Hà, nhưng không thốt được một lời vì
tâm trí vẫn bị chi phối vẩn vơ. Trống ngực Tâm đập liên hồi khi bước xuống xe.
Và rồi, trời ơi! Tâm nhận ra
ngay thầy mình đang ngồi trên cái phản gỗ kê ở góc nhà. Vẫn khuôn mặt phúc hậu
ấy, vầng trán phẳng và cao ấy, đôi tai hơi to khác thường ấy, chỉ có đôi mắt
thầy không được tinh anh như trước. Thầy mặc bộ bà ba trắng, chớ không phải áo
dài xuyến đen mông mốc, dưới chân thầy là đôi dép nhựa chớ không phải đôi guốc
gỗ mòn vẹt như lúc đó đến nỗi có người vẫn giễu là có thể dùng đánh vẩy cá.
Ngần ấy năm xa cách, Tâm vẫn
nhận ra thầy trong phút đầu tiên gặp lại. Thầy lên tiếng trước:
- Hai cô hỏi nhà ai?
Cô bạn thấy Tâm lúng túng,
đứng lặng, liền đỡ lời:
- Thưa thầy, chúng con tìm
nhà thầy. Thưa, thầy có phải là thầy Th.?
- Đúng, tôi là thầy Th. Đây.
Mà hai cô là ai?
Cô bạn đẩy Tâm đến trước và
giục nho nhỏ : “Nói lên đi chớ, hay chưa!”. Tâm vẫn bàng hoàng, đứng lặng,
nghẹn cả thở, cả lời. Cô bạn phải nói thay:
- Thưa thầy, bạn con là học
trò cũ của thầy, đến thăm thầy!
- Học trò cũ, tội chưa! Còn
nhớ thầy à? Thầy đã về hưu mấy chục năm mà còn nhớ! Học năm nào?
Đã lấy lại bình tĩnh, Tâm
trả lời:
- Thưa thầy, con học thầy
năm 1936, ở trường Khánh Thiện… Mũi Né!
- Thiệt thầy không nhớ… Lâu
quá rồi… Tên con là…? Học trò đông…
- Dạ, con là L. (thấy thầy
vẫn chưa nhớ ra, Tâm tiếp) Dạ, con là Công Tằng Tôn Nữ thị…
Thầy “a!” lên một tiếng rồi
một nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt già nua của thầy và đôi mắt thầy chợt lóe
sáng lên:
- Thôi! Khỏi nhắc! Thầy đã
nhớ ra rồi! Con là đứa bị trêu chọc vì cái họ dài ngoằng và cũng là đứa kiêu
ngạo nhất, thông minh nhưng nhác học. Đúng chưa nào?
Tâm cúi đầu, không nói nên
lời. Mắt Tâm nhòe đi nhưng tai vẫn vọng lại tiếng nói thầy:
- Sao con biết thầy ở đây mà
tìm đến, ai chỉ cho con?
- Dạ, chị Kính đó, thưa thầy
– cô bạn Tâm lại nói thay:
- À, đó cũng là một học trò
giỏi, giỏi toán. Vậy ra con đã cất công ra tận Mũi Né tìm thầy?
- Dạ, đúng vậy đó, thưa
thầy! Và chị ấy sốt ruột, không chịu đợi đến mai nên trở về ngay trưa nay. Dạ,
xe vừa mới đến là chúng con…
Như được bạn tiếp sức, Tâm
trở nên hoạt bát hẳn:
- Thưa thầy, con nghe thầy
Hiệu trưởng về Huế, thầy Đ. cũng đã mất, còn thầy… nhưng con lo quá, chỉ sợ… vì
Kính gặp thầy cũng đã lâu…
Bây giờ thì Tâm lại nghẹn
nữa. Tâm lặng im. Không còn nhớ hai người ngồi xuống từ lúc nào. Tâm chếnh
choáng, nhẹ hẫng, đắm mình trong một cảm xúc phơi phới, lâng lâng, rất diệu kỳ,
khó tả. Cô cũng vừa từ nhà trong bước ra, ngồi cạnh chồng. Cô thay chồng lần
lượt hỏi đến gia đình, con cái, chức
nghiệp… nhất nhất đều được Hà thay Tâm trả lời tỉ mỉ.
Còn Tâm cứ im lặng để tận
hưởng cái cảm giác tuyệt vời hiếm có trong đời mình. Tâm như mê đi, như sống
lại thời thơ ấu cũ, thời ao ước sẽ trở nên vị tướng như tướng Carnot, sống lại
cái mộng trẻ con của thời lên bảy! Không có ngựa lông trắng tuyết, không binh
phục đỏ ráng pha, không có đoàn tùy tùng… Tâm đã đi những chiếc xe đò xộc xệch,
xóc nẩy tung người lên, nhưng may thay : có cô bạn trẻ rất tế nhị, rất cảm
thông tấm lòng của đứa học trò về thăm thầy cũ. Cô luôn luôn bên cạnh giúp Tâm
đủ kiên nhẫn, vững lòng. Chợt Tâm sực nhớ mình đã đến với hai tay không thì
cũng đúng lúc Hà cho tay vào giỏ xách, lôi ra một gói bọc ni lông có hai hộp
trái vải trong đó, đặt lên bàn. Tâm chỉ biết đưa mắt thầm cảm ơn Hà.
- Các con đến thăm thầy cô
mừng lắm, quý lắm rồi, mua sắm làm chi tốn kém? – Cô nói.
Tâm tự hỏi thầm, phải chăng
thầy cũng xúc động như Tâm nên không nói được thành lời ý nghĩ của mình?
Thầy không nói, nhưng thầy
ghi lại tất cả những lời của bạn Tâm và của cô trò chuyện.
Một giờ trôi qua, mà sao Tâm
thấy nó như tia chớp. Bạn Tâm nhìn đồng hồ sau khi nó ngân lên tám tiếng. Tâm
đứng lên chào thầy cô. Thầy cô đưa hai người ra tận cửa. Với giọng trầm trầm
của người già thầy nói với Tâm:
- Thầy rất mừng là học trò
của thầy không đến nỗi nào! Hãy giữ vững
thiên lương! Thầy rất sung sướng được gặp con. Có lẽ đây là lần cuối thầy
gặp một học sinh cũ làm thầy vui… Vì thầy đã già quá rồi, thầy suýt soát tuổi
ba con đó chứ ít đâu.
Cô thì nhắc lại “Cảm ơn con”
và chúc hai đứa lên đường bình an. Mắt Tâm nhòe đi qua màn nước. Ngoài trời mưa
rơi nhẹ và lòng tâm cũng nhẹ lâng. Tâm thấy đi dưới mưa sao mà thú vị vô tả.
Tâm nắm chặt tay bạn, chưa kịp nói gì thì Hà nói trước:
- Đừng có cảm ơn em! Hãy đưa
em đi ăn cháo vịt, và bảo họ dọn rất nhiều gan như đã hứa.
- Một trăm cái gan vịt tôi
cũng đãi cô.
Hai người cùng cười to, sảng
khoái. Chính Tâm cũng ngạc nhiên vì tiếng cười của mình sao trong trẻo, hồn
nhiên, đã lâu mình chưa hề được vui như vậy.
Về sài Gòn Tâm thấy mạnh
khỏe lên như được tiếp sức, mạnh khỏe hơn bất cứ chuyến đi nào từ trước tới
nay. Tâm kể đi kể lại chuyến đi thăm thầy cũ cho chồng, cho các con, cho bạn bè
thân sơ, kể cả tuần liền không chán. Và Tâm hát vang lên. Giọng hát và tiếng
nói của Tâm y như của vị tướng hành quân vừa thắng trận. Đến nỗi các con Tâm phải
kêu lên : “Mẹ bữa nay trẻ lại cỡ mới ba chục tuổi Xuân!”.
□
Dĩ nhiên là Tâm hiểu. Tình
bạn của họ hồn nhiên, bình dị, không kiểu cách, không chút đãi bôi, khỏi cần
khách sáo. Vì vậy, khi Tâm ra lần này không có Kính ở nhà, Tâm cứ ung dung cùng
con gái của Kính khóa cửa lại, đi ra biển, tắm. Con gái Kính cùng tuổi với con
gái đầu của Tâm, nhưng đã có chồng, vừa sinh con đầu lòng hơn một năm thì chồng
chết. Nó còn quá trẻ để buồn rầu, để có vẻ góa phụ. Nó đưa con cho Tâm, cười
khì khì:
- Dì bồng nó cho con, coi!
Ra đến biển, thằng bé nằng
nằng giữ mẹ trên bờ, không cho mẹ tắm, sợ mẹ chết đuối. Tâm đành xuống biển với
một cô bạn của mẹ nó.
Trong lúc Tâm và cô bạn của
con gái Kính nô giỡn trên sóng thì trên bờ nó hét dựng lên:
- Dì ơi! Con khổ ghê không?
Con không được tắm dì ơi!
Tối lại, trăng sáng rỡ. Tâm,
con gái Kính, cháu ngoại Kính và hai cô bạn nữa kéo nhau ra Hội trường xem lễ
Trung Thu do các trường tại quận hợp lại tổ chức. Đèn lồng con cá, đèn xếp, đèn
quả bí, tấp nập, tưng bừng. Nhưng khi xướng ngôn viên tuyên bố kết quả thì Tâm,
con gái Kính và các bạn cùng bất mãn : làng Khánh Thiện bết quá, không thu được
kết quả đáng nể nào cả. Mọi giải thưởng đều bị học trò trường làng Thạch Long
thâu tóm. Ông hiệu trưởng Thạch Long coi bộ hơi kênh, còn ông hiệu trưởng
trường Khánh Thiện thì ủ rũ trông thấy rõ. Mọi người làng Khánh Thiện kết tội
ông hiệu trưởng Khánh Thiện không tiếc lời, còn con gái Kính thì giận trường
làng Thạch Long cạnh tranh bất chính,
chuyên môn độc diễn.
- Đó dì thấy không? Trình
diễn văn nghệ : học trò Thạch Long! Đem thi đèn : Thạch Long! Cái gì cũng Thạch
Long, Thạch Long…
Một cô bạn cãi:
- Thôi, cũng tại trường mình
làm biếng, không chịu tập luyện gì hết, đi đứng hát hỏng so le…
- Tao nghe nói điện văn ở
trung ương đánh khẩn về mà quá trễ cho nên… với lại tao nghi cha hiệu trưởng Thạch Long giấu, không
cho trường Khánh Thiện mình hay sớm…
- Dám lắm à, cạnh tranh bất
chính.
Mấy cô gái bênh vực màu cờ
trường Khánh Thiện quá hăng say làm cho người học trò của gần bốn mươi năm cũ
cũng nóng mắt, nhảy vào vòng chiến, cũng tức tối, tưởng có thể đón đường kẻ đã
làm nhục trường Khánh Thiện ăn thua một trận.
Trăng lên cao, mọi người
cùng lần lượt ra về. Bốn tiếng Thạch Long – Khánh Thiện cứ dội vào tai Tâm từng
chập. Tâm chợt nhớ những kỷ niệm về Thạch Long : gò mả, đồi cát đầy cỏ dại, cây
bồn bồn, hoa cườm thảo và sân bóng tròn – một kỳ quan đối với Tâm, thuở đó. Rồi
lan man Tâm nhớ đến quả bóng đầu tiên của Tâm và các bạn : bằng giẻ rách quấn
với lá chuối khô. Tâm nhớ đến những người đàn bà đi chợ ngang trường thường
liếc mắt vào, nhìn quả banh tròn bằng những con mắt không thiện cảm. Một bà la
lên:
- Coi! Trời ơi! Đời thuở nhà
ai con gái mà đá banh không?
- Ừ! Đồ quỷ sứ! Mà còn giữ gôn nữa chứ. Cái đồ rắn mắt, con
không ai dạy.
Tâm ngừng chơi trong lúc Cúc
chống nạnh, trừng mắt trả đũa tức thì:
- Ừ! Con gái đá banh đó, có
sao không? Mắc gì mấy người không? Ai mượn thò mỏ vô?
Một mụ đàn bà đanh đá:
- Thầy mày không biết dạy
hả? Muốn tao chửi cha thầy mày không?
Tâm càng hốt hoảng, kéo Cúc
lùi vào, nhưng nó đâu chịu, nó…
- Dì ơi! Mình đi ăn bánh căn
đi, đi!
Tiếng con gái Kính làm Tâm
giật mình. Lập tức, tấm màn dĩ vãng được buông kín mít. Tâm trở lại thực tế
theo chân mấy cô gái thuộc lớp tuổi con mình.
Ngày hôm sau, Kính từ Phan
Thiết trở về. Con gái Kính định gởi con cho mẹ để rảnh tay đi tắm với dì Tâm,
nhưng thằng bé không chịu. Tâm rủ bạn đi, Kính trả lời lửng lơ:
- Mắc lo vài công chuyện. Dì
cháu mấy người đi trước, trưa nay hễ rảnh tao ra, tao biết chỗ dì cháu mày tắm
mà! Chỗ bóng mát có cái nhà bát giác đó chớ gì? Coi ra chợ mua bánh hỏi, thịt
quay đem theo ăn. Hai, con làm cho dì cháu nó cối nước mắm me, nghe!
Dì cháu Tâm lơn tơn ra chợ.
Mua sắm xong xuôi, kêu bạn, kêu bè đông đủ, chín giờ sáng họ mới khởi hành.
Người thì đi bộ, người thì xe đạp. người được chở bằng Honda.
Sắp xếp các món ăn vào nhà
mát xong, cả bọn lao mình xuống nước, sau khi nô giỡn, rượt đuổi cả giờ. Đồng
hồ chết từ lâu, nhưng họ cũng đoán được là gần đứng bóng rồi. Hòa nhìn chăm
chăm vào mặt dì Tâm:
- Chà, mặt dì đỏ quạch y như
mặt trời. Nữa dì về Sài Gòn, người ta cười chết.
- Dì tao cóc sợ ai cười –
con gái Kính vui vẻ nói – dì tao ngon lành lắm, Hòa ơi!
Thình lình Chúc chen vô:
- Tao vẫn còn tức quá, tao
nhớ chuyện lễ Trung Thu hôm qua, trường mình ê mặt…
- Thôi, đừng tức, người đáng
tức là dì Tâm kìa, mà dì còn không tức thay.
Chúc tò mò:
- Ủa, dì cũng học trường
mình hồi nhỏ hả?
- Chớ sao?
Hiệp vênh mặt lên xác nhận,
vẻ mặt như vẻ mặt của vị danh tướng vừa được một quan văn công nhận mình có
thực tài.
Mây trắng lốp, trời cao và
xanh hơn lên. Cách bọn họ cỡ bốn chục thước, đoàn người kéo lưới vẫn kiên trì
làm việc. Tâm hỏi lũ con gái:
- Sao họ kéo lâu dữ vậy, tụi
bay? Từ nãy đến giờ mà chưa kéo được vô bờ?
- Dám có nhiều cá lắm dì ơi!
Nhiều cá nên nặng lưới…
- Tao không tin. Năm nay mất
mùa cá, làm gì mà nặng lưới. Ủa, họ làm gì mà đập thình thình ngoài đó vậy?
- Con này ngu quá sức, họ
lùa dồn cá đó chớ làm gì. Ở biển như mày thà lên rừng còn hơn.
- Ai biết đâu…
- Cái gì cũng ai biết đâu, tao chán mày hết sức.
- Thôi bơi! Cãi lộn hoài.
Họ quên tức khắc chuyện lưới
kéo chậm. Tâm vừa bơi vừa lơ đãng ngắm cảnh. Đỉnh đồi màu gạch cua, rặng dừa
xanh, con đường chạy dọc theo bờ biển trườn mình theo rặng dừa, có khi cả hàng
tiếng đồng hồ không thấy bóng của một cái xe vậy mà loang lổ nhũng ổ gà. Trên
bãi cát, một con thuyền như mắc cạn, nom nghèo nàn, xơ xác, giương đôi mắt lơ
láo, ngờ nghệch nhìn chăm chăm xuống nước trông mới ngộ nghĩnh làm sao. Nó
không có vẻ “nghe chất muối thấm lần trong thớ vỏ” như một câu thơ mà Tâm ưa
thích lúc nhỏ, thớ gỗ nó có vẻ nhạt vì gội mưa tắm nắng quá lâu ở trên bờ. Chắc
nó tủi thân ghê lắm?
Đột nhiên tiếng la oai oái
như thể cháy nhà đâu đó, rồi tiếng chân rầm rập từ bờ, tiếng léo xéo từ mấy xóm
dừa và người ta tuôn ra như kiến bị động trong tổ. Quang gánh trên vai, thúng
rổ, vợt lưới ở tay, người lớn, trẻ con, người già kéo xuống bãi tụm lại chỗ
lưới đang được khó nhọc, chậm rãi kéo vô bờ.
Chúc nheo mắt nhìn về hướng
đó rồi bất ngờ, nó hét dựng lên:
- Nhiều cá quá, tụi bây ơi!
Và rồi không đợi bạn, đợi
Tâm, Chúc lội lẹ vô bờ, lao đến chỗ đông làm cho mấy người còn lại sửng sốt. Thoạt
đầu, Thành, Hiệp, Hòa cũng như Tâm đứng tại chỗ nhìn theo, song chỉ hai phút
sau Hiệp, Hòa cũng theo bạn, bỏ Thành và Tâm lại. Hai dì cháu nhìn nhau, nửa
muốn tắm thêm, nửa bị khung cảnh kỳ lạ trước mắt lôi cuồn.
Tiếng la càng lúc càng cấp
bách, thôi thúc. Trên mười người từ hai khoảng cách của đầu lưới đã gần ráp lại
nhau. Con thuyền máy suốt mấy giờ qua cứ đảo quanh ngoài biển gây tiếng động để
lùa cá cũng lập lờ cách bờ cỡ trên mười thước, không hơn. Trên bờ, khoảng hai
chục người lớn nhỏ chực sẵn để hôi cá.
Từ đáy nước tấm lưới chầm chậm nhô lên cho người ta thấy rõ là cá nhiều, quá
nhiều, hơn cả lời Chúc đoán.
Tâm và Thành cũng bị hoạt
cảnh đó thu hút, không ai bảo ai, lặng lẽ lên bờ. Đúng lúc đó, thằng bé con
Thành thức giấc trong cái võng treo giữa hai cái cột trong gian lều mát hình
bát giác làm mẹ nó phải chạy lên dỗ con nên còn mình Tâm thong thả tiến lại chỗ
đám người đứng đợi trên bờ.
Bấy giờ, một phần lưới đã
được kéo lên bãi, tấm lưới dài, rộng lùng bùng nhốt trong đó vô số cá bạc lóng
lánh đang giãy giụa liên hồi. Một số khác luồn khỏi lưới đang tìm lối thoát,
chúng bị những lượn sóng lớn xô đẩy lại giạt lui vào bờ. Tức thì bọn hôi cá ào
xuống, bắt chúng bằng mọi cách. Tiếng quát tháo càng dữ dội hơn bao giờ, chát
cả tai. Tâm đứng xa, nhìn đống cá của vài kẻ đi hôi vun cao dần dưới một góc
dừa rồi nhìn đống cá lớn hơm thập bội do bọn người kéo lưới tháo ra khỏi lưới,
dùng ky, rổ lớn xúc từng mẻ vun đổ ập lên cát trắng. Tấm lưới lần lượt được kéo
lên thêm, cá đầy vung, tung cả lưới, lọt ra ngoài. Những người hôi cá sà tới
như một bầy ruồi sà vào tổ mật. Thoạt đầu Tâm hơi ngạc nhiên vì thấy họ để cá
ra nhiều phần nhỏ. Hiệp giải thích những phần nhỏ là cá hôi, chính đống cá đang
nằm giãy giụa chồng chất lên nhau cả một khoảng rộng kia mới chính là của chủ
lưới. Tâm liếc nhìn mấy đống cá hôi, thấy đống nhiều nhất cỡ đong đầy vào thùng
dầu hỏa cũng được bảy, tám thùng. Tâm nghĩ đến công khó của đám ngư dân từ lúc
sáng mà đâm xót ruột hộ. Tâm lại gần, cúi xuống, nhặt từng con cá rơi vãi ngoài
lưới bỏ vào lưới giùm họ, nhưng Hiệp ngăn lại:
- Trời ơi! Bỏ vô lưới làm
chi dì? Lượm đi dì! Lượm về ăn!
- Kỳ quá, tội nghiệp người
ta!
Tâm nói và lại cúi xuống,
nhặt không kịp thở, nhưng khi Tâm giở lưới toan thả vào thì có tiếng đàn bà nói
to:
- Lấy đi! Đừng bỏ vô chi.
Tiếng la đó làm Tâm sửng
sốt, suýt buông rơi mấy con cá đang nắm chặt ở tay. Hay đó là lời của một người
trong đám hôi cá, không muốn người khác tỏ ra lương thiện? Nhưng không, người
đàn bà ngẩng nhìn Tâm, giọng nói thản nhiên:
- Cứ lượm đi, tụi nó lượm
thiếu gì!
Nói xong bà ta bưng một rổ
cá vun chạy lúp xúp mang đổ chồng lên đống cá lớn phía trên xa.
Giữa đám người nhặt, bưng,
đổ, gỡ đó, tâm thấy Hiệp, Hòa, Chúc không còn vẻ gì là những nữ sinh đệ nhất đệ
nhị nữa. Chúng cũng a đại tới, bắt, chụp, bưng, đổ, tháo, gỡ, lăng xăng, hăng
hái. Chỉ khác với bọn kia là chúng không đứng hẳn ở hàng ngũ người hôi hay
người chủ lưới, khi thì chúng nhặt những con cá rơi ngoài lưới để riêng cho bọn
mình, khi thì hào hiệp bưng giúp những ky cá nặng trĩu lên bờ. Cũng khác với
bọn hôi cá : chúng đóng vai người hôi rất chân chính – không bao giờ bắt cá
trong lưới của người ta, chúng rất phơ-răng-jơ!
Lời Chúc pha trò, mà thật vậy, Tâm cũng làm y như chúng kể từ phút đó.
Một lát, Tâm thấy mỏi nên
dừng lại đứng nhìn. Hàng triệu triệu con cá cùng một lứa với nhau, mỗi con to
gần bằng bàn tay dài từ tấc hai đến hai tấc, nằm chồng lên nhau tung tóe giữa
cát trắng, những cái đuôi và vảy bạc lấp lánh dưới nắng chói lòa, giẫy giụa
liên hồi, nhìn xa xa như ta nhìn vào cái xanh khổng lồ đựng đầy bạc trắng đang
sôi sục, sủi tăm lên.
Tâm lại gần tấm lưới đang
còn nhiều cá, cúi bắt một con cầm trên tay. Nó uốn cong thân hình trắng bạc và
kêu lên “oằng oặc” nho nhỏ. Tiếng kêu đó rập ràng hơn, đều một loạt ở những
thúng cá mới vớt khỏi mặt nước, rồi vài phút sau tiếng “oằng oặc” nhỏ dần và
tắt luôn. Cùng một lúc, chúng thôi giãy giụa, nằm im, chỉ còn thoi thóp thở.
Tiếng la oai oái vẫn tiếp
tục mỗi lần tấm lưới được kéo lên một chút nữa. Cả một khoảng mặt nước chu vi
ba mười thước chiều rộng đục lờ, thoáng gợn mùi tanh.
Tâm đưa mắt nhìn lũ trẻ.
Chúc thì mặc chiếc áo mưa của Thành, Hòa thì cuỗm chiếc áo khoác bằng khăn lông
của Tâm từ lúc nào không biết, Hiệp thì vốn nhanh nhẹn nhất bọn nên đã mặc quần
dài và áo cánh. Chúng còn say sưa hăm hở hôi cá, giúp chủ cá và luôn canh chừng
đống cá của cả bọn giờ đã được ít nhất cũng sáu thùng dầu hỏa đong đầy. Tâm
nhìn lại mình, Tâm đang quấn ngang mình tấm khăn lông khá rộng ngoài áo tắm
nhưng chốc chốc ngấm nước và vì Tâm cử động, nó lại tuột ra, phải ngừng bắt cá,
quấn lên.
Thình lình, Thành xuất hiện,
nó la chói lói:
- Đứa nào lên coi con cho
tao, tao bắt cá với đi! Ma… au coi!
Không đứa nào nhúc nhích.
Thành ào xuống nhập bọn. Hiệp lại hét dựng lên:
- Coi chừng mất đồ trên đó
sao? Con khỉ!
Mặc bạn la lối và Tâm cũng
la nữa, Thành làm như không nghe trách cứ gì, cắm cúi nhặt cá, nét mặt thích
thú, nó không có vẻ gì là người mẹ của đứa trẻ hai tuổi đang nằn trên võng,
đằng xa kia.
Có một lần Tâm hơi tức mình
vì cái khăn lông cứ tuột hoài, lại gần Hòa toan đòi áo khoác, nhưng Tâm ngao
ngán khi thấy hai túi áo đầy nhóc cá.
- Hết nước rồi, cho cá vô
túi áo, tanh chết đi…
Hòa nhìn Tâm cười dài, phô
hai hàm răng trắng ra:
- Dạ, không sao đâu dì, con
sẽ giặt kỹ cho dì, nhà con bán xà phòng. Xà phòng Việt Nam giặt trắng
phau, mau sạch đó, dì ơi!
Hiệp liếc mắt nhìn hai túi
áo khoác đầy nhóc cá, thò cả đầu, đuôi lên miệng túi của bạn, giễu:
- Coi, ăn cắp cá bỏ đầy túi
áo mà nói chơi phơ-răng-jơ!
- Thì phơ-răng-jơ! Chớ gì nữa, cá này là cá rơi ngoài lưới mà, mày!
- Tao rất lạ, không hiểu con
Chúc nó mặc áo quần đàng hoàng chớ phải chi mặc áo tắm như tao với dì Tâm đâu
mà nó lại khoác thêm cái áo mưa làm chi chớ?
Thành thắc mắc hỏi.
- Biết tại sao không? Lúc
nãy con Hiệp ham bắt cá quá, nó chạy sao mà rách cả quần dài, nên nó quơ đại
quần con Chúc…
- Tao bắt cá một lát, mới
nhớ mình mặc đồ tắm nên chạy lại nhà bát giác, tìm hoài không ra quần mình, tao
biết liền, tao phải bận quần rách của nó và phải bận thêm áo mưa nữa chớ sao. Con
quỷ, con chó! Tao sẽ trừng phạt mày cho coi! – Chúc nói.
Tâm nhìn đống cá của cả bọn,
kêu lên:
- Thôi, đừng bắt nữa, nhiều
quá, bắt làm gì? Làm sao đem về? Lấy gì chở?
- Thuê xe, dì!
Bọn hôi cá lần lượt đem
quang gánh lại, chuyển cá đi dần. Tiếng ơi ới lúc đầu dịu bớt. Có cả một quân
nhân – hay một thường dân mặc binh phục? – cũng hôi cá, anh ta đứng nhìn đống
cá một cách kiêu hãnh như nhìn chiến lợi phẩm sau khi thắng trận.
Bấy giờ, Tâm nhận ra đám ngư
dân chủ lưới gồm đủ lứa tuổi : có một bà lão mặt nhăn nheo như quả táo khô, có
một ông cụ quắc thước với nước da màu đồng và đôi cánh tay rắn chắc, có một đứa
nhỏ đen chũi, vài thanh niêm quần áo rách bươm và hai thiếu nữ thân hình tròn
lẳn, bộ ngực nở nang, cái đẹp khỏe mạnh, hồn nhiên, đơn giản. Họ gồm trên dưới
mười hai người. Họ đã khó nhọc giăng lưới, gò lưng kéo, dầm mình dưới nước để
dồn đuổi cá, phơi nắng từ khi nắng còn dịu cho đến khi nắng cháy đốt da, họ đã
la khản cổ – điều này Tâm cho là vô ích nhất – vì không phải họ la để đuổi bọn
hôi cá, mà la khan, la khống vậy thôi. Vì Tâm lắng nghe, không tiếng gì rõ rệt,
cứ “ới, cá, cá… ơi!”, “mau, mau… ma… au” khi thì “Trời ơi! Tr… ơi”, “ô, ô… ô!”
khi thì họ la vì giẫm nhầm chân nhau. Cũng có khi họ la vì bọn hôi cá quá lộng
hành : không chỉ bắt cá rơi ngoài lưới mà còn thò bắt cá trong lưới của họ,
nhưng rất ít. Họ không có nhiều con mắt tinh tường để nhìn khắp nơi. Nhưng đã
có Tâm, Tâm không ngừng tỏ ra mình là một trọng tài đáng nể trong cuộc chơi.
Tâm quát bọn hôi cá như chính mình là chủ:
- Ê, bỏ xuống coi! Đừng ăn
cắp chớ. Người ta làm khó nhọc!
Có người riu ríu vâng lời,
nhưng vài đứa trẻ rắn mắt, làm như không nghe, cứ tiếp tục. Tâm xông tới, giơ
nắm tay lên cao, dọa dẫm:
- Bỏ cá ra, coi chừng! Biết
tao là ai không, hở? Trả lại, mau!
Và Tâm đã thành công.
Gần hai tiếng đồng hồ, mẻ
lưới mới được tháo gỡ xong. Ông cụ già, mấy cô gái nhìn Tâm và lũ trẻ bằng con
mắt cảm tình, một người lên tiếng:
- Lụm thêm dìa ăn, đi!
Và họ lập đi lập lại hoài
câu đó, khiến cho mấy đứa trẻ không thể từ chối – thật ra chúng cũng thích lấy
thêm – dù không phải chúng tham lam. Sau cùng hơn tám thùng cá được khuân lên,
để dưới bóng mát của gốc dừa cạnh ngôi nhà bát giác. Nhưng cái việc đem về nhà
mới thật là cả một vấn đề và mệt quá. Tuy nhiên, mệt nhọc trong hả hê, thích
thú. Đứa nào cũng sáng ngời mắt.
Bọn trẻ cãi cọ nhắng lên một
hồi mới đi đến quyết định : dùng cái Honda chở một người và một giỏ cá. Phải đi
đi về về nhiều bận như vậy mới xong. Hiệp tỏ ý lo ngại sẽ bị rầy về tội đi chơi
lúc buổi trưa, thâm qua buổi chiều của mình, nhưng Hòa thì tỏ ra vững lòng:
- Bộ đi chơi bậy bạ gì sao?
Tụi mình đi tắm với dì Tâm, với lại… ờ, với lại dì hôi cá nữa chớ bộ.
- Phải, coi điệu này, mỗi
đứa được cả giỏ đầy, chắc khỏi bị la.
- Còn dì nữa, dì sẽ đem về
Sài Gòn mấy giỏ?
- Dì hả? Khỏi! Dì ăn bằng mắt và ăn tại đây thôi.
- Đó, giờ dì tin lời con
chưa? Hả dì?
- Tin cái gì chớ?
- Coi, dì quên sao? Tin
chuyện gánh hát ra đây, hát ế thì đi xuống biển xin cá hay hôi cá ăn thay gạo
chớ tin gì. Hôm kia con nói mà dì cười kêu là con nói dóc.
- À, tin! Tin chớ, nhưng dì
ngạc nhiên ở chỗ họ hát hỏng làm sao mà bị dân ở đây chê?
- À, có gì đâu dì, cháu biết
gánh hát này. Tụi nó hát dở, chỉ hay có cái tài
bay thôi.
- Tài bay?
Tâm lạ lùng, hỏi gặng. Thành
cười khì:
- Dạ, tài bay, tụi nó bay
hay lắm, tên kép chánh bay hay lắm, bay khi diễn tuồng kiếm hiệp đó mà.
- Chà, chắc mày coi đều mỗi
đêm?
- Đâu có coi mà nghe tụi nói
lại thì biết chớ gì. Bữa họ diễn tuồng “Người về từ đỉnh núi” dở ẹc…
Tâm trầm ngâm, nhớ đêm Trung
Thu, ban tổ chức quận chọn ngay địa điểm trước rạp hát làm Hội trường, thành ra
ban hát “Bình Minh” hết chỗ làm ăn.
Sáng hôm sau, Tâm đi ngang,
thấy đào kép chính cũng như phụ bơ phờ, thảm não, người thì đang chổng mông
thổi lửa, người thì vo gạo, một chị đàn bà vạch vú cho con bú, nhưng hình như
không mút ra sữa, nó nhả vú mẹ ra, hét toáng lên. Người mẹ vội vàng gài nút áo
khi thấy người lạ đi ngang, nhưng Tâm cũng kịp nhìn rõ bộ ngực lép xẹp của chị
ta. Đôi mắt thâm quầng, lờ đờ, dáng bộ mệt nhọc, chị đưa tay che miệng ngáp
dài, nước mắt chảy ròng ròng. Những que củi quơ trên động còn xanh nên khói tỏa
mù mịt một góc bên hông rạp hát, làm một anh kép răng vàng, tóc dài, giắt theo
kẽ tai, cao giọng chửi thề ỏm tỏi.
Đang vui vẻ Tâm chợt nghẹn
ngang và cay cay ở mắt.
Ngày kế tiếp, Tâm còn thấy
cái xe xộc xệch của họ với tấm bảng “Đại ban Bình Minh” và bảng nhỏ hơn với mấy
chữ “Tối nay chúng tôi sẽ công diễn tuồng Phạm Công, Cúc Hoa đặc sắc” ì à ì ạch
chạy quanh làng quảng cáo, có tiếng trống “tùm tùm” phụ họa và một lũ con nít
trong làng ở trần trùng trục, có đứa chỉ bận áo, áo của cha hay của mẹ, dài tận
đùi, lóc nhóc theo sau như đám rước đình. Có đứa cười, đứa khóc, có đứa reo hò
tở mở, mấy đứa nhỏ xíu đứng một chỗ đưa mắt nhìn theo, mũi chảy dài và khi anh
chị chúng – hoặc một người lớn đi ngang trông thấy – la lên : “mũi chảy kìa!”,
lập tức chúng hít mạnh một cái làm hai dòng nước mũi đặc xanh lại rút lên rồi
từ từ, thong thả bò dài xuống vị trí cũ, không suy suyển.
- Bữa nay họ hát tuồng gì
đây? – Hòa hỏi.
- Không biết! – Thành đáp
cộc lốc.
Hiệp tỏ ra thành thạo:
- Hôm đầu tuồng “Người về
đỉnh núi”. Hôm qua Phạm Công Cúc Hoa, còn bữa nay chắc công diễn “Người về đêm tân hôn”, nghe nói tuồng này là tuồng ruột à!
- Lạ quá, gánh hát này sao
ưa người về quá, tụi bay hả? Đặt tên
thì hay mà hát thì… dở hết chỗ chê. Cứ mỗi lần ra đây là ngày sau xách giỏ đi
xin cá.
- Ờ, coi như Út Bạch Lan,
Thành Được, Bạch Tuyết người ta ngon lành không?
- Bì sao được với mấy người
đó! Nói ngu chưa!
- Sao kêu là ngu? Thì cũng
nghệ sĩ, mà người thì đi xe hơi Huê Kỳ, người thì đói dài dài, tội chớ, hả dì?
Luôn luôn tụi nhỏ kéo Tâm
vào các cuộc tranh luận, đòi Tâm góp ý.
- Ờ, tội thiệt. Dì cũng thấy
thương…
- Vậy chứ có người ưng theo
đó, dì ơi!
- Ai ưng theo? Mày cứ đặt
chuyện. Tao chịu hết nổi. Dì ơi, dì đừng tin nó.
- Tao thèm nói láo với mày
sao? Mày biết ai đòi theo không?
- Ai?
- Ông thầy H., ông thầy mới
đổi tới trường trung học quận đó. Ổng kêu là ổng ưa nếp sống nghệ sĩ, ổng nói với thằng em tao đây nè. Ổng nói phải chi
mùa hè…
Thành bĩu môi:
- Tưởng ai chớ ông thầy H.
thì khỏi bàn, ổng nghệ sĩ quá rồi,
cần gì đi theo gánh hát.
Câu chuyện càng lúc càng lôi
cuốn đây. Tâm nghĩ thầm và hỏi lớn:
- Ông ấy ra sao mà tụi bay
kêu là ổng nghệ sĩ quá rồi?
- Dạ, ổng hết sức dơ dáy, tóc để dài, áo quần không giặt, đứng gần nghe mùi
hôi, đụng tới là bụi bay ra liền.
Cả bọn cười khùng khục. Tâm
hỏi:
- Có thật vậy không?
- Dạ, thưa dì, bảo đảm cỡ
năm mươi phần trăm.
- Còn ổng dạy dỗ ra làm sao?
- Tụi con đâu có học ổng mà
biết. Trong tụi con có mình con Chúc là có học ổng, dì thử hỏi nó coi.
- Sao, Chúc, thầy H. dạy dỗ
ra sao?
- Dạ, con học lâu rồi, ổng
nghiêm lắm, dì ơi! Bây giờ con còn sợ ổng, sợ nhất là khi đụng đầu ổng, ổng ngó
chăm chăm vô mặt con, hỏi: “Chúc, sao không đi học nữa?”. Cái tiếng của ổng
nghe muốn run lận, dì ơi!
- Ê, đồ ngu! Hết học rồi còn
sợ nỗi gì?
- Vậy mới nói, mới kỳ, tao
đã nói ổng dữ mà. Hết học thì hết học chớ, cứ sợ như thường.
Tâm kết luận, giọng nghiêm
trang:
- Vậy thì ông ấy có tác
phong nhà giáo đó, tốt lắm! Tụi bay đừng chê. Có lẽ vì xa nhà buồn, có thể
không ai giặt giùm quần áo…
- Còn tóc?
- Ờ, khoản này thì chắc dì
không binh nổi ổng đâu.
- Trong Sài Gòn, trường Pétrus
Ký đó nghe, tóc học trò ngắn hơn cây kim găm bạc, cho tụi bay hay.
Thành lại lên giọng người
biết nhiều, hiểu rộng.
Chợt, câu chuyện bị đứt
ngang vì một đứa con trai hớt hải chạy qua báo cho mọi người biết:
- Ra coi mau! – Nó vừa nói
vừa thở hào hển – anh kép hát chuyên môn bay của gánh hát “Bình Minh” ra biển
xin cá sáng nay, bị đẻn cắn, họ đang chở vô nhà thương kìa. Mau ra coi!
- Thiệt không?
- Đứa nào nói láo ông bà dật nó đi! Họ khiêng gần tới kìa, tui
thấy rõ ràng.
Trong nháy mắt, bốn cô gái
vụt chạy theo thằng bé, bỏ mình Tâm đứng lặng, nhìn theo. Một lần nữa niềm vui,
sự vô tư vụt mất. Tâm nghe cay cay ở mắt, nghẹn ở cổ, bước chân nặng như chì.
□
Mấy ngày liền Tâm luôn bị
hình ảnh người kép hát và cô đào quấy rối : hai mắt nhắm nghiền, mặt trắng bệch
méo mó, nước dãi sùi ra hai bên mép, mái tóc dài lốm đốm muối tiêu phủ gáy, lấp
tai phất phơ theo gió. Anh ta nằm cong queo bất động trên chiếc võng gai do hai
người dân chài lực lưỡng khiêng chạy băng băng trên động cát lún. Thỉnh thoảng,
một trong hai người la to : “Dang ra, dang ra” để xua lũ trẻ và cả người lớn tò
mò chạy theo sau tạo thành một đám diễu hành rồng rắn, họ la cốt để khỏi vướng
chân, nếu không đám đông dám chận lại để nhìn tận mặt nạn nhân. Chợt trong đám
người hiếu kỳ theo sau có một giọng đàn ông trầm bổng cất lên : “Bớ chư khanh! Trẫm
bị lâm nguy, ngàn cân treo sợi tóc… Hãy mau mau mời quan ngự y! Mà thôi, đem
trẫm tới nhà thương thí, mau lên!”
Hàng loạt tiếng cười vô tư
của đám người tò mò đủ lứa tuổi phía sau, tiếng khàn đục, tiếng trong trẻo,
tiếng the thé, tiếng ồm ồm như đuổi theo người xấu số khiến Tâm choáng váng.
Kế đó là người đào hát với
tiếng khóc thét ngằn ngặt của đứa con thiếu sữa và rõ nhất là chiếc vú lép kẹp
như cái bao da rỗng của chị ta, thái độ bối rối, ngượng nghịu khi bị Tâm bất
ngờ chứng kiến. Mặc dù đau xót và bất bình, trí tưởng tượng của Tâm vẫn không
ngừng làm việc : Anh kép hát này chắc hay đóng vai vua với triều phục uy nghi
rực rỡ! Anh ta có biết bay không? Nếu biết thì sau tai nạn này, dù được thoát
chết chắc anh cũng không bay được nữa. Còn người phụ nữ, cô ta sắm vai gì?
Hoàng hậu, cung phi hay chỉ là một nữ tì vô danh? Cô ta có thể là vợ anh kép
cũng nên? Ồ, không đâu, nếu đúng là vợ chắc cô ta đã chạy theo sau võng mà khóc
lóc. Như để tự trấn an mình, Tâm nghĩ tiếp : Không! Không phải, hai người không
có liên hệ gì với nhau cả, giờ này chị ta đang đi kiếm cháo thay sữa cho con,
dù có xót thương đồng nghiệp, chị cũng không có thì giờ, tâm trí đâu mà quan
tâm đến.
Lan man Tâm nhớ đến những nghệ sĩ có giá đã đôi lần Tâm gặp họ ở
chợ Bến Thành hay ở các đường phố Sài Gòn, họ vênh váo, chễm chệ trên xe “Huê
Kỳ”, có khi bị bao vây bởi đám đông ngưỡng mộ – họ, những tài tử ấy – đàn bà
thì lóng lánh đã cam, đàn ông cũng sửa sang sắc đẹp : họ xẻ cằm, bơm mũi, nâng
môi. Họ là khách hàng quen thân của các mỹ viện hiện đang đua nhau mọc lên như
nấm mùa mưa. Họ quá kệch cỡm, những quái thai của thời đại mới!
Tâm không chịu nổi. Cái gì ở
đây cũng gợi nhớ, nhắc nhở về những điều chứng kiến vừa qua. Từ cái võng của
cháu ngoại Kính, bóng dáng vài người dân chài đi ngang trước ngõ, tiếng cười vô
tư của con gái Kính, một giọng cải lương rền rĩ vượt hàng rao râm bụt bay sang…
đều khiến Tâm khó chịu.
Thấy bạn chuẩn bị ra về
trước dự tính, Kính ân cần hỏi lý do, Tâm chỉ ậm ừ qua loa, vì Tâm biết tính
bạn, nói ra e chừng lại bị chê là mua
việc.
Hành lý lần này của Tâm nhẹ
hẫng vì Kính chưa kịp chiết cho Tâm vài chai, thứ nước mắm hảo hạng nhà Kính
làm để dành ăn, không có hải sản cũng không có những trái mãng cầu ngon lành
như lần trước. Nhưng Tâm cảm thấy mình mang nặng, rất nặng một thứ hành trang
vô hình trở lại Sài Gòn mà trừ Tâm ra không một ai hay biết.
Người đầu tiên nhận ra tâm
trạng Tâm là chồng tâm – Anh nói, vào bữa ăn trưa, lời lẽ có vẻ khôi hài nhưng
giọng thì rất trang nghiêm khiến Tâm chột dạ, có cảm tưởng như mình là kẻ bị
bắt quả tang đang có mưu đồ đen tối:
- Coi mẹ bay kìa, ủ dột
trông thấy! Đi chơi lần này về sao không vui vẻ, phấn chấn như lần đầu gặp
thầy, gặp bạn!
Tâm làm như không nghe, cắm
cúi và cơm. Người chồng quay sang các con:
- Sao, tụi bay có ý kiến gì
không? Ba nhận xét đúng không? – Không đợi các con góp ý, anh tiếp, giọng lần
này trầm bổng như kép cải lương:
- Phu nhân! Nàng có điều chi
bận lòng hãy thổ lộ cùng ta, đừng có ôm sầu chuốc thảm một mình, không tốt! –
lại quay sang lũ con – Sao các con cũng không nói gì cả vậy? Hay là ba đã nói
sai chăng?
Một đứa rụt rè lên tiếng:
- Dạ không! Ba đâu có nói
sai. Con cũng thấy như ba mà… không dám nói ra sợ mẹ la.
- Dạ, thưa ba, con cũng vậy
đó, ba! – Đứa thứ hai phụ họa.
- Chắc là ngoài đó biển có
sóng lớn, mẹ tắm không được nên mẹ buồn mẹ bỏ về sớm đó ba.
Thấy các em phát biểu khí
thế quá, chị cả góp ý luôn:
- Không phải đâu, chị nghĩ…
à con nghĩ là… là dì Kính đau ốm chi đây?
- Không! Em đoán chắc là
thầy của mẹ bị…
Người mẹ quay phắt lại,
trừng mắt, hỏi:
- Thầy của mẹ bị… gì? Nói mau!
Trước tia nhìn giận dữ của
mẹ, cậu con trai lớn – vốn ít lời – càng thêm lúng túng. Mẹ cậu lại hỏi dồn:
- Thầy của mẹ bị gì? Sao
không chịu nói trắng ra?
Cậu con im bặt, cậu vừa nhớ
ra mẹ cậu rất kiêng nói điều không lành, nhất là điều không lành về người thầy
đầu tiên của mẹ. Người mẹ buông một câu với giọng hằn học, ít thấy:
- Cha con các người rất độc
ác, lúc nào cũng tìm cách chế giễu người khác để mua vui.
Dứt lời người mẹ buông đũa
đứng lên. Chồng con Tâm đều ngạc nhiên, riêng người đàn ông không chỉ ngạc
nhiên mà còn tức giận, anh nói với các con : “Mẹ tụi bay càng già càng rắc
rối”.
Con gái lớn chống chế:
- Chắc mẹ con mệt, ba đừng
để ý!
Không ai biết chỉ vì hai
tiếng “phu nhân”. Vì hai tiếng ấy nhắc Tâm…
MINH QUÂN
Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 234, ra ngày 1-5-1975 (chưa phát hành)