Chủ Nhật, 13 tháng 3, 2016

Vàng Tháp Hời (V)


Người khách của ông Cửu Dật – vị giáo sư khảo cổ – đặt bát nước chè tươi xuống tấm phản gõ, rồi nói:

- Sau khi biết nàng Phô-Mai đã chết ở dưới chân thành, nhà vua đã làm một bài thơ dài cho khắc lên tấm bia lớn đặt giữa hai tháp. Rất tiếc, tôi không nhớ trọn, chỉ còn mang máng mấy câu mà tôi diễn dịch như sau:

Có những thần linh cho đến trọn đời ta không được thấy,

Có những con người dẫu đến trọn đời ta không được yêu.

Như con sông kia chảy mãi về Đông ngọn nước xuôi chiều

Thấy những sườn non tươi tốt nhưng không bao giờ gần gũi

Hạnh phúc mơ hồ như trong đôi tay chới với

Vói xuống lòng sông ôm lấy trời xa.

Mối tình vô biên chôn sâu dưới đáy lòng ta

Và niềm tin tưởng cao siêu đặt trên chót đỉnh.

Những gì quí nhất của muôn đời yêu kính,

Ta gởi trong ta cho đến bao giờ?...

Vị giáo sư cúi nhìn trong lòng bát nước chỉ còn chất cặn, giọng nói trở nên chán nản:

- Có lẽ cụ đã đọc thấy dòng chữ “những gì quí nhất để trên chót đỉnh và chôn dưới đáy sâu” là do những mảnh bia vụn ghép lại tình cờ đôi ý trong mấy câu thơ cuối cùng. Từ lâu tôi theo cổ sử lưu truyền, những muốn tìm tấm bia ấy, nhưng bao công trình trong các tháp xưa đã bị phá hủy bằng những bàn tay đói vàng. Ở đâu người ta cũng chỉ nhìn thấy tấm lòng trục lợi của mình. Hết cả nghệ thuật, hết cả sinh hoạt tinh thần, hết cả ý nghĩa lịch sử, mà chỉ toàn là lòng tham, toàn là thèm muốn, chỉ là giày xéo cho đổ vỡ, phá hoại cho tiêu điều. Cụ xem, cả đến ngôi tháp lạ lùng, vĩ đại, ngày nay cũng mất nóc rồi! Tảng đá thiêng liêng đặt ở trên cao chẳng còn nữa rồi! Có lẽ người ta nghĩ nó chứa toàn vàng ngọc! Mất tảng đá ấy, ngôi tháp làm sao chịu đựng gió mưa công phá hàng ngày cũng như mất hẳn niềm tin con người làm sao đương đầu thắng lợi với những gian nguy? Những khối óc mờ ám vì điều tư lợi không thấy xa hơn tầm ruột của mình, nói gì đến cái cao siêu?

Vị giáo sư đứng dậy, lệt bệt kéo giày ra sân, đôi tay chống lên cạnh sườn, nhíu mắt nhìn về ngõ tháp.

Riêng ông Cửu Dật gần như không còn nghĩ ngợi gì nữa. Ông ngồi lặng yên, đầu óc trống rỗng, con mắt duy nhất lờ đờ nhìn vào khoảng trống trước mặt như thấy một màu hoàng hôn chìm xuống dần dần, xóa đen cả cuộc đời mình.

Mùa đông năm Bính Thìn, một trận bão lớn ngoài khơi Đông Hải tràn vào bờ bể miền Trung, lông lốc quay cuồng suốt mấy ngày liền. Ngọn gió đem mưa thổi về mạn núi tới tấp, cả miền Thăng Bình chìm sâu trong sự vùi dập tơi bời.

Dòng sông Ly-Ly mực nước tràn dâng cuồn cuộn lôi theo muôn lớp rác rều và cầu Ông Triệu, ở dưới ao Vuông, ồ ạt trôi đi với dòng thác lũ. Gió chuyển từng luồng mãnh liệt bẻ cong rừng cốc Vĩnh Huy, quạt mạnh từng cơn, xô rạt cây rừng Đồng Dương, xoáy vào lòng ngôi Tháp Mẹ, hú lên những tiếng rất dài như sự khiếp hãi bốc dậy từ trong ruột tháp.

Suốt mấy ngày mưa, ông Cửu nằm ốm li bì. Ông nghe tiếng gió gầm thét ngoài rừng, rít lên trên mái tranh nhà và qua những giọng hú dài vẳng lại, tưởng như có những hồn oan chỗi dậy gọi mình. Ông chìm trong cơn mê sảng đầy bao ác mộng hãi hùng và co quắp lại như một cành khô sắp mục.

Ngọn gió thổi nhanh vào lúc nửa đêm, lồng lộn trên khắp núi rừng miền Thượng Thăng Bình và bất thình lình xoáy sâu vào lòng Tháp Mẹ, vụt bốc lên cao. Tiếng hú ghê hồn bốc dậy  và một tiếng ầm dữ dội, chấn động cả một vùng xa : Tháp Mẹ sụp ngã tan tành, biến thành một khối ngổn ngang, vung vãi đá gạch bốn bề phủ che mấy lớp bờ thành vây bọc.

Nhiều cụ già ở chợ Việt An, cách xa chỗ tháp trên mười cây số, mất ngủ trong đêm mưa gió, bỗng ngồi choàng dậy, một tay che lấy ngọn đèn chực tắt, một tay hứng lấy bờ tai ngơ ngác khi nghe tiếng động lạ lùng theo gió dội về.

Giữa phút mê man, ông Cửu bỗng kêu rú lên, hai tay gầy guộc quờ quạng trên không, ú ớ vài lời mê sảng rồi ông giẫy giụa yếu ớt như đêm khuya nào Ta-Khốt đã cố vẫy vùng tuyệt vọng để nuối cõi đời.

Bên ngoài gió vẫn kêu rú liên hồi, lồng lộn điên cuồng trên các rừng cây.

Bà Cửu đưa tay vuốt lấy mắt chồng rồi bưng mặt khóc, tiếng khóc khô khan mệt nhọc lịm dần ở trong cổ họng già nua.

*

Ngày nay, du khách đến miền Đồng Dương chỉ thấy trơ lại một ngôi tháp nhỏ tiêu điều. Về ngôi tháp lớn, chỉ là gạch vụn hoang tàn. Về ngôi giếng cổ, chỉ là hố sâu chen chúc những loài cỏ dại. Ngôi giếng bắt đầu cạn nước và khô kiệt dần, từ lâu, khi những người dân quanh vùng lặn xuống mò cua bắt cá ở ao Vuông bỗng nghe mùi tanh khủng khiếp của những thịt người  vữa nát.


12-1960     
VŨ HẠNH   
oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>