1.
Tâm với Kính là đôi bạn từ
lúc mới lên bảy. Họ trải qua ba năm học đều đặn từ lớp Đồng ấu, lớp dự bị đến
lớp sơ đẳng của trường làng Khánh Thiện. Họ không lấy gì làm thân nhau, bởi cả
hai cùng ít lời nhau. Khi cả hai đậu sơ học yếu lược – phải vào tận Phan Thiết
dự thi với học trò trường tỉnh – cả hai cùng đậu cao và cùng được học bổng tại
đây. Hè đi qua, cha mẹ đôi bên tìm kiếm hơi khó khăn để có bạn đồng hành cho
con gái đi nhập học. Cả làng Khánh Thiện chỉ có hai đứa con gái thi đậu và được
học bổng, được tiếp tục học hành. Bao nhiêu trò khác đều ở lại lớp ba. Bên con
trai cũng có vài đứa được cái vinh dự ấy. Ở một vùng hẻo lánh như vùng này, sự
học không mấy cần thiết, nhất là đối với con gái cho nên nếu không được học
bổng, chắc cả hai khó mà hòng đeo đuổi học hành tận tỉnh. Con đường Phan Thiết
– Mũi Né tuy đã được hai cụ lớn: quan đầu tỉnh của Nam triều và vị công sứ Pháp khánh
thành khá lâu trước đó nhưng trên thực tế, giao thông vẫn còn nhiều trắc trở,
khó khăn. Cát lún quá sức cho nên xe kéo không chạy được. Người ta dùng hai
cách : thuyền và bộ, dọc theo bãi biển. Ai có tiền thì đi cáng (là một thứ võng
có mui như mui thuyền, hai bên che rèm, do hai phu khiêng, khách nằm trong võng
lắc lư theo nhịp bước). Con đường thật ra chỉ dài trên 20 cây số, nhưng với đầu
óc nhỏ bé của hai đứa thì quả thật diệu vợi, nghìn trùng. Cha mẹ đôi bên đều
bận việc, họ không phải hạng người giàu có để có thể đưa con đi học như kiểu
ông Hoàng trong truyện cổ. Huống chi mùa nhập học năm đó lại nhằm mùa cá rộ. Họ
phải có mặt để đón cá làm nước mắm. Hai đứa con gái đâu đáng cho họ bận tâm hơn
dãy thùng lều nằm chờ cá, muối? Nên sau cùng, hai bên cha mẹ đồng ý thuê chung
một cái cáng kiểu đó để cho hai đứa đi du
học. Kể ra như thế cũng là quá sang trọng và họ thuộc thành phần tiến bộ
của làng, nếu không thì số phận của hai đứa là ở nhà, xếp sách lại, lo cá mắm.
Con gái học nhiều làm chi, vô ích. Học nhiều chỉ tổ sẽ viết thư trai. Học tới
Yếu lược là nhiều, nhiều lắm rồi. Chữ nghĩa không bao giờ giúp người ta no lòng
như cá mắm, gạo thóc. Hai đứa không hẹn mà cùng tranh đấu dữ lắm, bởi chúng đều
là học trò xuất sắc : Kính giỏi nhất một toán, hơn cả bọn con trai cùng lớp.
Tâm thì giỏi luận văn và chính tả (mà hồi đó gọi là Rédaction Annamite và
Dictée).
Tâm còn nhớ khi mặc cả, hai
ông phu khiêng cáng đòi thêm tiền, cha mẹ hai đứa cùng đồng thanh nói:
- Thêm làm chi? Tụi nó đi
học chớ phải đi buôn bán gì? Hai đứa con nít chưa tới 10 tuổi, nhẹ gọn như hai
cái va ly nhỏ… Nếu mấy chú làm khó, thì để tụi nó đi bộ…
Họ chỉ dọa hai người phu
cáng thôi, nhưng hai đứa hí hởn, xin:
- Dạ, để tụi con đi bộ, đi
bộ cũng mau. Tụi con đi được!
Tức thì hai bên cha mẹ trừng
mắt lên, nạt chúng:
- Con nít đừng có chen vô.
Để người lớn tính công chuyện.
Một người phu trả lời thay
bạn:
- Dạ, thì hai đứa nhỏ bằng
hai cái va ly, nhẹ hều chớ sao, tụi tôi đâu có kêu nặng. Mà điều… mà điều hai
cái va ly không có rục rịch, chớ tụi này thì… như hai con dòi, khó khiêng lắm.
Trời ơi! Hai đứa ngó nhau,
cảm thấy bất bình hết sức, người ta thi đậu, có buộc đàng hoàng mà đem so sánh với hai con dòi, tức không? Con dòi
thì danh giá chỗ nào đâu? Hôi hám, gớm ghiếc quá đi!
Sau cùng, giá cả xong xuôi,
hai đứa được lên võng, nằm trở đầu giao chân với nhau, cười khúc khích, lên
đường. Trong cái võng nhỏ hẹp đó, còn có thêm hai cái va ly, hành trang của
chúng mà vẫn không chật chội gì. Nhờ con nước ròng vào buổi sáng, nên hai đứa
không phải thức giấc từ khuya, chúng rất vững lòng. Khởi hành lúc trời vừa rựng
sáng, chúng cảm thấy gần nhau, thấy hối hận đã không thân nhau sớm hơn, cùng
hứa hẹn với nhau là sẽ đem vinh dự về cho làng Khánh Thiện. Và chúng chợt nhớ
lại cái ngày hai vị quan lớn, một ông tây cao dễ sợ và một ông An nam hiền
lành, mặc áo rộng có bông xanh to bằng cái bát ra tận trường làng, vò đầu chúng
– vinh dự hiếm có – và còn đãi cả trường một bữa bún, cari, nước li-mô-nát sủi
bọt, tê tê ở đầu lưỡi khi nhấp đến. Mấy ông làng khăn đóng áo dài mà phải trải
chiếu trên thềm đình, dọn cho chúng ăn. Chúng cùng sắp hàng và đồng thanh hát
bài ca ngợi công lao hai cụ, do một tác giả “dân vận” nào đó dựa vào điệu cũ
đặt lời mới, khá hay ho.
Hai đứa nảy ra sáng kiến,
cùng hát lại bài hát đó. Hát rằng:
- Muôn đội ơn lòng,
Hai cụ đồng tâm.
Mở con đường mới
Tiện nẻo giao thông
Phan thành – Khánh Thiện
Kìa là kìa ngày trước
Qua mùa nam khó nổi dùng ghe
Sự ra vào trăm bề bất tiện…
Đang hát ngon lành chúng
chợt im. Kính đợi lâu không thấy bạn lên tiếng, bèn hỏi:
- Sao nữa?
- Tao quên rồi.
- Đồ ngu!
- Chớ mày giỏi sao không hát
đi?
Chúng sắp giận nhau, song
nghĩ rằng đường xa, mà kể từ đây chỉ có hai đứa nên chúng cảm thấy cần đoàn kết
tốt hơn. Chúng nằm im, lắng tai. Biển lặng, tiếng rì rào từ xa vọng lại tai
chúng. Tiếng bước chân của hai người phu sào sạo trên cát, có khi họ đi sát mé
biển, dẵm nhằm vũng nước, kêu lên chanh chách vui tai. Trời đứng gió, hai tấm
riềm hai bên võng vẫn phủ kín. Ủa, lạ chưa, người lớn làm như thể chúng là
người đau yếu không bằng. Đột nhiên, hai đứa cùng thấy ngạt thở, tù túng, khó
chịu. Hai đứa năn nỉ:
- Hai chú cho tụi tôi xuống
đi bộ một chút đi! Tội nghiệp tụi tôi! Nóng quá!
- Không được! Cho tụi mày
xuống rồi khi kêu mỏi chân làm sao lên lại? Phải đợi tới Rạng, có chỗ máng cáng
đã.
- Nóng quá, tụi tôi chịu
không nổi…
- Nằm ngon lành như vậy mà
kêu chịu không nổi. Bày đặt! Cho tụi mày xuống rồi rủi ăn cướp tới làm sao?
- Ăn cướp gì ban ngày? Cho
tụi tôi đi bộ, hai chú càng khỏe. Tụi tôi không mỏi chân đâu. Tụi tôi có thể đi
tới Rạng luôn mà.
Hai người phu im lặng đi,
không thèm trả lời, hai đứa tức mình càng rục rịch tợn. Sau cùng họ đành nhượng
bộ. Không có chỗ máng cáng, họ ngồi thụp xuống hạ cáng cho chúng vén riềm, chui
ra. Hai đứa sung sướng quá, cảm ơn và nhảy nhót như hai con chim mới sổ lồng. Hai
người phu cáng nhìn nhau. Hình như họ cũng vui lây…
Nỗi sung sướng tràn ắp,
khiến chúng chỉ mải lo thưởng thức gió mát, cảnh đẹp ở bờ biển mà không hề đặt
câu hỏi vậy chớ con đường của hai cụ khánh thành nó ở đâu, sao chúng phải nằm
lên cáng và phu khiêng chạy lúp xúp theo bờ biển. Theo lời hai người phu thì
nhằm khi nước ròng còn đỡ, chớ nước lớn phải lên động cát đi, khổ lắm. Mặc dù
vậy, chúng vẫn cảm thấy mang ơn hai cụ như thường. Chúng lại hát vang bài ca
tụng công ơn hai cụ lớn.
Cứ chốc chốc, chúng lại phải
chạy theo hai người phu. Họ đi mau quá, còn chúng thì vừa đi vừa hát hỏng, dừng
lại bắt ốc, nghịch nước. Tâm hỏi Kính:
- Mày buồn không?
- Không. Mình đi học mà!
- Sao tao thấy trong cuốn
quốc văn lớp ba tả cảnh biệt ly…
-Tại thằng ra đi đó lớn, nó
mặc áo dài, không thấy sao?
- Ờ, đúng.
- Với lại nó đi ghe, đi ghe
dám chết lắm chứ… còn tụi mình…
Hai đứa nhìn nhau, cười dài,
sung sướng. Chúng đinh ninh sẽ còn cùng đi chung nhiều lần nữa, dịp hè về nhà,
và cùng ra đi ngày nhập học. Chúng sẽ có nhau cho đến lớn… cho đến thành tài,
đem vinh dự về cho làng xã.
Song nghịch cảnh đã chia rẽ
chúng sau ba tháng học chung ở lớp nhì. Ngày Tâm rời Phan Thiết, nó khóc nhòe
mắt, không tìm ra khuôn mặt quen thuộc của Kính trong đám học trò trường Nữ học
lố nhố, mờ mờ trước mắt.
Ba mươi bảy năm qua.
□
Rất nhiều lần Tâm muốn tìm
về làng cũ, nhưng lần nào cũng do dự, không làm được điều ao ước đó. Làm sao
dám chắc rằng Kính vẫn còn ở lại làng? Biết đâu nó không thay tên, đổi họ – hay
lấy tên chồng – biết đâu nó không theo chồng đến một chỗ khác, hay là nó chết
đi rồi? Ba mươi bảy năm! Cả một thời gian dài dặc, đủ cho một đứa trẻ tượng
hình, khôn lớn, lập gia đình và có con lớn hơn số tuổi của đôi bạn rời làng vào
trường tỉnh, buổi sáng năm xưa… Làm sao Tâm đủ can đảm để lủi thủi quay về sau
khi biết sự thật về con bạn bé bỏng ngày xưa?
Nhưng sau cùng, Tâm nhất
định trở về tìm bạn. Thà biết rõ để buồn một lần còn hơn là vướng bận không
nguôi. Tâm không dám đi một mình, Tâm rủ một người bạn cùng đi.
Lạ thay, ngần ấy tháng năm
xa cách, Tâm vẫn nhận ra cảnh cũ, không thay đổi. Vẫn Rạng với vườn dừa xanh
nghịt, vẫn bãi biển thoai thoải quen thuộc cũ. Vẫn đồi cát mênh mông. Có điều
trong trí nhớ Tâm đồi cát khi xưa màu vàng chứ không phải màu gạch cua như bây
giờ. Tâm cố gắng để khỏi kêu lên khi cái xe ì ạch đi ngang qua làng Thiện
Khánh. Sao lại Thiện Khánh? Song Tâm yên lòng ngay nhờ câu nói : “Chưa tới
Khánh Thiện đâu”. Cái xe vẫn ì ạch, khò khè tiến tới. Sau cùng, Tâm và người
bạn xuống xe ở bến, vô chợ hỏi thăm. Tâm xúc động đến run lên khi đi ngang
trường học cũ – giờ được xây cất khang trang nhưng vẫn là chỗ cũ – Tâm không đủ
can đảm để hỏi thăm, không dám nhắc đến tên bạn mình. Tâm đẩy cô bạn tới trước
và chọn một bà hàng vải cỡ trên 50 đoạn giục cô bạn hỏi thay mình. Cô bạn thoạt
tiên ngạc nhiên, gặng:
- Sao lại là tôi hỏi mà
không là chị? Cố nhân của chị mà! Coi kìa…
Nhưng khi nhìn sâu vào mắt
Tâm, cô thấy vẻ bối rối của Tâm, không chỉ bối rối mà còn có sự khẩn thiết, lo
lắng. Cô chợt hiểu : trong khi đi đường, hai người đã nhắc đến một cuốn truyện
ngoại quốc. Vai chính, sau 24 năm ra xứ ngoài làm ăn, bặt tin vị hôn thê. Khi
được trở về vội vã tìm ngay làng cũ, người cũ, thì chỉ còn tìm thấy nấm mộ và
đứa con gái đã lớn bằng người cũ khi mình ra đi. Đó là chuyện nước ngoài, thanh
bình, thịnh trị. Huống hồ là nước ta. Làm sao Tâm không bồn chồn, lo sợ chớ?
Tâm lùi lại, cắn môi, nghẹn
thở, hồi hộp đợi, không chỉ lùi lại mà còn quay cả lưng lại nữa. Cả người Tâm
nóng ran lên, cơ hồ bủn rủn cả tứ chi. Sao mà hai người chuyện trò dài dòng,
lâu đến vậy? Tâm không thể chịu đựng nổi nữa đành quay sang và khi bắt gặp nụ
cười tươi trên môi cô bạn trẻ, tận lúc đó Tâm mới bình tĩnh, thở phào nhẹ nhỏm.
Đúng như Tâm đoán, người bán
vải trên tuổi 50 nên biết rõ về Kính (vả lại trong làng nhỏ, họ rất dễ biết
nhau). Bà ta sốt sắng cho một đứa trẻ dẫn đường hai người khách lạ. Bà bảo nó:
- Đưa hai cô này tới nhà ông
bà già cô Kính nghe, đừng tới nhà cổ, giờ này cổ không có ở nhà đâu.
Với Tâm đó là một phép mầu :
Kính vẫn giữ cái tên cũ, cả tên lẫn họ và trong câu chuyện vắn tắt với bà hàng
vải, Tâm được biết rõ về bạn mình : chồng biệt tích đã trên hai mươi năm, con
trai lớn đã nhập ngũ, con gái nhỏ cũng tặng Kính chức bà ngoại, và Kính hiện
nối nghiệp nhà.
Phút ngạc nhiên qua mau, hai
người nhận ra nhau, mắt sáng lóe, tay nắm tay, họ nhận ra diện mạo có khác
trước kia đôi chút, nhưng tâm hồn họ vẫn nguyên vẹn là tâm hồn hai đứa trẻ của
ba mươi sáu năm trước không thay đổi. 10 phút sau đó, Kính lôi tuột bạn về nhà,
bỏ mặc những gánh cá đang muối dở.
Một người đàn ông đi ngang
trước mặt nhưng mải nói chuyện với bạn, cho đến khi người ấy đi qua, Kính mới
chợt nhớ ra:
- Tâm, mày còn nhớ thằng
Định không? Học cùng lớp mình đó…
- Định nào? Tao chỉ nhớ nhất
là mày, kế đó là thằng Thuận, học giỏi ngang mày, rồi con Tiền, con Cúc…
- Coi, thằng Định… mà tụi
mình ưa ngạo là Tô Định đó…
- À, Tô Định! Nhớ ra rồi. Nó
đâu?
- Nó mới đi ngang trước mặt
mình kìa, mà tao quên chỉ cho mày, thôi để…
- Thong thả, thong thả sẽ
tìm tụi nó. Mày phải cảm ơn cô Hà, cô bạn trẻ của tao, cô đã giúp tao tìm đến
mày đó, Kính ơi!
□
Chuyến đi dài, khó nhọc từ
Sàigòn ra Phan Thiết rồi từ Phan Thiết lên cái xe cọc cạch, vừa rên vừa chạy
trên con đường – đã khánh thành từ 37 năm qua, lúc Kính và Tâm còn nhỏ – hiện
nay đang loang lỗ những ổ gà, làm cho Hà than phiền rằng 23 cây số của chặng
cuối này còn vất vả hơn đoạn đường mấy trăm cây số từ Sàigòn ra Phan thiết.
Giọng nửa đùa nửa thật, Hà ngáp dài sau bữa ăn trưa:
- Thôi, tôi đi ngủ. Hai
người đang sung sướng, còn tôi, tôi quá lẻ loi. Tôi không thể có chỗ đứng giữa
hai người.
Ngã lưng xuống cái ghế vải
xanh vừa được đặt ngay dưới bóng mát của giàn hoa giấy, chỉ năm phút sau, cô
bạn trẻ đã ngáy giòn. Tâm bảo bạn:
- Đó mới thật là một người
sung sướng!
- Ủa, vậy chúng ta không
sung sướng hay sao?
- Chúng ta ư? Cũng sung
sướng chứ, ít nhất là hiện tại. Kính ơi! Mình mừng quá, không dám tưởng tượng
đến sự thật hôm nay, phần nhiều tao chỉ gặp cái đẹp trong giấc ngủ.
- Tao cũng vậy… Này Tâm ơi!
Mày có tưởng tượng được là tao sống một mình trong ngần ấy tháng năm, ngược
xuôi trăm thứ việc, luôn luôn lo lắng…
- Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam, dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.
Tao rất phục mày!
- Cóc khô! Vẫn giở thói văn
hoa hồi lên chín! Tao làm gì dạy con đèn sách nổi! Tụi nó phải đến trường chứ!
Nhưng tao nặng bổn phận hơn thiếu phụ trong chinh phụ ngâm vì còn phải lo lắng
cho một đàn em và… và ông bà già khó tính lắm nghe. Mày thấy đó…
- Khỏi nhắc, tao thấy quá rõ
rồi…
Tâm chợt nhớ đến cái cảnh
buồn cười lúc Tâm và cô bạn trẻ vừa mới đến nhà cha mẹ Kính. Cái nhìn soi bói,
nét mặt nghiêm nghị, lạnh lùng, dù Kính đã suýt soát tuổi 50 và hai người hỏi
thăm con gái cụ cũng là phụ nữ mà hai cụ làm như con gái mới 15, còn hai kẻ lạ
mặt là hai tên sở khanh nổi tiếng. Họ
phải vòng tay lại, lí nhí xin phép hai cụ để đi cùng Kính về nhà… của Kính như
thể là đi đâu xa lắm.
Kính cười bảo bạn:
- Chưa đâu, tối nay mày phải
xin phép ông bà, tao mới được phép qua đây ngủ lại với tụi mày.
- Ủa, vậy mày cất nhà riêng
đây làm chi?
Tâm cao giọng hỏi. Kính
cười:
- Thì cất… để đó, cho tụi
nhỏ, còn tao thì chạy đi, chạy về. Tối phải ngủ bên đó.
- Được, tối tao với cô Hà sẽ
qua xin. Thật là một sự tù túng dễ chịu!
- Mày biết không, nhiều khi
bạn bè cứ chế giễu tao đã già đầu còn sợ cha mẹ nhưng… đâu phải sợ… ông bà già
rồi, phải chìu ông bà, có phải không?
- Rất phải! – Tâm cười vui
vẻ – có cha mẹ để chìu chuộng là một điều sung sướng… nhưng mà liệu mày có thể
xin ông bà đi Sàigòn với tao không? Mày phải thấy các con tao, phải biết chồng
tao, phải biết nhà tao. Tao có một cái nhà vừa phải, cái xe hơi vừa phải…
- Và một tài xế, một tên
bếp…
- Ơ, không! Làm gì có tài
xế, ba tụi nhỏ kiêm luôn chức vụ này. Bộ tưởng tao giàu lắm sao? Tao sẽ nói anh
ấy chở mày đi chơi. Rồi chừng nào con đường Phan Thành – Khánh Thiện này hết ổ
gà, tụi tao sẽ lái xe ra đây đón mày về trong đó, cho thiên hạ ngán.
- Thiên hạ đâu mà ngán? Có
ba con cá mắm nó ngán.
- Ờ, thì cá mắm ngán. Chịu
không? Tao nói thật, tao có nhiều bạn chớ, nhưng chỉ mình mày là bạn, thật sự
là bạn từ lúc nhỏ. Mỗi người bạn có một giá trị riêng đối với mình, nhưng không
bạn nào quí bằng bạn học từ khi mới đánh vần, đúng không?
- Đúng! Nhất là đối với tao.
Vì người khác còn có bạn trên trung học, trên đại học, chớ kiểu tao với mày thì
chỉ có bạn trường làng…
- Ủa, vậy ra mày cũng thôi
học liền sau đó hay sao? Tao tưởng chỉ mình tao có số phận hẩm hiu thôi chớ?
- Mày thậm ngu, tụi mình một
tuổi mà! Với lại nhà có mình tao là con gái, lại gái lớn, học hành chi nhiều?
Phải về giúp đỡ cha mẹ già chớ?
- Phải! Con gái học nhiều chỉ viết
thơ trai. Tao đồng ý. Chữ nghĩa đâu
làm mình no? Cá mắm, gạo cơm mới làm mình no! Chí lý!
- Nhiều khi ta tủi thân hết
sức. Đó mày coi, người ta thành lập hội Ái hữu trường này, hội ái hữu trường
kia, mấy cựu học sinh, cựu sinh viên, người ta… Ngon lành nhất là trường nào có
học trò làm lớn, trường đó có đông Ái Hữu.
Người ta hội họp đông đủ, vui vẻ, nhộn nhịp. Còn tụi mình… chẳng lẽ xách mặt
tới năn nỉ : “Cho tôi vô hội Ái hữu trường mấy anh chị với đi! Tôi thèm quá…”
hay sao?
- Phải! Mình cũng có chút tự
trọng tối thiểu chớ! Làm vậy nhục quá, mất danh tiếng trường Khánh Thiện của
mình sao?
- Nhưng cũng có lối thoát,
tao đang xúc tiến việc thành lập hội Ái hữu trường mình, nay có mày ra đây, tốt
lắm! Ta sẽ kêu Tô Định tới họp liền chiều nay.
Đôi bạn túm vai nhau cười
ngặt nghẽo, vô tư, sung sướng như hai đứa trẻ.
- Mày còn nhớ con Cúc há?
Vui ghê há?
- Tao quên nó sao nổi? Có
lần thầy lớp tư ra bài luận tả trận bóng
tròn, nó cóp ở đâu của anh nó trong Phan Thiết, nó đọc lên làm tao thèm
muốn chết, mà vì tự trọng, với lại coi như nó đại lý độc quyền mấy câu đó, mình
mặt mũi nào sao chép lại, nhưng tới phiên mình nghĩ ra vài câu hay ho khi thầy
bảo viết thư mời người bác họ ăn giỗ nhà
mình, thì nó ăn cắp tức thì, trắng trợn, không chút dè dặt. Gần bốn chục
năm mà tao vẫn nhớ…
- Đâu, đọc tao nghe coi, nếu
mày còn nhớ!
Tâm dặng hắng đọc liền:
- “Người trọng tài thổi còi ra lệnh, hai bên chiến
tướng dàn binh ra trận. Quả bóng tròn như một chiến lợi phẩm quí báu mà đôi bên
chiến sĩ liều chết tranh giành. Tiếng hò reo trợ giúp chiến sĩ nhà từ các hàng
ghế khán giả vang lên từng chập. Có những con tim như ngừng đập, có những cái
chân như cùng chạy…” Quên rồi. Tức
chưa? Cái gì mà “để bảo vệ màu cờ đồng
đội…”
- Thật hay chớ hả mày?
- Quá hay! Còn bài mày nghĩ
ra
- Không có gì đặc biệt, chỉ
có mấy câu : Con xin kính mời bác vui
lòng dời gót ngọc đến nhà ba con, dùng chén rượu lạt.” Suy nghĩ cả buổi mới
được chừng đó mà đọc lên cho nó nghe là nó cóp liền, không do dự.
- Có một lần tao được tấm
bảng danh dự mà vì người lớn không thèm chú ý nên tao sùng, đem vứt trong xó
tủ. Nó tới chơi, kỳ kèo xin cho được. Tao hỏi nó xin làm gì? Vì tên mình chớ
phải tên nó đâu? Mà mình với nó không thân mật tới cái mức nó quí mình, xin cái
bằng chứng mình học giỏi về làm kỷ niệm?
- Mày cho không?
- Chớ để làm gì? Tao lý luận
một mình : “Cất làm gì? Mình đã nhận nó rồi, cất hay bỏ nghĩa lý gì? Nó quí thì
cho nó.” Mấy bữa sau, tao đi chợ ngang nhà nó, nó nhất định kéo tao vô nhà “cho
coi cái này bí mật lắm” và đưa tao lại chỗ bàn học chỉ cho tao cái bảng danh dự
đỏ chóe của tao, đang được lồng kính cẩn thận treo chễm chệ trên tường…
- Ý cha, nó quí mày dữ há?
- Quí cóc khô! Tên tao đã
được tẩy xóa mất tăm, thay vào bốn chữ Huỳnh thị Thu Cúc rất đàng hoàng!
Lần này đôi bạn lại cười
dài, cười bò trên bậc cửa, cười sặc sụa, ầm ỹ làm Hà đang ngáy cũng giật mình.
Cô la lên:
- Hai bà bất lịch sự quá, để
em ngủ chút coi!
- Chưa hết đâu. Khi mình đậu
yếu lược, bữa trường tổ chức phát thưởng, tao được một cái khăn tay bằng vải
phin trắng nõn, 5 cuốn vở Bảo Đại với 5 cây viết chì. Nó xoắn theo bên tao trên
đường về, năn nỉ đổi cho được 5 cuốn vở Bảo Đại của tao. Nó nói : “Thôi mà, chị
em mà! Vở Bảo Đại hay vở lông gà cũng vậy, cũng một trăm trang đâu có ít hơn”…
Tao nói “Vậy thì mày đổi làm chi?” Nó lại năn nỉ : “Tao không được lảnh vở Bảo
Đại má tao sẽ rầy, nói tao học dốt. Tội nghiệp tao mà” nó cứ theo bên mình nài
nỉ hoài, tao chịu không nổi, nên tao đổi 5 vở Bảo Đại quí báu đó lấy 5 vở lông
gà của nó. Nó cảm ơn lia lịa, nhưng đi một đoạn nữa, nó lại nói : “Trò được
viết chì với khăn, tôi không có, cho tôi bớt vài cây viết chì đi! Chị em mà!
Tao thấy cũng phải nên cho nó bớt hai cây viết chì, để lại ba cây thôi. Đến
lượt cái khăn tay. Nó nói “khăn mù soa đem xui xẻo tới cho mình, cho tao đi!”
Con nhỏ mới tham lam làm sao! Tao ghét, không, phải nói là tao khinh hết sức,
nhưng nó cứ tỉnh bơ, lẽo đẽo theo bên mình. Nói đổi chiến thuật : “Hay là mày
cho tao mượn cái khăn, tao đem về nhà cho ba má thấy rồi bữa nào mày đi học
Phan Thiết, tao trả!”
- Rồi sao? Mày cho mượn
không?
- Làm sao từ chối nổi? Có
điều nó không bao giờ trả, tao cũng biết vậy.
Khi nó cầm khăn, vở, giấy đi
rồi, tao chỉ còn biết tự an ủi : “Miễn là mình đã nhận được, đó là phần thưởng
của mình chớ đâu phải của nó” và rồi tao tỉnh ngộ, chợt nhớ những lần nó có
tiền mua bánh tráng, mắm ruốc, mua me, mua ổi thì không bao giờ nó chị em với
mình cả…
- Phải, không bao giờ! Đừng
tưởng chỉ mình mày là nạn nhân của con quỷ Cúc. Có lần nó mượn tao một xu! Cả
năm ròng mới có được một xu. Tưởng tượng đi Tâm! Một xu chứ thường thường thì
chỉ được một vài đồng điếu hay nửa xu là nhiều rồi. Bữa đó được nhiều cá, ba
tao vui nên cho tao trọn một xu. Tao không ăn quà, cứ ngắm nghía hoài rồi sau
cùng lấy dây lưng xâu đồng xu vô. Được hai ba ngày gì đó, con Cúc thấy, vậy là
nó mượn. Cả tuần sau tao mới dám đòi, nó cười cười : “Thôi mà, chị em mà” mất
trọn cả một xu, một gia tài to lớn của tao chớ ít ỏi gì?
- Một xu hồi đó giá trị bao
nhiêu so với bây giờ, hả Kính?
- Không thể nhớ rõ, tao chỉ
nhớ có thể mua được hai hay ba cuốn vở lông gà 100 trang. To ghê không?
- Còn phải nói, quá to, mà
nhà mình thì nghèo. Ủa, vậy chớ thằng cháu tao đi đâu rồi? Mình mải nói chuyện,
quên nó đi chớ!
Chợt nhớ ra thằng con bạn
vắng mặt, Tâm hỏi.
- À, nó đi mua cuốn phim. Nó
nói để mua phim về chụp hình cho dì, quên sao?
- Phải! Tốt lắm. Tao sẽ chụp
hình với mày, ngay trước trường mình, phải canh sao cho rõ ba chữ Trường Khánh
Thiện. Tao sẽ gởi hình đi khắp cho thiên hạ lác mắt…
- Đăng báo không?
- Bậy, đăng báo làm chi? Tao
gởi cho các bạn sau nầy của tao chớ…
Câu chuyện lại lùi về quá
khứ, của năm 1936, 37 xa lắc, xa lơ. Về các thầy giáo của họ, về con các thầy.
Nào V.A.K. trở thành thi sĩ và đi kháng chiến chết năm 1949. Nào T. làm bé một
nhà giàu to, hiện sang lào, con nó đi học bên Mỹ bên Tây. Nào Cúc lấy chồng sĩ
quan và vẫn luôn luôn là con Cúc của trường làng Khánh Thiện. Chắc chắn là nó
vẫn xóa tên người khác trên bảng danh dự họ mà thay tên nó vào, đổi vở lông gà
lấy vở Bảo Đại, mượn tiền và khăn để không bao giờ trả cho khổ chủ. Bây giờ
chắc nó hết huênh hoang về cái xe hơi đít vịt (tức Ford) mà khoe khoang xe
Mercedès hay Fiat gì gì đó.
Đột nhiên Tâm và Kính cùng
im lặng nhìn nhau, khóe mắt họ sáng ngời niềm thích thú và hãnh diện. Điều họ
sung sướng nhất là sau ba mươi bảy năm cách biệt họ lại được gặp nhau, cả hai
đều có cuộc sống thuần lương, không sang cả chi nhưng cũng không nghèo khổ, họ
giữ được bản sắc, truyền thống cũ. Chao ơi! Nếu trong hai đứa có nếp sống như
con bạn cũ có tên loài hoa đẹp đó, liệu người còn lại sẽ ra sao?
Đột nhiên, Tâm tuyên bố:
- Tao muốn tìm thăm các
thầy.
- Chà! Carnot về làng cũ!
Một nữ Carnot!
Tâm đỏ mặt, đấm vào lưng bạn
thùm thụp (vậy ra Kính cũng còn nhớ mộng ước của Tâm ư? Chao, mộng ước của đứa
học trò lên 9! Lúc đó Tâm luôn tuyên bố với các bạn đồng học là mình sẽ trở
thành một Carnot, nhưng còn hơn cả Carnot trong sách giáo khoa thư lớp tư, Tâm
sẽ mang về biếu thầy vô số quà quý giá : một áo dài xuyến đen, một quần vải ba
ga trắng và đôi giày hạ. “Tao sẽ không bao giờ để thầy mang đôi guốc mòn hơn
lưỡi dao với cái áo xuyến trở màu mông mốc nữa. Thầy của Carnot mà!”
Các bạn bu quanh Tâm hỏi
cách phục sức của Tâm khi về làng. Tâm trầm ngâm một giây rồi dõng dạc trả lời:
- Tao sẽ mặc binh phục đỏ,
mang ghệt đàng hoàng. Tao sẽ cỡi ngựa ô, cho tụi mày hay…
Khá ngắt lời Tâm:
- Ủa, vậy mày không đi cáng
sao? Hay đi thuyền, thuyền rồng cũng ngon
lắm chớ?
Mày tưởng tao là thứ gì mà
đi thuyền? Tao ghét thuyền bè, say sóng lắm. Còn đi cáng thì yếu chết đi.
Không, tao sẽ cỡi ngựa. Tụi mày sẽ thấy!)
Kính la lên:
- Coi, sao đánh người ta?
Không phải mày xưng là Carnot sao?
- Thôi, đừng giỡn, chỉ chỗ
các thầy ở cho tao. Mau lên!
- Đừng nóng, bạn! Bạn quên
rằng Carnot đến thăm thầy tại trường sao? (Kính nghiêm giọng lại) nói chơi chớ
thầy L. về Huế từ lâu, thầy Đ. Mất rồi, còn thầy T. thì…
Kính ngừng lại nửa chừng làm
Tâm nóng nảy hỏi dồn:
- Thầy T. thì sao? Hả? Bộ
thầy T…
Tâm ngừng bặt, tuy muốn hỏi “thầy
cũng chết rồi ư?” nhưng nghẹn ngào thốt không ra tiếng, dáng bộ bối rối làm
Kính bật cười:
- Yên chí lớn, thầy chưa
chết, thầy còn đợi mày về thăm đó, Carnot ơi!
Tâm như không để ý giọng pha
trò của bạn, hấp tấp đứng lên, kéo tay Kính:
- Đi! Đưa tao tới nhà thầy
ngay, tao muốn thăm thầy!
- Nắng chết! Giờ này mà thăm
viếng cái gì.
Kính vẫn ỡm ờ làm Tâm càng
sốt ruột, giục giã, một hai đến nhà thầy cho bằng được. Sau cùng Tâm đủng đỉnh
khai ra:
- Thầy ở đâu đây mà gấp,
thầy ở trong Phan Thiết kia, mày ơi!
- Vậy thì tao đi Phan Thiết
liền bây giờ.
- Đừng có điên, ở chơi vài
ngày rồi tao sẽ đưa đi.
Cãi qua cãi lại một hồi, họ
đi đến quyết định là Tâm chỉ ở lại một đêm. Sáng hôm sau đi Phan Thiết liền.
Tâm nôn nả quá nên không thể ở lâu hơn. Kính đã ghi địa chỉ, Tâm có thể tìm
đến. Kính viện đủ cớ để lưu bạn lại : nào biển đẹp, nào cá tươi, nào con trai
Kính đã cho Tô Định hay có Tâm về và
Định hẹn sẽ đến nhà Kính v.v… Giọng cương quyết, Tâm tuyên bố:
- Được rồi! Gác hết mọi cái
lại. Tô Định cũng sẽ gặp sau. Tao về đây cốt để gặp mày, giờ được gặp rồi. Tao
phải tìm thầy. Tao sẽ trở lại đây… Sẽ gặp cá tươi, biển đẹp, Tô Định cũ.
2.
Một năm hơn đã qua, Tâm mới thực hiện được lời hứa trở lại của mình. Tâm không cần ai hướng dẫn nữa. Lần này không phải mục đích tìm thăm bạn mà là chạy trốn Sài Gòn. Lần đầu tiên về đây, niềm vui choán rợp lấy tâm hồn, Tâm không thì giờ đâu mà ngắm cảnh. Bây giờ đây, tuy cả năm qua họ gặp nhau vài bận tại Sài Gòn, nhưng Kính thì vào để bán nước mắm, còn Tâm thì bận việc nhà và dù Tâm đã làm cơm xong, đón Kính về nhà, nhưng Kính chỉ đi vòng từ nhà trên xuống nhà dưới, ra sân, vào bếp, chờ nhìn đủ mặt các con, gặp chồng bạn một lát rồi vợ chồng Tâm phải đưa Kính lên Chợ Lớn. “Cần gì ăn uống? Sai Gòn không phải chỗ để tâm sự, chuyện trò. Sài Gòn là chỗ làm việc, giao thiệp, mua bán. Hãy ra ngoài đó. Tao đợi mày ra! Tao vô đây thì giờ ít lắm, hễ xong việc là về ngay kẻo ba mẹ đợi, hiểu cho tao” Kính nói.
Một năm hơn đã qua, Tâm mới thực hiện được lời hứa trở lại của mình. Tâm không cần ai hướng dẫn nữa. Lần này không phải mục đích tìm thăm bạn mà là chạy trốn Sài Gòn. Lần đầu tiên về đây, niềm vui choán rợp lấy tâm hồn, Tâm không thì giờ đâu mà ngắm cảnh. Bây giờ đây, tuy cả năm qua họ gặp nhau vài bận tại Sài Gòn, nhưng Kính thì vào để bán nước mắm, còn Tâm thì bận việc nhà và dù Tâm đã làm cơm xong, đón Kính về nhà, nhưng Kính chỉ đi vòng từ nhà trên xuống nhà dưới, ra sân, vào bếp, chờ nhìn đủ mặt các con, gặp chồng bạn một lát rồi vợ chồng Tâm phải đưa Kính lên Chợ Lớn. “Cần gì ăn uống? Sai Gòn không phải chỗ để tâm sự, chuyện trò. Sài Gòn là chỗ làm việc, giao thiệp, mua bán. Hãy ra ngoài đó. Tao đợi mày ra! Tao vô đây thì giờ ít lắm, hễ xong việc là về ngay kẻo ba mẹ đợi, hiểu cho tao” Kính nói.
___________________________________________________________________________
Xem tiếp PHẦN II
(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 233, ra ngày 1-4-1975)