Bé Sơn nhảy xuống khỏi bàn ăn một cái rột, chạy lại ghế xích đu ba đang nằm, chồm lên hôn ba một cái chóc rồi nhảy tót vào lòng ba nằm như một đứa bé lên ba mặc dù bé Sơn năm nay đã bảy tuổi và học lớp Tư rồi.
Ông Hiền ngạc nhiên hỏi:
- Ủa. Con làm gì kỳ vậy? Để ba đọc báo chớ.
- Con hổng chịu. Hồi nãy ba hứa kể chuyện hưu - hưu chiến gì đó cho con nghe bộ ba quên rồi hả...
Ông Hiền "À" một tiếng với tay bỏ nửa điếu thuốc còn lại trong cái gạt tàn xong nhìn thẳng lên trần như để nhớ lại rồi chậm rãi nói:
- Câu chuyện xảy ra đêm Giáng Sinh năm 1793 ở Pháp Quốc con ạ. Lúc ấy ở vùng Vedée, Bretagne nhân dân đang nổi loạn lấy danh hiệu là Bảo Hoàng chống lại đảng Cộng Hòa vì đảng nầy đã truất phế vua và bắt thái tử của họ.
Cuộc tranh chấp thời đó có thể gọi là đẫm máu và đau thương nhất trong lịch sử nước Pháp.
- Đêm hôm ấy có gì xảy ra ba nói con nghe lẹ đi ba. Con buồn ngủ rồi đây nè...
- Đêm hôm ấy cả vùng Vendée đang trùm lên một tấm chăn tuyết khổng lồ trắng xóa. Những đốm bông tuyết vẫn tiếp tục đan nhau làm cho tấm chăn khổng lồ càng ngày càng thêm dày đặc.
Tuyết xuống nhiều đến đỗi người ta không còn nhận ra lối đi. Gió lạnh như cắt da. Thế mà hai bên vẫn bắn nhau, chém nhau say sưa trong máu lửa. Những người đã tin nơi Chúa bảo rằng giá lúc nầy có một hồi chuông ngân lên hay chỉ một tiếng chuông đơn độc cũng đủ để thức tỉnh bọn người đang say máu ấy trở lại với thanh bình hầu vui hưởng lấy giờ phút thiêng liêng sắp đến. Nhưng tiếc thay nơi thờ phượng đã trở thành nhà trú ẩn của những đàn chiên vô chủ. Vì bọn Cộng Hòa đuổi bắt cả những mục sư không chịu tuyên thệ với chúng. Đã mấy tháng rồi không còn tín đồ nào dám đến đấy nữa để rồi giờ đây mọi gác chuông đều im lìm dưới cơn mưa tuyết.
Tuy nhiên trong đêm tối hãi hùng ấy có một bóng thường dân di chuyển rất nhanh về hướng bản doanh của phe Bảo Hoàng. Bóng ấy dè dặt tiến đến cổng và xin tên lính canh cho phép vào trình việc riêng tối quan trọng với chỉ huy trưởng.
Sau khi soát kỹ hắn, không thấy có mang khí giới, một tên lính khác có phận sự đưa hắn vào ngay phòng chỉ huy trưởng.
Một viên sĩ quan đang nghiên cứu bản đồ nghe tiếng động sau lưng quay phắt lại mặt lạnh như tiền, đôi mắt cú vọ ngó ngay vào người khách lạ do tên lính dẫn vào.
Không đợi hỏi, người ấy nói:
- Tôi là tên đầy tớ của một chủ trại ở Kéralzy. Vào giữa trưa nầy có một người lính của ngài bị bọn Cộng Hòa đuổi bắt chạy vào trại chúng tôi. Chủ tôi đã bắt hắn giao cho bọn Cộng Hòa để lãnh thưởng và chúng đã giết hắn.
- Có thật vậy không?
- Chính mắt tôi thấy hắn bị trói vào cột thánh giá bên vệ đường dẫn vào Kéralzy, sau đó hắn bị năm phát đạn vào đầu.
Đến đây viên chỉ huy trưởng không nén được uất ức, tình đồng đội rạt rào dâng lên như sóng thần sau cơn động đất.
- "Mau triệu tập phiên họp bất thường cho ta". Ông ra lệnh với viên bí thư phòng bên cạnh.
Không mấy chốc các ủy viên đã có mặt đông đủ trong hội trường. Viên chỉ huy đứng trên sạp gỗ cao tuyên bố buổi họp xong, họ cùng thảo một bản án như sau:
"Chúng tôi, ủy viên chiến trường có triệu tập tại chỗ một phiên họp bất thường để kết án tên YVON LESTREZEC, chủ trại ở KÉRALZY. Về tội phản nghịch. Tội nhân sẽ bị xử bắn tại Trụ Thánh Giá, với một tấm biển viết tên JUDAS trên ngực".
Sau khi đọc xong bản án cho mọi người nghe rõ, viên chỉ huy cho gọi một tên đội trưởng vào bảo:
- Boishardy, lấy thêm hai người đi với anh đến bắt tên chủ trại và thi hành bản án, nhanh lên!
- Xin tuân lệnh!
Tên đội trưởng trả lời như một cái máy tự động rồi ra đi.
Độ một giờ sau cả ba người đã nhìn thấy trụ Thánh giá lù lù trước mặt. Đó là một trụ tháp cao độ năm thước bằng đá trên chót có gắn một cây Thánh giá bằng đồng đen.
Trời rét như thế mà họ cảm thấy nóng người, vì phải đi len lỏi trong rừng để tránh nơi đóng quân của địch. Một tên trong bọn than thở:
- Thật là xui xẻo cho chúng mình. Trời rét thế này mà không được ở nhà trùm chăn đánh một giấc cho đã.
- Đi đến đây không gặp địch cũng là may.
- Thôi cố lên, chúng ta đã gần đến trại rồi - Viên đội nói.
Vài phút sau họ chỉ còn cách trại vài mươi thước.
- Các bạn hãy theo tôi, chúng ta xông vào cửa chính.
Rồi họ theo viên đội lần mò đến cửa.
- Không một tiếng động. Nó đã ngủ chăng?
- Đợi đây đã! Ta có cách đánh thức chúng.
Nói xong viên đội dùng nắm tay đập vào cửa vừa la khe khẽ:
- Chủ trại ơi! Chủ trại! Làm ơn mở cửa giùm. Tôi là lính Bảo Hoàng bị bọn Cộng Hòa đuổi gấp. Nhân danh Chúa xin cứu tôi với. Mau lên! Mau lên!
Họ được trả lời ngay bằng một giọng trẻ con, líu lo như tiếng chim non trong tổ:
- Ai đó? À các ông đợi chút xíu, cháu ra bây giờ.
Ba người nhìn nhau chưa hết ngạc nhiên thì cửa gỗ dầy cộm nặng nề mở ra, rồi đến một cái đầu bé và thấp, một thân hình mảnh khảnh đến đôi chân nhỏ xíu cũng lần lần hiện lên trên khung cửa.
Thì ra một em bé độ 8 tuổi, mặt trắng, môi hồng, mắt sáng như sao. Trông nó không có vẻ gì sợ sệt.
- Á! Ba ông vua. Cháu tưởng ba ông vua của cháu khuya mới đến chớ. Xin mời Ba vua vào đây sưởi ấm với cháu. Ba cháu đi vắng khuya mới về. Ba cháu hứa sẽ đánh thức cháu dậy để xem Chúa Giáng Sinh nhưng cháu không ngủ được.
- Đứa trẻ thơ ngây quá - Một tên lính nói - Nó gọi mình là Ba Vua trong khi mình là ba thằng thiên lôi được sai đến giết cha nó.
- Đêm nay là đêm Giáng Sinh à? Thật không? - Một tên lính khác ngạc nhiên nói.
- Đêm Giáng Sinh? Sao ta không nghe thấy tiếng chuông vang? Vô lý thật.
- Vì không ai đến nhà thờ hết làm gì có tiếng chuông. - Đứa bé xen vào.
- Chớ họ đi đâu?
- Đến nhà chung.
- Để làm gì?
- Để săn sóc những người bị thương.
- Còn ba mầy đâu?
- Đến nhà chung để rước mẹ cháu. Mỗi ngày mẹ cháu đều đến đó, khuya ba cháu đến rước mới về.
- Các anh nghe không? Chúng ta chỉ còn cách ra phục bên đường chờ hắn.
- Ồ! Ba Vua đi đâu giờ này bỏ cháu ở nhà một mình buồn chết. Ba cháu sẽ không về muộn đâu.
Thế rồi họ dẫn nhau trở ra đường.
- Nghe tiếng nói của con trẻ lòng tôi se thắt. Tôi cũng có một đứa con bằng nó - Một tên lính nghẹn ngào nói.
- Thôi chúng ta đi nhanh thì hơn. Phận sự là phận sự. Dù sao cha nó cũng là một tên phản nghịch không thể thương hại được!
Ra đến trụ đá, viên đội dừng lại xem xét địa thế rồi nói:
- Nhà chung ở hướng này. Hắn sẽ trở về bằng con đường mòn phía trái. Nhanh lên! Chúng ta phải tìm chỗ phục kích cho thuận tiện.
Trong khi ấy tại nông trại, đứa bé cô độc không ngủ được. Nó bảo thầm: "Lúc nãy họ nói "Đêm Giáng Sinh sao không nghe tiếng chuông vang? Vô lý thật". Hay là mình sẽ làm cho có lý. Chắc chắn là đêm nay sẽ không ai đi lễ như mọi năm. Nhưng một đêm Giáng Sinh không có tiếng chuông thì đâu phải là đêm Giáng Sinh... Nhà thờ xa quá... liệu mình có đi đến đấy nổi không?" Nghĩ đến đây em tung mền bước xuống.
Đêm càng khuya trời càng lạnh. Gió rít từng cơn đu đưa những cành thông qua lại như người say rượu. Trong khu rừng nhỏ hai bóng người đi nhanh như trốn. Đi trước là một người đàn ông béo phì ăn mặc xập xình theo kiểu nông dân chất phác. Tay mặt lủng lẳng một cây búa. Tay trái ôm một bó sồi to làm cho thân hình đã to càng thêm khó xoay trở. Đi sau là một thiếu phụ mặc áo choàng ấm, quàng khăn kín đầu. Cả hai lầm lũi bước đi trong mưa tuyết có biết đâu tai họa sắp đến cho mình, vì ba người núp trong bụi đang đợi họ đến gần.
- Chính hắn và bà vợ chớ không ai khác - Có tiếng nói nhỏ.
Phải, người ấy đúng là Lestrezec, tên tử tội.
Khi ông ta đến ngang trụ Thánh Giá thì ba người cầm súng nhảy ra hô lớn:
- Đứng lại. Ta có lịnh bắt anh.
Lestrezec không biết ất giáp gì, dừng lại ngó chung quanh mình thấy đang bị bao vây, ôm vợ vào lòng cất tiếng hỏi:
- Các anh là chiến sĩ Bảo Hoàng? Các anh muốn gì?
- Muốn mời anh lên cột đá kia rồi sẽ biết.
- Anh đã bán đồng bọn ta cho tụi Cộng Hòa. Anh là kẻ phản bội.
- Chồng tôi không phản ai cả. Đó là một điều sỉ nhục - Người thiếu phụ ấp úng nói trong ngực chồng.
- Chúng ta đã có chứng cớ. Cứ trói nó lại.
- Không! Không! Tôi cam đoan rằng các ông đã lầm.
Nhưng rồi Lestrezec cũng không cưỡng lại được. Họ lôi ông lên trói chặt vào trụ đá. Vợ ông gào thét lên thảm thiết để kêu oan cho chồng. Nhưng chẳng ai đoái hoài.
Họ cũng không quên quàng lên cổ ông tấm bảng viết bằng than chữ JUDAS to lớn và nói:
- Anh đã giao Kergeulen cho quân địch để lấy tiền của chúng cũng như JUDAS đã bán Chúa. Anh phải đền tội.
- Kergeulen à! Tôi đã hiểu. Hắn có đến trốn trong nhà tôi và hắn đã bỏ đi lúc nào tôi không hay. Tôi thề không có bán hắn cho địch - Tôi không phải là người phản bội.
- Láo! Kergeulen trốn lúc nào, sao không thấy về trại binh?
- Lạy Chúa hãy cứu lấy chồng con, người vô tội.
- Mụ kia tránh ra cho ta thi hành phận sự. Binh sĩ theo lịnh ta. Lui ra mười bước.
- Ta bằng lòng chết nhưng nên nhớ ta không hề phản bội. Chính các người phản Chúa. Các người nỡ sát hại kẻ vô tội trong đêm Giáng Sinh nầy.
Người thiếu phụ khốn nạn nhào đến ôm lấy chân chồng nức nở. Họ không còn nghe thấy gì nữa cả.
- Chuẩn bị.
Tiếng viên đội rổn rảng vang lên trong đêm lạnh triền miên như tiếng Diêm Vương kêu gọi những linh hồn về bên kia thế giới.
- Sẵn sàng. Nhắm súng.
- Vĩnh biệt em. Vĩnh biệt con yêu dấu.
Vừa lúc ấy có tiếng chuông từ xa vọng lại.
Tiếng chuông vang lên như từ âm ty địa ngục, lúc đầu nhỏ sau lớn dần át cả tiếng gió đưa cành cùng tiếng người thổn thức.
Có ai ngờ đâu tiếng chuông huyền diệu ấy ngân lên do đôi tay bé nhỏ của đứa con người tử tội. Đứa bé đã can đảm vượt qua cánh đồng phủ tuyết, đi trong giá lạnh để đến ngôi nhà thờ bỏ hoang, kéo lên hồi chuông báo thức.
Lúc ấy mọi hoạt động đều ngưng hẳn. Hai tên lính để súng xuống lắng nghe. Người thiếu phụ ngừng khóc nhìn lên bầu trời mông lung như tìm kiếm vị cứu tinh.
- Tiếng chuông Giáng Sinh.
Sau một phút bàng hoàng họ trở lại với thực tại.
- Tôi bảo nhắm - Viên đội nhắc lại.
- Tôi không thể thi hành được trong giờ phút thiêng liêng này.
Tiếng chuông vẫn tiếp tục dồn dập ngân lên trong tĩnh mịch nghe như lời nói của một đấng tối cao vọng xuống nhắc nhở mọi người là bạn trên thế gian nầy. Đừng xâu xé nhau nữa mà hãy thương yêu nhau, giúp đỡ nhau, coi nhau như anh em một nhà thì nhân loại mới có thể tồn tại được.
Cả năm người đều ngơ ngác nhìn nhau, không ai bảo ai một lời họ cùng lấy mũ nón xuống cúi đầu cầu nguyện.
Dư âm cuối cùng vừa dứt, tiếng viên đội tiếp theo phá tan bầu không khí mơ màng giá lạnh.
- Mở trói ra cho hắn. Ta cũng không thể làm trái lời Chúa dạy.
Nút dây vừa mở xong thì có một kỵ mã phi ngựa đến:
- Hãy ngừng lại. Người nầy vô tội! Kergeulen đã trở về hàng ngũ an toàn. Chính tên đầy tớ phản chủ cáo gian.
- Cám ơn Chúa đã cứu sống con.
- Tất cả chúng ta đều phải cám ơn Chúa. Tiếng chuông của người đã ngăn cản chúng ta đi lầm vào con đường tội lỗi.
Ông Hiền kể xong nhìn lại con thì thấy bé Sơn đã ngủ yên trong lòng. Ông mỉm cười đốt một điếu thuốc khác.
HUỲNH SONG
(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 36, ra ngày 1-1-1966)
Không có nhận xét nào:
Không cho phép có nhận xét mới.