CHƯƠNG V
BỨC TRANH
Hơn bẩy giờ sáng, ông Năm
Cầm đi đâu về, cười hề hề bảo vợ đang đứng chờ ở cửa:
- Anh chị Mười lóng rày sang
dữ. Bây giờ còn bầy đặt đi Đà Lạt nghỉ mát nữa cơ đấy. Tôi vừa gặp hai vợ chồng
với thằng con diện quần áo lạnh mới toanh bước lên xe đò đi Đà Lạt…
- Vậy hả? – Người vợ nói rồi
quay sang nhà bên cạnh, hỏi chõ vào trong – Thằng Có có ở trong nhà không đó?
Ba má và anh hai mày đi Đà Lạt rồi hả?
Có mở cửa ra thưa:
- Dạ, ba má và anh hai cháu
mới đi hồi sáng sớm, cháu không biết đi đâu.
- Họ dắt nhau đi Đà Lạt nghỉ
mát đấy – vợ Năm Cầm đáp – Sướng ghê ta! Bác Năm cháu vừa trông thấy họ ở bến
xe. Sao cháu không được đi? Phải ở nhà trông nhà hả? Tội nghiệp thằng nhỏ thế
thì thôi! Làm việc quần quật suốt ngày, quanh năm chí tối mà chẳng được đi chơi
lấy một phút. Chả bù với thằng Tỷ, rong chơi tối ngày!...
Có ậm ừ vâng dạ mấy tiếng xã
giao rồi mặc vội quần áo, lấy xe ra, lễ phép nói với vợ chồng lão Năm Cầm vẫn
còn đứng ba hoa trước cửa:
- Hai bác cho cháu gửi nhà
một lát, cháu ghé Trường Đua một chút xíu cháu về ngay.
- Ờ, ờ, cứ khóa cửa lại cho
chắc ăn. Rồi để bác trông chừng cho, không đứa nào dám phá cửa vào dọn đồ đi
mất đâu mà sợ.
Có lên xe phóng vội đến nhà
Cường báo động:
- Anh Cường ơi! Sáng sớm hôm
nay, họ kéo nhau lên Đà Lạt hết cả rồi. Anh tính sao? Em sợ họ phá vỡ kế hoạch
của mình quá!
Cường bình tĩnh trấn an bạn:
- Yên chí đi! Không có chi
phải lo ngại hết. Để mặc anh đối phó cho.
Nói xong, ngồi vào bàn hí
hoáy thảo một bức điện:
Nguyenthiencan
1782 Phandinhphung Dalat
Mười và vợ con lên tới chiều nay (.) Đề phòng mạo
nhận (.) Nhớ ghi số và ngày khai sanh (.)
BTTB (1)
Cường (./.)
Thảo xong, đưa cho Có và
dặn:
- Có lấy xe phóng lẹ tới Bưu
Điện Trung ương, bên hông nhà thờ Đức Bà, đánh bức điện tín này cho anh Căn đi.
Xong đâu đấy, cứ yên tâm về
nhà chờ anh. Sáng nay, anh được nghỉ hai giờ đầu, nhưng bận chút việc, chừng
tám giờ rưỡi mới lại Có được. Tuyệt đối không có gì đáng lo ngại đâu. Rồi anh
sẽ phân tách cho Có hiểu từng chi tiết…
*
Cường tới đúng tám giờ rưỡi,
không sai một phút. Bao nhiêu lo âu tan biến, Có nhẩy tót ra đón, dắt xe vào
trong nhà.
- Sao, đầu đuôi câu chuyện
ra sao? – Cường hỏi trước khi ngồi xuống ghế.
- Từ bữa anh bói Kiều và bắt
đầu để báo lại, rồi mỗi ngày mỗi để báo lại cho em đều đều, ông bà Mười bèn tập
được thói quen xem báo. Nhất là ông Mười, ông đọc kỹ lắm, không sót chỗ nào.
Thành thử khi anh đăng báo “Nhắn tin tìm cháu”, ổng thấy ngay và chỉ cho bả đọc
đi đọc lại.
Ban ngày, ổng bả bàn tán
những gì em đâu có biết vì còn bận suốt ngày đi làm như anh đã rõ. Ban đêm, đêm
hôm kia, ổng bả bàn soạn lâu lắm, em nghe được hết. Có cả anh Tỷ nữa.
Số là từ ngày cái lều sửa xe
của em đông khách, kiếm được bộn tiền, và nhất là từ ngày em được quen anh, –
ổng bả có vẻ nể anh lắm, – ổng bả đối xử với em có nương tay ít nhiều nên chín
mười giờ tối em đã được nằm một chỗ nghỉ ngơi cho lại sức.
Ổng bả yên trí em đang sức
ăn sức ngủ, đặt mình xuống là ngáy pho pho nên bàn chuyện riêng với nhau chỉ dè
dặt lúc ban đầu. Đến giai đoạn gay cấn, họ thảo luận hăng say quên cả giữ gìn
nên phát thanh khá lớn, em nằm nhà trong nghe rõ mồn một mặc dầu em không cố ý
nghe lỏm.
. . . . . . . . . . . . . .
. . .
- Theo tôi nghĩ – lão Mười
nói – đầu têu vụ này không ai khác hơn là thằng Cường.
- Ông nói thế nghĩa là sao?
– Mụ vợ hỏi.
- Nghĩa là đầu dây mối nhợ
là do thằng Cường chứ còn ai vào đây. Nó quen tụi ở Đà Lạt, tụi này nhờ nó điều
tra, và nó điều tra ra thằng Có nhà này chính là thằng Nguyễn Thiện Cơ. Nó mới
bầy đặt chuyện bói Kiều, đoán Kiều để xúi dục vợ chồng mình buông tha cho thằng
Có. Rồi lại bầy trò mỗi ngày để lại mấy tờ báo. Tức là nó sửa soạn để cho cái
tin đăng báo tìm người nhà đập vào mắt mình.
Người vợ vặn lý sự liền:
- Ông nói vậy khó nghe quá!
Tôi hỏi ông : cậu ấy bầy đặt mấy chuyện đó với mục đích gì? Xin mình buông tha,
mình không buông tha thì làm gì được mình nhỉ? Mách mình bản nhắn tin để làm
gì? Không lẽ để cho mình lượm được một mớ tiền? Liệu ông có chia cho cậu ấy một
đồng xu teng nào không?
- Bà luận vậy cũng có lý –
lão Mười công nhận – Nhưng sao tôi cứ nghi nghi. Nhất là cái bữa bói Kiều. Nào
là “mở cửa cho ra”, nào là “tình nặng, ơn sâu”, cái gì nó cũng cố nói vơ vào…
- Ông cứ nghĩ bậy cho người
ta hoài – người vợ cự nự liền – Thế tôi hỏi ông, kỳ cá ngựa tuần ấy con Phi
Hồng có giật giải không nào? Trúng phong phóc vậy mà ông còn nói kia nói nọ.
- Ối chào! Chẳng qua là chó
ngáp phải ruồi – lão Mười vẫn cố cãi – Bây giờ đến lượt tôi hỏi bà : thằng
Cường khôn lanh như vậy, bộ nó mù tịt không biết gì về vụ thằng Có nhà ta sao?
- Ông sao hay có tật thì
giật mình! Bàn dân thiên hạ biết bao nhiêu người thông minh sáng láng, dễ
thường họ đều bắt buộc phải tỏ tường chuyện bí mật của những người khác hay
sao?
- Nói tóm lại, theo như ý bà
thì thằng Cường không hay biết gì ráo phải không?
- Tôi không biết – người vợ
cãi và lý luận – Tôi chỉ thấy có hai điều : Một là cậu ấy không biết, tức là
cậu ấy vô tình mang một mối lợi lớn lại cho mình. Hai là cậu ấy có biết, nhưng
cậu ấy không xui thằng Có bỏ nhà đi, tức là cậu ấy cố ý tạo điều kiện cho mình
kiếm một mớ đỡ khổ. Đàng nào cậu ấy cũng là người tốt, không có làm hại gì cho
mình nếu không nói là giúp ích cho mình rất nhiều.
- Bà lý sự như vậy cũng được
đi. Nhưng…
Lão Mười bỗng hạ thấp giọng,
Có lắng tai mới nghe rõ:
- Nhưng tôi nói thật cho bà
biết, mình không thể thấp cơ thua trí một thằng bé con được. Dù sao thằng Có
bây giờ cũng là một cây tiền cây bạc của mình, mỗi tháng thâu vô được năm sáu
chục ngàn chứ phải ít ỏi gì cho cam. Dại gì buông nó ra để đổi lấy một trăm
ngàn đồng đền ơn đáp nghĩa. Chi bằng ta cứ… thằng Tỷ… được cả đơn lẫn kép… tha
hồ…
. . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . .
- Em chỉ nghe được đến đó mà
thôi – Có kể tiếp – Đoạn cuối nói nhỏ quá, có cả tiếng bàn cãi của anh Tỷ, em
nghe không rõ nên không tài nào đoán ra họ lập mưu mẹo gì. Mãi sáng sớm hôm nay
nghe ông hàng xóm cho biết tất cả ba người kéo nhau đi Đà Lạt, em mới ngờ rằng
họ định đánh tráo người, đem con ruột của họ thế vào chỗ của em để vừa được
tiền đền ơn, vừa ném được một con chuột chuyên phá phách vào trong cái chĩnh
gạo nếp thật đầy.
- Chính anh cũng liệu như
vậy nên vừa rồi mới bảo em đi đánh dây thép dặn anh Căn đề phòng gian lận đó.
Lão Mười tham lam quá. Làm sao cấy nổi thằng Tỷ vào trong gia đình ấy được. Cái
bản mặt cô hồn và cái tiếng nói khào khào như vịt đực của thằng Tỷ trộn lẫn thế
nào được vào những khuôn mặt hiền lành và giọng nói ấm áp một cách đặc biệt của
gia tộc em!
Tươi hẳn nét mặt, Cường hân
hoan nói tiếp:
- Nhưng xét cho cùng, họ đi
Đà Lạt sáng nay cũng có nhiều cái hay cho chúng ta…
- Lại có chuyện ngược đời đó
nữa sao anh? – Có ngạc nhiên hỏi lại.
- Có chứ sao không? Này nhé,
ông Sỹ, chú em, thú thật không kiếm đâu ra được một bản khai sanh của em. Muốn
nhờ Tòa Tỉnh Kiến Hòa lục giùm cũng không phải chuyện dễ vì không nhớ số và
ngày khai. Nay lão Mười lù lù dẫn xác lên Đà Lạt, nhất định phải xuất trình một
bản khai để làm bằng chứng. Anh đã dặn trong điện tín là phải ghi nhớ số và
ngày khai. Biết rõ số và ngày khai rồi, sau này muốn xin bao nhiêu bản trích
lục mà không được. Mình có khai sanh rồi thì bản khai sanh lão Mười nắm trong
tay bỗng trở nên vô dụng. Như vậy khác nào họ có con dao sắc, bỗng dưng đưa cho
ta nắm đàng chuôi. Đó là một điều lợi thấy rõ.
- Còn điều lợi nào nữa không
anh? – Có nôn nóng hỏi.
- Ờ, còn một điều lợi thứ
hai cũng quan trọng không kém. Trong thư trước, anh Căn báo cho anh biết là em
hiện đang giữ một bức tranh làm chứng tích gia đình. Chuyện
này, khi anh ở Đà lạt, chú em quên không nhắc đến. Em cũng công nhận là có,
nhưng chúng ta không có một lúc nào thật vắng vẻ, thật tự do để mang bức tranh
ấy ra mà xem xét coi có cái gì lạ không. Nay họ đi vắng, tức là họ dành cho
chúng ta một thời cơ thật thuận tiện để làm công việc ấy.
- Anh nhắc bây giờ em mới
nhớ – Có reo lên – Để em vào lấy anh coi.
Đó là một bức tranh hình chữ
nhật, tranh sơn dầu, một bề 30 phân, một bề 40 phân, dường như do một bức tranh
khổ 60x40 cắt đôi ra.
Đề tài trình bầy, không có
gì đặc sắc lắm, thường là đàng khác. Bối cảnh là một ngôi từ đường cổ kính giữa
một vườn hoa rộng mông mênh. Bình diện gần là một hàng rào ngăn cách vườn hoa
với một mảnh rộng trồng các thứ rau, có một con rạch nhỏ chạy ngang suốt từ bên
này sang bên kia bức tranh.
Có hai tay trịnh trọng nâng
bức tranh đưa cho Cường và nói:
- Cậu mợ em trước khi chết
bảo em rằng ba em căn dặn phải giữ cho kỹ bức tranh này để làm dấu tích hầu sau
này anh em ruột thịt nhận được ra nhau. Trong những ngày chạy loạn, em phải kè
kè mang nó đi theo. Ở đây, mới đầu ông Mười mắng không cho treo, sau thấy em kiếm
ra tiền, có lợi cho ổng nhiều nên ổng mặc kệ cho em máng nó ở đầu giường.
Cường ngắm nghía mãi, không
tìm ra dụng ý của những nét vẽ.
- Có bao giờ em tháo tranh
này ra khỏi khung không? – Cường hỏi.
- Dạo chạy loạn ở Huế – Có
đáp – thấy nó cồng kềnh quá, cậu em định tháo bỏ cái khung ra, chỉ cần giữ lấy
bức tranh không cuộn nó lại cho gọn, nhưng không có thì giờ mà tháo nữa. Thét
rồi quen đi. Về đến Saigon, yên rồi, cứ để vậy
treo cho tiện. Không ai có ý tháo ra làm gì nữa.
- Thế bây giờ, ta thử tháo
ra xem có gì lạ không nhé? – Cường đề nghị.
- Dạ, tùy anh.
Tấm ván mỏng ép sau bức
tranh vừa được mở ra, Cường đã vui mừng reo lên:
- Có thế chứ! Giá trị bức
tranh là ở đây này. Ha ha ha…
Có ngạc nhiên chạy lại nhìn,
thấy Cường đã nhẹ nhàng vuốt mép bức tranh phía tay mặt. Thì ra bức tranh chỉ
có ba cạnh phẳng phiu, còn một cạnh thì khúc khuỷu, chỗ nhô ra chỗ thụt vào,
phải gấp lại theo một đường thẳng mới lồng vào khung được. Chỗ gấp ấy đã thành
nếp, nhưng vì gấp ở mặt sau nên coi tranh ở mặt trước không ai để ý.
Nhìn mặt sau bức tranh, thấy
mé bên trái có hai ngón tay mầu đỏ in rõ từng vân. Dưới dấu tay, có ghi ba chữ
: Nguyễn Thiện Cơ.
Mé bên phải có bốn hàng chữ:
Long vỹ xà đ
Can qua xứ xứ
MÃ ĐẦU DƯƠNG
THÂN DẬU NIÊN
Có kinh ngạc kêu lên:
- Trời ơi! Ai ngờ lại còn
những cái kỳ lạ này nữa, thế mà mấy năm nay chả biết gì cả. Nhưng ý nghĩa ra
sao, em không hiểu, anh giảng cho em nghe đi.
- Giản dị quá mà em – Cường
nói – Này nhé, ba em có một bức tranh vẽ một cảnh quen thuộc ở quê nhà. Ông có
hai đứa con trai nên lăn tay và đề tên mỗi đứa ở một bên bức tranh. Giữa bức
tranh, ông viết một bài thơ cổ. Đoạn ông cắt bức tranh ra làm đôi bằng một
đường gẫy để sau này khi ráp hai nửa lại, hễ thấy các đường răng cưa ăn khớp
vào nhau là đúng.
Vì tranh bị cắt đôi nên bài
thơ cũng bị cắt đôi. Do đó em thấy những chữ bị cụt và những câu không có vần.
Thật ra thì bài này có vần có luật đàng hoàng…
Vẫn còn thắc mắc, Có hỏi:
- Nói vậy, đó là một bài thơ
cổ, tức là một bài thơ đã có sẵn từ xưa. Vậy chắc anh thuộc bài thơ ấy?
- Thuộc chứ – Cường đáp –
Đúng ra, đó không phải là một bài thơ thường, mà là bốn câu Sấm của Cụ Trạng
Trình. Bốn câu Sấm này quá phổ biến nên nhiều người thuộc lắm.
- Thế ý nghĩa của nó ra làm
sao anh? – Có hỏi.
- Trạng Trình thấu rõ máy
trời, biết trước những việc xẩy ra mấy trăm năm về sau nhưng không dám tiết lộ
thiên cơ. Bởi vậy Cụ phải gói ghém những điều tiên tri trong những câu thơ bí
ẩn gọi là Sấm. Chỉ khi nào việc xẩy ra rồi, người ta mới thấy là Sấm ứng
nghiệm. Không mấy ai đoán được đúng ý nghĩa của nó trước khi biến cố xẩy ra…
Có thắc mắc hỏi:
- Đã khó khăn bí hiểm như
thế, chả biết ba em còn viết vào bức tranh làm gì? Ai mà hiểu nổi?
Cường giải thích:
- Ba em chỉ mượn hình thức
mấy câu sấm để che mắt những kẻ tò mò. Nó không có ý nghĩa gì về thời thế như
những câu sấm đích thực. Trái lại, nó mang những nghĩa bóng, những nghĩa ẩn mà
người dưng không thể biết được, nhưng người thân thuộc lại có thể đoán ra dễ
dàng.
Anh tin rằng khi ráp bức
tranh của em vào bức tranh của anh Căn, chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa thực sự
của toàn thể bức tranh cũng như của những câu sấm trá hình vậy.
Cường bảo Có trong khi y tần
ngần lật đi lật lại tờ tranh và khe khẽ đọc mấy đoạn thơ cụt ngủn:
- Thôi ráp tranh vào khung
đi, treo trả vào chỗ cũ. Nhớ đừng để ai chú ý đến nó nghe.
Đến giờ đi học, Cường đẩy xe
ra, sắp nhẩy lên yên bỗng sực nhớ ra một việc vội chạy vào bảo Có:
- Khoan, đừng lắp tranh vào
vội. Trưa nay, họ chưa về kịp đâu. Để tan học, anh về nhà lấy máy hình lại đây
chụp ít kiểu mặt trước, mặt sau phòng khi bức tranh vì một lý do nào đó bị thất
lạc…
---------------
(1) BTTB : bắt tay trái bạn
(lối chào thân mật giữa các Hướng Đạo Sinh.)
__________________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG VI