Chuyện này xẩy ra cách đây khá lâu, khi làng Đồng-Dương
còn nguyên hai ngọn Tháp Mẹ, Tháp Con.
Hai tháp nằm cách con đường
quốc lộ khoảng mười cây số, giữa vùng đồi núi miền thượng quận Thăng Bình, tỉnh
Quảng Nam,
thuộc trong khu vực của một kinh đô Chiêm Thành (*) ngày xưa.
Phía bắc hai tháp, cách một
cây số, có sông Ly Ly nước chảy uốn khúc, quanh năm rù rì tuôn qua các ghềnh đá
lớn nhấp nhô rồi thu hẹp dòng len lỏi giữa những bãi cát vàng hau để tìm ra bể.
Phía nam là những ruộng đồng xen lẫn núi đồi và phía tây dẫn đến Việt An, một
chợ miền nguồn, quanh năm có những trái cây chín ngọt và những cô gái giỏi nghề
bán buôn với một nụ cười luôn thắm, đôi má luôn hồng. Phía đông, cách vài cây
số, bên phải con đàng cái quan nối từ miền biển lên nguồn có một cái ao rộng
lờn, vuông vắn – tục gọi ao Vuông – bốn mùa không cạn, có lẽ là nơi vua Chiêm
Thành lấy đất xây đắp đền đài và biến thành chỗ hằng năm tổ chức những lễ đua
thuyền trong ngày hội lớn. Trước khi chuyện này xảy ra, nhiều người bảo rằng ao
Vuông vẫn được thông thương với ngôi giếng cổ nằm trong khu vực hai tháp bằng
một mạch nước chảy ngầm, và bỏ quả bưởi xuống giếng thì nửa buổi sau có thể
thấy nó bồng bềnh nổi trên mặt ao. Gần chung quanh tháp là ruộng gò và đồi cây
cằn cỗi, dân cư thưa thớt. Chỉ có gia đình Cửu Dật ở trong một vườn tre bọc kín
là gần tháp nhất. Ông Dật, họ Trà, vốn là dòng dõi người Hời đã được Việt hóa
trải qua nhiều đời, nhưng vì sống mãi bên những ngôi tháp luôn luôn nhắc nhở
nguồn gốc của mình nên ông vẫn giữ cốt dáng thể chất, tinh thần dễ thấy trong
những mẫu người Chiêm Thành chính thống còn lại ngày nay. Ông ít nói, đăm
chiêu, thu hình lại trong thế tự vệ thường trực đối với cuộc đời, có vẻ lạc
loài giữa những lớp người đồng thời và
những tượng đá rêu phong đứng ngồi trầm mặc trong một khu rừng hoang vắng.
Không hiểu ở nơi lòng ông nỗi niềm vong quốc có khuấy động gì chăng nhưng một
mối băn khoăn đã giày vò ông từ thời còn trẻ là sự khám phá những món ngọc vàng
ẩn tàng ở trong cổ tháp. Thực ra sự khát thèm những của quí vẫn nung nấu bao
đời tiền bối ông Cửu Dật nhưng trước di tích cổ đại được thêu dệt bằng những
chuyện ma quái hoang đường, mọi người đều phải đặt lòng tham vàng dưới sự tôn
kính. Nhưng đến ông Cửu, con người đã từng theo hầu quan trên xông pha trận mạc
thì tượng đá mất nhiều tính chất linh thiêng. Ông đã bỏ mất nhiều năm trong
thời còn trẻ để đào xới tìm tòi. Nhiều pho tượng như thần Ga-Nơ-Xa đã bị ông chém cụt chiếc vòi voi và
bẻ gảy bốn tay để đòi chất ngọc, tượng thần Xi-va bị ông bửa nát đế chân to lớn
để hỏi chất vàng và những nàng vũ nữ Áp-Xa-Ra duyên dáng cũng bị ông khoét bụng
để tìm châu báu.
Những cuộc tìm kiếm lâu dài
ấy không đem lại gì cho ông Cửu Dật nhưng đã mang đi gần hết sinh lực của buổi
xuân thời. Mãi khi về già, liệu thấy sức mình đã kiệt, ông mới tiết lộ cho
nhiều trai trẻ họ hàng biết rằng, theo những di chúc khẩu truyền, thì còn một
món vàng ngọc quí nhất giấu trong miệng con rắn đá chôn sâu dưới một gốc cây
duối trắng. Cây duối trắng trở thành mối ám ảnh giàu sang cho nhiều trai trẻ,
nhưng bất kỳ đâu họ cũng chỉ tìm gặp những cụm duối xanh chĩa những cành lá
tươi tốt ở trên lớp đất sỏi cằn. Đến khi người Pháp đem những chiếc xe to đến
chở những pho tượng lớn nhất – những pho tượng mà ông Cửu Dật không có đủ sức
phá hủy – mang về bảo tàng viện Đà Nẵng và Hà Nội thì ông Cửu Dật gần như tuyệt
vọng hẳn rồi. Họa hoằn, chiều đến, ông mới bước chân vào rừng, ngước mắt nhìn
ngôi Tháp Mẹ cao vút sừng sững che rợp bóng lớn lên ngọn Tháp Con kiên nhẫn
đứng kề, rồi ông đảo mắt một vòng lướt qua rất mau trên các tượng đá, như không
dám nhìn thật kỹ nhũng cái hình thù long lở vì đôi bàn tay sục sạo của ông.
*
Một chiều cuối thu năm Dậu,
hai người ăn mày rách rưới, đen đủi, đến tháp Đồng Dương.
Họ đến đúng vào lúc nào, ban
đầu không ai được biết. Mấy hôm liền, hai đứa cháu trai của ông Cửu Dật chăn bò
thấy hai bóng người lò rò ở chung quanh tháp, rủ nhau lén đến nhìn xem mới rõ
một già một trẻ suốt ngày cặm cụi tìm đọc các bia đá cũ ngổn ngang trong các
lùm cây, bờ thành long lở. Khi chúng kể lại thì bà Cửu Dật vỗ đùi cái độp, sực
nhớ ra rằng cách đấy năm hôm, đi mua mắm muối ở chợ Được về, bà gặp trên đường
hai người ăn xin – đúng hệt hình dạng như bọn trẻ nói – lơ lớ hỏi bà con đường
về tháp. Ông Cửu nghe xong, có vẻ suy nghĩ nhiều lắm, vê mãi mấy sợi râu cằm
lưa thưa và giương cặp mắt già nua trừng trừng nhìn vào bát nước chè đen quên
uống đã nguội từ lâu, dần dần tan đi những lớp bọt vàng.
Đêm ấy, trái với lệ thường, ông
Cửu hối bảo trong nhà ngủ sớm và ông đi nằm trước cả mọi người. Rất khuya, ông
vẫn nằm yên, đếm từng giấc ngủ của những người nhà và đợi tiếng ngáy của họ trở
nên đều đặn. Ở ngoài, vừng trăng mười tám lên cao, chiếu lọt qua các kẽ hở phên
tre những vệt sáng dài. Biết chắc mọi người đã ngủ say, ông mới rón rén trở
dậy, rút lấy chiếc dáo để săn thú rừng luôn luôn đặt dưới gầm phản và mở cửa
mạch, nhẹ nhàng lách mình ra ngoài.
Nép dưới bóng cây, ông đi
lần mò vào tháp. Đến bức thành ngoài của ngôi tháp mẹ ông dừng bước lại, để tai
nghe ngóng giây lâu. Không một bóng người, không một tiếng động, chỉ nghe tiếng
than bất tận của loài côn trùng râm ran trong các lùm cây bụi cỏ, thỉnh thoảng
tiếng gáy của loài rắn độc ẩn mình trong các chân thành. Ông vẫn nín thở đứng
yên, dồn hết tinh lực lên đôi mắt già, soi mói nhìn từng tượng đá bụi cây cố
tìm lấy một bóng người. Có lẽ họ đã ngủ yên trong tháp, hoặc đã đi rồi. Một bầy
dơi quạ từ đâu bên mạn Quế Sơn bay về, sà xuống trên các ngọn cốc um tùm, kêu
lên chí chóe để tìm chỗ đậu gây nên đôi phút rộn ràng ở tận trên cao rồi cái
màn đêm bao la khuấy đục sữa trăng lấy lại không khí âm thầm bí mật. Và hai cửa
tháp tối đen im lìm như hai hang sâu thăm thẳm về quá khứ ngàn đời.
Ông Cửu nghĩ rằng ban chiều
hai người còn lần mò tìm dọc các bia đá thì chắc họ chưa khám phá được gì và
đêm nay còn ở nơi đây để đến ngày mai tiếp tục, ông sẽ có dịp theo dõi kỹ hơn,
thế nào trong tuần trăng này ông cũng tính chuyện gặp gỡ với họ.
Vừa toan quay về ông bỗng
nghe một tiếng động kỳ lạ ở đâu trên cao. Không phải là một nhánh cây khô gẫy
hay một cánh dơi vỗ mạnh trong đêm, tiếng động như sự va chạm của loài gạch đá
hay sự tuôn đụng bất thần của hai vật nặng. Ông nghễnh tai, nghe ngóng. Im lìm.
Rồi một hơi gió, hay tiếng thở dài như từ chót đỉnh chảy lan xuống đến chân
thềm – Kinh ngạc, ông nhìn thấy một vệt sáng thẳng đứng trong lòng Tháp Mẹ từ
trên rọi xuống dưới nền một khoảnh rất tròn. Vầng trăng lên đến đỉnh đầu như có
sức mạnh dị thuờng chọc thủng đỉnh tháp để trồng một cột ánh sáng lạ lùng. Ông
Cửu còn đang phân vân tự hỏi vì đâu mà có hiện tượng kỳ quái thế này thì bỗng
nghe trên đỉnh cao có những hơi thở gấp rút nặng nề mỗi lúc mỗi thêm mệt nhọc,
hổn hển. Rồi một tiếng rú vang lên kịp thời ghìm lại và hai khối nặng sàn sạt
rọc các bụi cây giáng mạnh xuống mặt đất đầy gạch đá đổ nát. Ông Cửu vội vã leo
qua bờ gạch chạy ra sau tháp, đến nơi xuất phát tiếng động. Dưới ánh trăng sáng
ông thấy một người quằn quại nằm trên vũng máu. Kẻ bị nạn cố nén tiếng kêu từ
trong lồng ngực phát ra, vặn người, giẫy giụa, hầu mong giảm bớt những nỗi đau
đớn đang giày xéo mình. Tất cả sự việc xảy ra một cách đột ngột bi thảm giữa
lúc đêm khuya, trong chốn hoang vắng mà lúc ban ngày cũng ít bóng người lui tới
khiến ông Cửu Dật đứng sững rất lâu, không biết xử liệu thế nào. Đến khi người
kia nằm yên trong máu và rên khe khẽ từng chặp từng hồi theo cơn nhức nhối của
các vết thương thì ông mới định thần lại, bước tới gần kề, nhìn thấy một người
già nua gầy ốm nằm giương cặp mắt lờ đờ, nét mặt co lại trong vẻ đau đớn tột
cùng.
Ông Cửu hỏi khẽ:
- Làm gì ở đây? Sao đến nỗi
này?
Người kia có vẻ kinh sợ,
chăm chăm nhìn ông không nói tiếng nào, như phải đối diện với một hồn ma thình
lình xuất hiện.
Ông Cửu đặt tay lên người bị
nạn, ôn tồn:
- Tôi ở gần đây, đừng có
ngại gì. Tôi vốn họ Trà.
Nét mặt người kia dịu lại,
có vẻ trầm ngâm. Một lát, người ấy cất giọng khàn khàn:
- Khát quá. Tôi phải chết
thôi.
Ông Cửu vỗ nhè nhẹ lên cánh
tay khẳng khiu quờ quạng liên hồi ở trên lồng ngực gầy gò, an ủi:
- Nằm yên, tôi đi lấy nước.
Ở đây có ngôi giếng cổ…
Người kia bỗng kêu thét lên:
- Thôi đi! Thôi Đi!
Ông Cửu nhíu mày nhìn vào
cặp mắt trợn trừng hốt hoảng lồ lộ trên khuôn mặt già nua soi tỏ ánh trăng,
tưởng chừng chứng kiến những cơn thác loạn trước phút lìa trần.
Người kia quờ quạng nắm cánh
tay ông, nói bằng một giọng van lơn:
- Ngồi đây, tôi không còn
khát nữa đâu. Đã hết khát rồi.
Ngừng lại một chút, người ấy
khàn khàn nói tiếp:
- Còn giếng nước nào nữa
không? Chao ôi! Có vũng nước nào…
Ông Cửu không trả lời, nhìn
vào trong những lùm cây ủ đầy bóng tối. Sau một lát trầm ngâm, ông hỏi:
- Một người nữa đâu?
Người kia nhắm nghiền mắt
lại, không đáp. Ông Cửu nhớ lúc vừa rồi như có hai người từ cao rớt xuống. Ông
vội đứng dậy, nhưng người này đã mở đôi mắt thao láo nhìn ông:
- Đi đâu?
Ông Cửu đáp:
- Tìm một người nữa.
Người bị nạn bỗng nhiên nở
một nụ cười nham nhở rồi giơ bàn tay gầy guộc ra dấu cản ngăn:
- Không bao giờ tìm thấy hắn
đâu. Đừng tìm vô ích. Ta cùng rơi xuống với mô đá chạm ở trên chót đỉnh. Tìm
giùm vật ấy cho ta.
Ông Cửu đoán rằng mô đá
không thể rơi xa chỗ người bị nạn nhưng ông đảo mắt nhìn quanh mà chẳng tìm
thấy. Bấy giờ mặt trăng đã bị một đám mây dày bao phủ và cả khu rừng chìm trong
ánh sáng âm u. Ông Cửu ngồi xuống bậc thềm cạnh tháp để chờ và người bị nạn khó
nhọc chống tay ngồi dậy, ngước đầu nhìn
lại phía ông, ra dáng ngóng đợi.
Khi trăng ra khỏi đám mây,
ông Cửu sục sạo trong các bụi rậm cạnh đấy, cuối cùng tìm được mô đá nằm giữa
một khóm sim dày. Mô đá khá nặng và khi mang đến chỗ người bị nạn cách đấy
chừng năm sáu thước, ông Cửu đã thở hào hển.
Trông thấy vật này, người
kia gần như quên hết đau đớn, ngồi thẳng dậy được, ôm nó trong lòng, hai tay
khẳng khiu cố ghì chặt lấy như ghì một người yêu dấu, mái đầu cúi xuống rất gần,
phơi dưới ánh trăng lớp tóc thưa thớt, quăn queo đã bạc, phía dưới bê bết những
máu và cả vạt áo sau lưng thấm máu đen sì.
Ông Cửu đứng yên, nhìn từng
cử điệu của người ấy, cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của bao nhiêu việc vừa qua. Ông
nghĩ đáng lẽ ông phải đưa kẻ bị nạn về nhà cứu chữa nhưng không hiểu sao người
ấy cũng chẳng nói gì và ông cũng không nhắc đến trước khi rõ hết những điều bí
ẩn. Cuối cùng, chừng đã qua rồi cái phút đê mê của sự hội ngộ với mô đá ấy,
người kia ngẩng lên, giương mắt trừng trừng nhìn vào trong đêm rất lâu như
ngóng tìm ai rồi buông tay khỏi mô đá, quay về phía ông Cửu Dật, nói bằng một
giọng khô khan:
- Hãy ngồi xuống đây, ngồi
lại gần đây.
Ông Cửu ngoan ngoãn nghe
theo và ngồi xuống lớp gạch vụn, đối diện với người bị nạn. Người này lại nhìn
chăm chắm vào ông rồi cất tiếng hỏi:
- Ông đến đây làm gì, vào
khoảng giờ này?
Ông Cửu tưởng nghe những
tiếng rít lên trong giọng căm hờn từ một cổ họng sắp tắt, nhưng cố giữ vẻ bình
tĩnh đáp lại:
- Tôi có việc đi xa, về
khuya, tình cờ mà tạt ngang đây để cho ngắn bớt đoạn đường.
Người kia trầm ngâm giây lâu
rồi nói:
- Thời vận của ngươi đã đến
và thần Xi-Va dun rủi cho ngươi gặp ta vào đúng lúc này. Những gì mà ta ao ước
suốt đời, theo đuổi trọn kiếp, bây giờ ta đã gặp rồi nhưng ta lại không thể
hưởng.
Ngừng lại để thở, người ấy cố
nén mệt nhọc nói tiếp:
- Ta như nhìn thấy trong đêm
bóng gã chèo đò đưa người về cõi âm hối hả giục ta… Trước khi lìa đời ta phải
kể hết cho ngươi tất cả sự tình. Ngươi là thừa kế của ta, ngươi phải lo liệu
cho ta một khoảnh mộ phần, ngươi phải giải oan cho vong hồn ta…
Giọng nói càng ngày càng thu
nhỏ lại, nhiều khi như tiếng thì thầm. Ông Cửu ngồi yên, đôi lúc áp tai xuống
gần vành miệng người ấy nhưng hai con mắt vẫn dán chặt vào mô đá trước mặt,
tưởng như nghe chuyển vọng về từ một cõi nào huyền bí xa xôi…
*
-------------
(*) Kinh đô Indrapura.
(*) Kinh đô Indrapura.
_________________________________________________________________________
Xem tiếp PHẦN II