CHƯƠNG IV
NGUYỄN THIỆN CƠ
Trời Đà Lạt về chiều lành
lạnh.
Bước xuống bến xe, thả bộ
trên những con đường tươi mát, du khách khoan khoái cảm thấy chỉ trong khoảng
khắc bỗng rũ sạch hết cát bụi của Saigon oi
bức, luôn cả nỗi mệt nhọc của một chuyến di chuyển dài trên chiếc xe đò chật
chội.
Trong đám du khách buổi
chiều đẹp trời hôm ấy, có ba người vui tươi nhất. Đó là một cặp vợ chồng đứng
tuổi cùng một thiếu niên 16, 17 tuổi, con trai họ. Tất cả súng sính trong những
bộ đồ lạnh mới sắm.
Người chồng, ông Triệu văn
Khoái, một tay tuyệt phích đam mê có hạng đến độ người ta đặt tên cho là Mười
cá ngựa. Người vợ, dĩ nhiên, không ai khác hơn là bà Mười đậu chến. Duy có
người con trai, Triệu văn Tỷ, chúng ta chưa gặp lần nào vì y ít khi có mặt ở
nhà. Trong tuổi học trò, y chỉ cắp sách đến trường cho có lệ. y hãnh diện học
tập ở cái mà y bắt chước người ta mà kêu là “trường đời”. Và thời gian học tập
của y thường là trong giờ giới nghiêm. Kết quả thâu lượm được chỉ có thể đem
khoe với nhau trong đồng bọn vì toàn là những điều cấm kỵ không thể để lọt vào
tai mắt những người có trách nhiệm về an ninh trong đô thành.
Gia đình ba người ấy hớn hở,
mỗi người xây đắp một ngôi lầu mộng trong đầu. Họ càng phấn khởi khi ở trong
quán giải khát, Mười Khoái đã khéo léo gợi chuyện và dò hỏi dân địa phương về
gia thế của ông chủ hãng đồ hộp Kiến Bình.
Chà chà, y tự nhủ, mình vồ
trúng một con mòng mập ú. Mình phỏng đoán chả sai một tí nào, lão ta quả là một
kỹ nghệ gia có máu mặt của cái thị xã đẹp đẽ sang trọng này. Vậy thì moi ra
chừng một triệu đâu có phải là một việc không thực hiện được. Vợ chồng mình mặc
sức tung hoành trong cuộc đỏ đen. Còn thằng nhỏ, một khi đã lọt được vào trong
cái gia đình bề thế này thì có khác chi chuột sa chĩnh gạo, tha hồ mà ăn chơi
cho thỏa thích…
Họ bước vào văn phòng hãng
Kiến Bình đúng lúc ông chủ vừa tiễn xong mấy ông khách tỉnh xa tới đặt hàng.
- Thưa, chúng tôi muốn được
gặp ông Nguyễn Thiện Sỹ - Khoái lễ phép hỏi.
- Dạ, chính tôi đây – ông Sỹ
vui vẻ đáp – Xin mời quý vị vào.
Tất cả an tọa ở phòng khách.
Ông Sỹ tủm tỉm cười nhìn ba người khách lạ có những cặp mắt láo liên, xoi mói.
Ông ân cần mời khách dùng
trà và mở lời:
- Chắc quý vị ở xa tới đặt
hàng?
- Thưa không – Khoái vội đáp
– chúng tôi tới đây vì một lời rao trên báo. Nói cho đúng, vì lời “Nhắn tin tìm
người nhà” của ông chủ.
- Ạ! – Ông Sỹ chỉ ạ lên một
tiếng và ngồi yên chờ đợi.
Ba người khách đều lấy làm
lạ và cụt hứng vì không thấy ông chủ hãng Kiến Bình ngạc nhiên và mừng rỡ chút
nào. Bất giác, Khoái đâm ra lúng túng, một lúc sau mới ngượng ngập vào đề:
- Trong lời rao của ông chủ,
tôi thấy có một vài điều cần được minh xác trước. Ông chủ hứa đền ơn 100.000đ
cho ai chỉ dẫn hay đưa về người cháu của ông chủ mất tích đã bốn năm nay. Lại
cần có bằng chứng xác đáng nữa. Vậy điều thứ nhất, xin ông chủ cho biết thế nào
là bằng chứng xác đáng, hay cái chi được gọi là bằng chứng xác đáng.
- Thưa ông – ông Sỹ từ tốn
trả lời – bằng chứng xác đáng là những giấy tờ liên quan đếncăn cước của cháu
tôi như chứng thư hộ tịch hay chứng tích gia đình.
- Vâng, tôi hiểu. Còn điểm
thứ hai, điểm này hơi khó nói vì dính dáng đến chuyện tiền nong.
- Không sao, xin ông cứ tự
nhiên – ông Sỹ cười nói – Tài thượng phân minh là một điều rất tốt.
- Dạ, vậy tôi xin thành thật
trình bầy. Ông chủ mới hứa đền ơn cho người chỉ dẫn mà không dự liệu đến trường
hợp phải đền bồi phần nào cho người có công nuôi dưỡng cháu ông chủ trong mấy
năm ròng. Nếu trường hợp này đã thực sự xẩy ra thì ông chủ tính sao?
- Ông nói có lý. Nếu có vị
ân nhân nào đã nuôi nấng cháu tôi mấy năm nay, dậy dỗ cháu và cho cháu ăn học
đàng hoàng thì tôi mang ơn ấy rất nặng và quả tình không biết lấy chi báo đáp
cho vừa.
Nói một cách khác, ơn nghĩa
là chuyện tình cảm, nó vô giá nên không thể đo lường bằng tiền bạc được.
- Thế nhưng giả dụ có người
muốn yêu cầu ông chủ đánh giá chuyện ấy bằng tiền bạc trước khi cho cháu về với
ông chủ thì ông chủ tính sao?
- Trong trường hợp đó – ông
Sỹ đáp – tôi sẽ xin vị ấy tự ý định giá trước. Tôi tự xét mình kham được đến
đâu sẽ thưa chuyện đến đó.
Khoái thấy đã đến lúc ra một
đòn quyết liệt:
- Vâng – y nói – chúng tôi
xin lãnh ý. Và chúng tôi xin tự giới thiệu. Vợ chồng tôi chính là những người
có cơ duyên gặp cháu trong ngày chạy loạn ở Cố Đô, cái sống với cái chết chỉ
cách nhau trong gang tấc. Về Saigon, cái ăn cái uống tốn kém chẳng nói làm gì.
Chỉ tội một nỗi vì bận bịu có cháu nhỏ bên mình, vướng tay bận chân nên mấy năm
nay chúng tôi buôn bán không được hanh thông như trước. Từ chỗ túng thiếu đi
đến chỗ nợ nần thật quả không có mấy hồi. Bởi thế chúng tôi hiện cần phải có
một số tiền một triệu đồng mới đủ để trang trải. Thưa ông chủ, có được như vậy
chúng tôi mới dám đưa cháu về hầu ông bà chủ được.
Ông chủ thở dài đáp:
- À, thì ra là thế! Nhưng
trước khi bàn kỹ điểm thứ hai này, tôi xin mạn phép trở lại điểm thứ nhất của
ông trước đã. Ông có thể cho xem qua các bằng chứng được không ạ?
- Được chứ – Khoái vui vẻ
đáp trong khi mở cặp lấy một tờ giấy ra đưa cho ông Sỹ.
Đó là bản trích lục khai
sanh của Nguyễn Thiện Cơ.
Ông Sỹ chăm chú đọc từ đầu
đến cuối, mỗi giòng mỗi gật đầu. Chủ ý của ông là nhớ cho kỹ số hiệu và ngày
đăng ký khai sanh.
Xem xong, ông thong thả gập
đôi tờ giấy lại, đưa trả cho Khoái và nói:
- Thưa ông, bản khai sanh
này đúng rồi. Xin ông cho coi nốt chút chứng tích gia đình.
- Nghĩa là… – Khoái bối rối
hỏi lại – nghĩa là…, xin lỗi, ông chủ nói sao, tôi chưa được hiểu?
- Thưa ông, chứng tích gia
đình là bức tranh anh tôi giao cho cháu giữ làm dấu tích đề phòng sau này anh
em chúng nó dễ nhận ra nhau.
- À, phải – Khoái trả lời,
mắt sáng lên – Tôi nhớ ra rồi, bức tranh vẽ phong cảnh nhà quê mà tôi thấy cháu
khư khư đeo ở sau lưng cùng với bọc quần áo trong những ngày chạy loạn. Xong
rồi! Bức tranh ấy, tôi có. Tôi vẫn cho treo ở trong phòng ngủ của cháu. Tôi sẽ
cho mang lên đây giao cho ông chủ khi cần.
- Vâng – ông Sỹ tiếp lời –
điểm thứ nhất thế là tạm coi như đã giải quyết. Giờ ta qua điểm thứ hai… Chả
nói giấu gì ông, ba má thằng Cơ qua đời từ lâu, để lại hai thằng con trai nhưng
không có một chút di sản nào cho chúng nó cả. Hiện tôi đang nuôi anh thằng Cơ
là thằng Căn ở đây. Phần gia tài của riêng tôi cũng chả được bao lăm, chạy vạy
lắm mới mở được cái hãng nhỏ bé này làm kế sinh nhai. Nay ông đòi những một
triệu đồng thì thật quả không làm sao chạy được. Xin ông thông cảm và thể tình
nghĩ lại giùm cho.
- Khó lắm, thưa ông chủ –
Khoái giở giọng cứng rắn – Chúng tôi nông cạn chỉ biết nghĩ sao thì thưa đúng y
như vậy mà thôi. Còn chấp thuận hay không, cái đó hoàn toàn tùy ở như lượng của
ông chú… Nhưng theo chúng tôi thiển nghĩ, số tiền đó có to là to đối với chúng
tôi, chứ đối với ông chủ thì, xin lỗi, ăn nhằm gì…
Ông Sỹ cười lạt, điềm nhiên
đáp:
- Tôi nói thế này khí không
phải, xin ông bà Mười đừng buồn…
Vợ chồng con cái lão Khoái
giật mình đánh thót một cái, tự hỏi : Lạ quá! Mình chưa giới thiệu họ tên, sao
lão ta đã biết tỏ tường như vậy kìa?
- Cháu tôi nó cũng đã lớn –
ông Sỹ ung dung nói tiếp – khi ông đọc bài “Nhắn tin” của tôi, có thể nó cũng
đã thấy bài ấy rồi. Trước sau, nó vẫn biết nó là ai vì khi bắt đầu xa nhà, nó
đã lên sáu và đã đi học nên bắt buộc phải thuộc tất cả những gì cần thiết ghi
trong giấy khai sanh của nó. Sở dĩ nó không nỡ tự động lên đây kiếm tôi, có lẽ
vì nó muốn lưu lại một chút tình với ông bà cho có thủy có chung. Nói xin lỗi,
nếu cháu nóng lòng gặp lại những người ruột thịt mà cứ tự ý lên đây dù không
được ông thuận tình, thiết tưởng ông cũng khó có lý do vững chắc để gây rối cho
chúng tôi được. Là vì nếu ông có một bản khai sanh của cháu, – tôi xin nhấn
mạnh : ông có một bản trong khi chúng tôi có nhiều bản – thì mảnh giấy đó không
đủ để chứng minh bất cứ liên hệ huyết thống nào giữa ông bà và cháu Cơ nhà tôi.
Nói gần nói xa chẳng qua nói
thật. Cháu nó sở dĩ muốn lưu lại một chút tình với ông bà là cốt để cho chúng
tôi có dịp đền ơn ông bà đã nuôi dưỡng mấy năm nay. Nói ông bà bỏ lỗi, dù trong
thời gian ấy ông bà có đối xử với cháu nó thế nào đi chăng nữa, chúng tôi vẫn
có bổn phận phải coi nghĩa cử của ông bà thâu nhận cháu trong thời gian qua là
cái ơn trọng mà chúng tôi cần phải báo đáp.
Chúng tôi vừa thương cháu mồ
côi mồ cút, vừa nể lòng ông bà không quản ngại đường xá xa xôi mà lên đây nên
chúng tôi xin cố gắng chu biện đủ 300.000đ. đưa hầu ông bà. Quả tình, sức chúng
tôi chỉ cố được đến mức đó, xin ông bà lượng tình hiểu cho.
Mười Khoái suy nghĩ thật
nhanh : Lão ta có lý, mình giữ được một bản khai sanh thật chả đi đến đâu. Nếu
không giải quyết gấp rút, thằng nhãi con sốt ruột rông mất thì vợ chồng mình
chỉ còn có nước hút gió chứ kiện cáo gì ai bây giờ? Con dao, họ đã nắm đàng
chuôi mất rồi!
Và y cương quyết đánh một
ván bài thật liều, ván bài y đã cùng với vợ con xếp sẵn từ lúc ở nhà.
- Vâng – y nói – ông chủ đã
dậy chí tình như vậy, chúng tôi chẳng lẽ không tuân. Thôi thì một triệu là đâu,
mà ba trăm ngàn là đâu! Chúng ta lấy tình nghĩa đối xử với nhau làm trọng, há
câu nệ đồng tiền nhiều ít hay sao? Được, được, ông chủ đưa ba trăm ngàn thôi
cũng được. Hà hà…
Rồi y đứng dậy, vỗ vai thằng
con trai lúc đó đã dọn sẵn một bộ mặt ngây thơ.
- Thưa ông chủ – y trịnh trọng
nói – để tỏ lòng tin cậy nơi ông chủ tôi xin dành quyền ưu tiên cho tình huyết
mạch. Đó mới là cái chính, còn tiền nong chỉ là cái phụ… Đây, cháu ruột của ông
chủ đây, cháu Nguyễn Thiện Cơ đây!
Y đẩy thằng con trai:
- Lại mừng chú con đi, con!
Như cái máy, thằng tỷ tiến
tới, khoanh tay cúi đầu ấp úng:
- Thưa chú…
- Khoan đã – bà Sỹ đứng sau
tấm bình phong vội bước ra can thiệp – Tôi sợ cậu này…
Ông Sỹ mỉm cười, đưa mắt
ngăn lại:
- Bà gọi thằng Căn ra đây
cho tôi.
- Thưa chú, con đây.
Thằng Căn vừa chạy ra vừa
nói, khiến cả ba người khách choáng hồn tưởng đâu như thằng Có vừa ở Saigon bay tới.
Thôi thế là bao nhiêu hy
vọng tan tành, họ đắng cay tự nhủ. Trời ơi! Sao hai đứa lại giống nhau được đến
thế nhỉ?
Ông Sỹ khoan thai nói, gỡ
thẹn cho khách:
- Ý hẳn ông bà định thử
chúng tôi một chút chứ gì? Thưa, không thể lẫn được đâu, ông bà ạ.
Và ông mau mắn giới thiệu:
- Đây là cháu Nguyễn Thiện
Căn, anh ruột của cháu Nguyễn Thiện Cơ. Hai anh em nó giống nhau như đúc. Người
ta thường kêu là “trộn cũng không lẫn”. Chẳng những giống ở hình dáng, ở khuôn
mặt, tiếng nói của chúng cũng giống nhau nữa. Thành thử, nếu vạn nhất, thất lạc
hết những chứng tích gia đình, chúng vẫn có thể nhận ra nhau một cách dễ dàng
được. Tuy nhiên, nói thì nói vậy, chứ có đầy đủ những chứng tích bao giờ chả
hơn, có phải không, ông Mười?
Ngượng chín người, Mười
Khoái vội kiếm lời chống chế:
- Dạ, có chứng tích bao giờ
cũng vẫn hơn chứ ạ. Biết đâu sau này nó lại còn được dùng vào những việc khác,
hữu ích hơn.
Nói cho ngay, khi vừa tới
đây, nghe tiếng nói câu cười của ông chủ, tôi đã nhận thấy ngay là không khác
thằng cháu Thiện Cơ một chút nào. Bèn nẩy ra ý định thử xem ông chủ có thể vì
nôn nả gặp cháu mà lầm lạc trong việc nghe tiếng gọi của tình máu mủ hay chăng.
Ngưng một giây, y nói tiếp:
- Nhưng tôi cũng xin thưa
ngay để ông chủ được yên tâm. Cháu Thiện Cơ hiện ở nhà tôi và bức tranh hiện
vẫn trưng trong phòng ngủ của cháu.
Rồi y vội vã kết thúc:
- Thôi, bây giờ câu chuyện
coi như đã ngã ngũ. Chúng tôi xin phép ông chủ ra về. Mai mốt chúng tôi xin đưa
cháu Thiện Cơ lên đây cho ông bà cùng với bức tranh.
Ông Sỹ cũng niềm nở không
kém:
- Vâng, về phần chúng tôi,
cũng phải thu xếp ngay cho đủ số ba trăm ngàn như đã hứa với ông bà. Chúng tôi
không để ông bà thiệt thòi đâu mà ngại…
__________________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG V