□ CÁI CHẾT CỦA THI SÁCH, GIỌT NƯỚC LÀM
TRÀN LY CỦA TRÙM THAM NHŨNG TÔ ĐỊNH
□ LỰC LƯỢNG CỦA HAI BÀ ĐÔNG TỚI 6 VẠN
NGƯỜI
□ LỜI THỀ CỦA HAI BÀ KHI PHẤT CỜ KHỞI
NGHĨA
□ QUÉT MỘT HƠI, 65 THÀNH TRÌ RƠI RỤNG
NHƯ LÁ MÙA THU
Thái Thú Tộ Định trùm tham nhũng đất Giao
Chỉ
Cuộc đảo chính của Tể tướng Lữ Gia,
lật đổ triều đình Triệu Ai Vương và xử tử Cù Thị Thái Hậu (đã tư thông với An
Thiếu Quí, sứ giả của nhà Tây Hán) đã xảy ra trong chớp nhoáng. Nhưng chế độ
mới của Triệu Dương Vương cũng không kéo dài được quá một năm. Nhà Triệu đã bị
tiêu diệt để mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai. Lấy được Nam Việt, nhà
Hán thiết lập một cơ cấu hành chánh mềm dẻo: các lạc hầu, lạc tướng nhà Triệu
vẫn được giữ nguyên, nhưng đặt dưới quyền điều khiển của quan Thứ Sử, toàn là
người Trung Quốc. Có nhiều quan Thái Thú là người tốt như Tích Quang, Nhâm
Diên, nhưng cũng có lắm kẻ tham nhũng cỡ chúa trùm như Ích Xương, Tô Định.
Tô Định là Thái Thú quận Giao Chỉ, kẻ
được bổ nhiệm sang thay Tích Quang. Người đi chưa hết tiếng khen, kẻ tới đã
biểu lộ bộ mặt tham nhũng hạng bự, vừa tham tàn, vừa hiếu sát, trong mấy năm
đầu đã gây ra bao nhiêu sự bất mãn làm môi trường nẩy mầm tốt đẹp cho lực lượng
cách mạng vùng lên. Nhân vật lãnh đạo cách mạng là một Huyện lệnh có nhiều uy
tín ở Châu Diên, thuộc phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên ngày nay.
Đó là ông Đặng Thi Sách, con rể của
quan Lạc Tướng huyện Mê Linh, làng Hạ Lôi, tỉnh Phúc Yên, chồng bà Trưng Trắc,
anh rể bà Trưng Nhị. Lực lượng cách mạng lên tới 6 vạn người. Thi Sách thoạt
tiên chủ trương cách mạng ôn hòa để tiết kiệm xương máu.
Ông chỉ viết một lá thư với lời lẽ
đanh thép, lên án gắt gao chính sách cầm quyền của Tô Định, cảnh cáo nặng nề
chủ trương tham nhũng, hiếp bóc dân lành và báo động một cuộc chiến tranh khởi
nghĩa nếu Tô Định không chịu thay đổi đường lối của mình.
Tô Định trả lời lá thư tuyên chiến này
bằng cách thừa lúc sơ hở, đem quân vây bắt Thi Sách rồi chém đầu gọi là để làm
gương. Ly nước đã đầy, hành động đó như một giọt nước cuối cùng làm tràn ra
khỏi miệng.
Lực lượng cách mạng nhất quyết vùng
lên. Người cầm đầu chính là Bà Trưng Trắc, với bốn lời thề gởi hào kiệt bốn
phương:
1) Thề khôi phục nghiệp lớn của giòng Lạc
Hồng.
2) Thề trả thù cho Thi Sách.
3) Thề giết kỳ được Tô Định.
4) Thề ai có công to thì gả em là
Trưng Nhị cho.
Lời kêu gọi của hai bà được các đảng
nghĩa dũng hưởng ứng nồng nhiệt. Kiểm điểm thấy gồm có đảng của bà Nguyễn Đào
Nương, đảng của ông Cao Doãn, đảng của ông Trương Quân, đồng thời các đồng chí
của Thi Sách ở các vùng lân cận như Đông Sàng, Liên Chiểu, Phù Sá cũng đem quân
trợ giúp rất nhiều. Lực lượng cách mạng lên tới 6 vạn người.
Cờ
vàng oai dũng trong biển máu
Mặc dù hãy còn đại tang, Hai Bà không
hề tị hiềm mà trang sức vô cùng lộng lẫy (để tạo uy thế và đánh trúng tâm lý khiếp
nhược của đối phương). Hai Bà cỡi voi trên bành vàng, che lọng vàng, bận áo
giáp vàng, phất cờ vàng tiến quân đánh thẳng vào Liên Lâu Thành là trụ sở của
Tô Định, đuổi quân tướng Trung Hoa về Tầu, rồi thừa thắng xông lên, tiến quân
ào ào như thác lũ, khí thế mạnh mẽ như chẻ tre. Quân cách mạng đi đến đâu, dân
chúng hưởng ứng nhiệt liệt tới đó, và với chiến thuật tốc chiến tốc thắng, Hai
Bà đã chiếm một hơi 65 thành trì, đem giang sơn Việt thâu gồm một mối, chấm dứt
cuộc nô lệ phương Bắc đã kéo dải đằng đẵng trên một trăm năm dưới ách thống trị
của nhà Hán.
Năm đó là năm 40 sau Tây lịch kỷ
nguyên.
Hai Bà thắng trận xong, liền xưng
Vương và đóng đô ở Mê Linh. Việc triều chính chưa kịp lo sắp xếp ổn định, thì
mùa đông năm sau (41 sau Tây lịch), vua Hán Quang Vũ sai một Thượng Tướng Trung
Hoa là Mã Viện (tức Mã văn Uyên) lúc đó đã bảy chục tuổi, đầu bạc trắng nhưng
kinh nghiệm chiến trận rất dồi dào, lãnh hai chục ngàn quân qua N.V. lại huy
động hàng vạn dân phu phá rừng, mở núi để tiến sang.
Cuộc chiến tranh kéo dài tới hai năm
liền với những trận đánh rất anh dũng từ đồng bằng lên miền núi, từ cực Bắc của
lãnh thổ đến cực Nam quận Nhật Nam. Nhưng rút cục, vì bộ đội mới thành lập, ít
được tôi luyện và trang bị kỹ càng; lại thêm quân Hán vừa tinh nhuệ vừa đông đảo
nên Hai Bà thất thế phải lui về Cấm Khê thuộc tỉnh Phú Thọ, rồi trầm mình trên
dòng sông Hát (1 nhánh của sông Nhị) vào giữa ngày mồng 6 tháng 2 năm Quí mão
(năm 43 dương lịch). Theo lời dân chúng thì ngọc thể của Hai Bà trôi về bãi
Đồng Nhân gần Hà Nội, nên ở đấy cho đến nay vẫn còn có đền thờ Hai Bà, và cả
nước ta ai ai cũng ghi nhớ ngày 6 tháng 2 là ngày trọng đại trong lịch sử dân
tộc.