CHƯƠNG XIV
Ở Thủ Đức về, tôi tới thẳng Tổng Hành Dinh. Trí đang làm việc. Trong
phòng thí nghiệm có ánh đèn sáng trưng. Tuy nhiên khi tôi vừa bước lên,
đột nhiên đèn tắt tối thui. Tôi lên tiếng gọi:
- Trí! Đâu rồi?
Trong bóng tối im lặng, đột nhiên nghe một tiếng "clic"; không đầy một phút sau, ánh sáng lại chan hòa . Anh mỉm cười vui vẻ:
- Đừng thắc mắc, nghe Chiêm! Mình đang làm nốt mấy "pô" chụp hình bằng ánh sáng đỏ!
Tôi nóng lòng báo cáo công tác nên không tò mò thắc mắc gì thêm về chuyện chụp mình bằng ánh sáng "tối" của anh.
Trí im lặng nghe tôi báo cáo công tác tường tận và đưa anh coi mấy đồng bạc cắc một đồng Việt Nam do chính tay tôi nhận được từ tay một nữ nhân viên Ty Bưu Điện. "Sếp" trừng mắt nhìn tôi:
- Chiêm làm cách nào lấy được mấy đồng này trong bưu kiện gởi cho Sáu Goòng ? Coi chừng việc làm này bất hợp pháp à nghe!
Tôi "trấn an" Trí:
- Anh yên tâm! Đây là kết quả tài ngoại giao của bé Thơ! Nữ nhân viên vui tính của Ty Bưu Điện, sau khi nghe bé Thơ giới thiệu tôi là đặc phái viên của một nhật báo lớn tại thủ đô, tờ Chuông Vàng, đã vui vẻ cho tụi tôi coi qua thành tích của Ban tiếp nhận và phân phát bưu kiện. Bà ta hy vọng sẽ được nêu tên và thành tích hoạt động phục vụ quần chúng lên trong báo lớn, nên đã cho tôi và bé Thơ chiêm ngưỡng mấy cái kệ lớn chất đầy bưu kiện. Trong số bưu kiện đó có một hộp các tông lớn để địa chỉ Sáu Goòng...
- Hộp các tông lớn cỡ nào ?
- Bằng cái thùng sữa! Nặng lắm! Bà nữ nhân viên cười hí hí cho biết rằng đã có lần Sáu Goòng đến nhận lãnh, lúc bê ra đáy thùng bị bục, há ra để lọt mấy chục đồng bạc cắc bò tung tóe. Bà ta phải giúp lão Sáu lượm lên, nhưng còn sót lại mấy đồng này trong khe quầy. Và bà này không hiểu sao lão Sáu Goòng mất công nhờ người đổi nhiều bạc cắc ở tận đâu về. Có hỏi thì lão cho biết đem về đổi cho các bạn hàng cần tiền lẻ để thối cho khách, cứ 100 đồng, lão lời được 5 đồng.
Trí cầm mấy đồng bạc cắc tiến lại phía bàn làm việc, cắm cúi đọc trong một quyển sách lớn. Dáng điệu anh chăm chú, và tôi tôn trọng triệt để giây phút im lặng của anh. Bỗng anh ngẩng mặt, tia mắt sáng ngời. Tôi biết là anh đã tìm được một cái gì lạ.
- Ê, CT3! Theo các tài liệu do cảnh sát sưu tầm về việc "đúc tiền giả", thì các tay chuyên viên phạm pháp này bao giờ cũng theo đúng kỹ thuật sau đây: Đun cho chảy lỏng đồng tiền nhỏ cùng một thứ kim loại với đồng chúng đã chọn làm "mục tiêu". Như vậy chúng không lo bị người khác nhận ra là đồng tiền giả bằng cách nhồi nhồi xuống sàn để nghe tiếng kêu. Còn hình vẽ trên hai mặt thì được thực hiện nhờ khuôn đúc. Tụi Sáu Goòng cũng đã tính kỹ lắm. Cứ 3 đồng cắc 1 đồng, thì đúc được thành một đồng hai chục. Như vậy, ta thử làm một con tính. Thùng bưu kiện bằng cỡ thùng sữa kim cương chẳng hạn. Mà mỗi thùng sữa có 48 hộp. Má tôi hay để tiền cắc 1 đồng vào lon sữa bò. Hễ đầy thì bà lại đem ra đếm, được trên dưới 500 đồng. Vậy 48 hộp tức là được (Trí quơ tay lấy bút chì và tờ giấy trắng, hí hoáy làm tính nhân)... 24.000 đồng. Mà cứ 3 đồng thì đổ khuôn được một đồng hai chục. Vậy 24.000 đồng bạc cắc một sẽ thành 8.000 đồng bạc 20. Nhân 8.000 với 20, ta có 160.000 đồng. Chiêm đã thấy lợi hại ghê chưa ? 24.000 đồng đã thành 160.000 đồng. Mà theo lời nữ nhân viên Bưu Điện cho biết thì trung bình mỗi tháng Sáu Goòng nhận được 8 lần. Vậy tổng cộng số tiền giả tụi chúng cho ra thị trường tiêu thụ là một triệu hai trăm tám chục ngàn đồng!
Tôi bất giác huýt gió:
- Vậy, cứ một tháng thì tụi Sáu Goòng lại có một tay trở thành triệu phú!
Trí đáp:
- Đúng như vậy, chứ còn gì nữa!... Nhưng tôi, tôi nhất định cương quyết không để tụi nó làm như vậy được! Chiêm thử tưởng tượng một số lớn các cụ già của chúng ta buôn thúng bán bưng, mỗi ngày lời lãi chừng trên dưới trăm bạc... mà trong số đó lại lẫn vào hai ba đồng hai chục giả thì còn có gì nữa đâu! Quả là một tai họa cho đồng bào nghèo khổ!
- Chúng ta báo cho cảnh sát ?
- Không! Chưa phải lúc, Chiêm à! Phải lùng cho ra bằng được sào huyệt đúc tiền giả của chúng đã . Đó là việc cần làm trước nhất!
- Mà bằng cách nào ?
- Theo hút lão Sáu Goòng!
Tôi cứ đứng ngây như tượng gỗ vì hai lý do: Lý luận của Trí thật đúng, thật sắc bén khiến tôi không cãi được, và tinh thần mạo hiểm của anh làm tôi sởn da gà. Tôi thú thực với anh là việc theo hút lão Sáu có vẻ "nguy" quá. Nhưng một lần nữa, tôi thua anh về tranh luận, và quay về nhà, đi lủi thủi như một kẻ bại trận nhưng không còn thắc mắc gì và sẵn sàng tuân lệnh "hành quân" của anh.
Sáng hôm sau, ba má tôi và chị An đi thăm bác tôi trên Túc Trưng. Ở nhà còn mỗi mình tôi, tha hồ làm vương làm tướng. Má tôi gọi tôi tới dặn cách thức sửa soạn để nấu bữa cơm chiều đặng ở Túc Trưng về sẽ có cơm ăn ngay. Rồi hai cụ cùng chị An lên xe đi hồi 9 giờ. Năm phút sau, Trí đã dựng xe đạp trước cửa nhà tôi. Trước ngực anh lủng lẳng một ống viễn kính lớn đựng trong bao da.
- Lên đường lập tức, CT3! Chúng mình phải có mặt tại địa điểm quan sát khi người phu trạm đem bưu kiện đến cho Sáu Goòng! Nào, ta dông!
Không biết chắc là Sáu Goòng có nhận được bưu kiện nội ngày hôm đó không, nhưng chúng tôi cứ liều. Biết đâu! Vậy mà hai anh em tôi lại thắng cuộc! Quả nhiên người phu trạm đã dừng lại trước cửa tiệm Sáu Goòng. Lão này xuất hiện, nhận hàng. Mấy phút sau, y đã khệ nệ khiêng "thùng sữa" tới bên một chiếc xe hơi đậu gần đó.
Trí căn dặn tôi:
- Đừng theo sát quá, nghe Chiêm! Lão Sáu để ý ngó thấy là mệt ạ!
Việc theo hút một người lái xe hơi trong thành phố mà kẻ theo hút lại chỉ đạp xe đạp quả là một việc không mấy khó. Vì đường phố chật hẹp, đông xe cộ và đèn xanh đèn đỏ đủ thứ... Nhưng ra đến ngoại ô thì lại là chuyện khác. Đường tương đối trống vắng hơn, Sáu Goòng tăng gia tốc độ. Hai anh em cắm cổ đạp, nhưng khoảng cách cứ xa dần. Tới một con đường dốc khá cao, lại thêm gió ngược, hai chiếc xe đạp chỉ còn rì rì như người đi bộ... Ngước mắt nhìn: Sáu Goòng và chiếc xe hơi đã mất hút.
Tôi càu nhàu lên tiếng, khi cả hai đã leo hết quãng đường dốc:
- Quái! Đường trước mặt thẳng tắp và xa hun hút thế kia mà xe của lão biến đâu mất ?
Trí im lặng, đưa tay lên lấy ống nhòm quan sát chung quanh. Đột nhiên anh reo lên, và đưa tôi ống viễn kính:
- Chiêm! Coi này! Bãi ruộng thấp kia kìa, có cái nhà sau một lùm cây lớn rậm đó, thấy không ?
Quả thật, giữa tàng cây xanh đậm, nhô lên một mái nhà nhọn hoắt.
Giọng tôi đượm vẻ hoài nghi:
- Anh cho lão đã chạy xe vào nơi đó ?
- Còn gì nữa! Chung quanh đây còn có cái nhà nào nữa đâu ? Nhưng dù sao chúng mình cũng phải lùng xét kỹ một tua.
Hai anh em quay tìm một con lộ dẫn về hướng lùm cây rậm lá đó. Lại nhẩy lên yên, chúng tôi thả cho xe lăn bánh theo con đường đất rộng chừng hơn hai thước,dốc xiên xiên. Tôi nói to át cả tiếng gió:
- Trời ơi! Anh định cứ lừng lững thế này đến gõ cửa cái nhà đó hả ?
Trí không trả lời. Anh im lặng xuống xe, dúi sâu con ngựa sắt vào trong bụi sim rừng rậm lá, và ngoắc tay bảo tôi giấu xe:
- Gần tới rồi! Khom người xuống mà tiến lại khu nhà đó nghe! Đừng gây tiếng động đó!
Đừng gây tiếng động quả thật là khó! Bãi gì mà đầy vỏ bia hộp, chai lọ vỡ, khẽ đụng là kêu lanh canh rộn lên. Khó thật! Đúng là một bãi đổ rác! Càng lom khom bò tới gần, tôi lại càng cảm thấy sống lưng lạnh buốt. Nếu dự đoán của Trí mà đúng thì thật quả là hai đứa tôi đang bò vào... động sói.
Trước mắt, khu nhà hiện ra rõ rệt. Thì ra, đây chỉ là một căn nhà lớn, bỏ hoang phế từ lâu.
Trí rỉ khẽ bên tai tôi, mũi anh chạm sát đất:
- Ngó vào sâu coi, Chiêm!
Từ từ ngóc đầu lên, tôi thấy rõ cái thùng tróc sơn phía sau xe của Sáu Goòng. Trí bò bốn chân, tiến lên mấy thước nữa. Tôi cũng bám sát theo. Sân trước mặt đã hiện ra một khoảng lớn: Hai anh em lại bắt gặp hai cái xe nữa, một cái màu đỏ của Đặng Lân, còn cái kia là một cái xe "cam nhông nết". Phía sau hai chiếc xe là một gian nhà xe rộng, cửa làm bằng những thanh gỗ đóng thưa.
Từ trung tâm nhà cổ vẳng ra một loạt tiếng động gì nghe rầm rì đều đều như tiếng máy chạy. Tiếng Trí lọt vào tai tôi:
- Máy rập tiền giả đấy!
Nhưng chú ý lắng tai kỹ thì lại nghe có một thứ tiếng gì xình xịch như tiếng một cái động cơ. Trí đoán được ngay thắc mắc của tôi:
- Phải có hơi điện thì máy đúc tiền của chúng mới chạy được chứ! Tiếng xình xịch là động cơ phát điện đấy!
Hai ba phút sau, tôi đã nhận thấy một làn hơi phụt theo đám khói đang tỏa ra nơi đầu ống khói tại phía trên mái dãy nhà xe rộng.
Tôi khẽ lẩm bẩm:
- Đây chắc là lò nung chảy kim khí!
Giả thuyết của tôi được chứng nghiệm tức khắc. Vì ngay lúc đó Đặng Lân cùng với Sáu Goòng xuất hiện từ trong gian nhà rộng bước ra. Qua khung cửa mở, tôi trông thấy rõ ràng một người đàn ông ở trần trùng trục, hai tay nắm một thanh tre thật lớn đặt trên một cái lò thật bự cháy bằng gaz. Gần đó, có mấy cái bình to, loại bình sắt dầy vẫn dùng để đựng dưỡng khí hoặc khí đá.
Nhưng tất cả tâm trí của hai đứa tôi đều tập trung vào hai nhân vật chính: Đặng Lân và Sáu Goòng.
Hai người này bước qua sân rộng, đặt chân lên một con lộ nhỏ... tiến thẳng về phía chúng tôi. Chẳng ai phải bảo ai, Trí và tôi dán sát hết cỡ thân mình, rúc sâu vào đám cỏ rậm. Tôi có cảm giác như có một mãnh lực mầu nhiệm vô hình nào đó đã xui khiến làm họ mờ mắt không bắt gặp chúng tôi. Chân bước, tia nhìn họ ghim xuống đất, cả hai chìm đắm trong câu chuyện mải mê. Tiếng Đặng Lân khen Sáu Goòng nghe như có hơi men hừng hực của một ly rượu mừng:
- Anh Sáu! Bốn cái khuôn của anh quả đáng "mê" thật! Nhất là đôi khuôn 12 cạnh. Nguyên liệu dồi dào lắm rồi. Rập thử đồng mẫu 12 cạnh đó, như anh khó tính thế mà còn phải chịu là đẹp, huống hồ tụi tôi. Vậy chiều nay cho rập hết cả chỗ nguyên liệu thằng Phồn đang nung chẩy đó nghe!
Sáu Goòng đưa tay mở cửa chiếc xe của lão và ngồi vào ghế lái. Cả hai tên gian đều xây lưng về phía Trí và tôi đang nấp. Lúc này chẳng chuồn thì còn đợi lúc nào ? Chúng tôi đã "nhìn" thấy nhiều cái "hay" quá rồi! Hai anh em vạch cỏ mà đi lom khom tìm đường ra cùng lúc với Sáu Goòng mở máy cho xe lăn bánh chạy trên con đường đất hẹp dẫn ra đường cái nhựa.
Tình hình có vẻ "an ninh" trăm phần trăm như vậy. Nhưng quái thật! Đột nhiên tôi thấy lạnh buốt nơi xương sống y hệt bữa ở nhà một mình bị bé Thơ rình rập. Nhưng cảm giác ớn lạnh nơi đây lại còn khủng khiếp hơn: Tôi linh cảm Sáu Goòng đã... nhìn thấy hai thằng đang chạy băng qua đám cây rậm. Và tôi thấy sự đó vô lý quá sức. Hai tên gian đã quay lưng lại, cho xe chạy rồi, chúng tôi mới mò ra kia mà! Vô lý thì vô lý! Tiếng thét của lão Sáu tưởng chừng như đứng cách hàng cây số cũng còn nghe tiếng. Một trái bom nổ trúng giữa căn nhà bí mật tưởng hậu quả ghê gớm cũng chỉ tới cỡ đó. Gần một chục người, trừ tên Phồn ở trần, tất cả đều mặc quần áo xanh, chạy túa ra.
Trí hét lên:
- Lấy xe đạp! Mau!
Tôi lao người chạy như bay, giầy gần như không đụng mặt đất. Nhưng không hiểu sao tôi lại còn ngoái đầu ngó về phía xe hơi lão Sáu. A! Lạ thiệt! Không hiểu tại sao lão Sáu Goòng tự nhiên lại quay đầu xe trở lại hướng khu nhà. Và hai bánh sau xe loay hoay thế nào lại thụt xuống một cái hố bùn lớn ở trên mặt đường, chiếc xe quay ngang, chặn hết lối đi. Tên Đặng Lân ngồi bên đang gào hộc lên vì tức giận, giơ tay nắm thành quả đấm, dứ dứ vào mặt Sáu Goòng.
Hai đứa tôi nắm ghi đông xe đạp, phóng nhảy vút lên yên như những tên cao bồi chính hiệu, đầu óc mê muội đi không còn nhớ được cái gì nữa, ngoài vấn đề chúi đầu đạp xe như hai người điên vậy. Tới mép đường cái nhựa, bỗng Trí bóp phanh nghe cái "két". Anh hổn hển nói chẳng ra hơi:
- Kỳ quá! Mắc cỡ chết được! Thám tử gì mà lại sợ hãi đến như gần chết vậy không biết! Đạp xe muốn đứt hơi luôn.
Bực mình tôi phun một câu nói mát:
- Ờ há! Giá anh em mình cứ tà tà ở lại để chờ tụi nó ra mời "ngồi chơi xơi nước", thì hay hơn há!
Trí làm như không nghe câu nói móc của tôi, đưa ống viễn kính lên mắt, miệng lẩm bẩm:
- Để coi thử tại sao tụi nó không rượt theo tụi mình!
Anh im lặng quan sát có tới hai ba phút rồi đưa ống nhòm cho tôi: Qua ống kính, tôi thấy rõ chiếc xe của Sáu Goòng vẫn nằm ườn chắn ngang đường. Lão Đặng Lân đang cố gắng cho chiếc xe sơn đỏ của lão lách qua mà không được. Mấy tên quần áo xanh lố nhố đứng quanh chỉ chỉ chỏ chỏ giơ tay múa chân. Chắc chúng đang hò hét dữ lắm.
Tôi bảo nhanh Trí:
- Lợi dụng lúc này... vọt lẹ đi!
Suốt dọc đường hướng về Thủ Đức, chân đạp xe, đôi mắt Trí không ngớt liếc từng lùm cây, cột trụ, gò đống hai bên đường, miệng lẩm bẩm như học bài. Tôi biết là anh đang cố ghi vào trí nhớ mọi đặc điểm địa hình, địa vật trên suốt quãng đường dài... để một ngày kia... còn trở lại. Tôi thấy lạnh buốt nơi sống lưng như người sắp lên cơn sốt .
- Trí! Đâu rồi?
Trong bóng tối im lặng, đột nhiên nghe một tiếng "clic"; không đầy một phút sau, ánh sáng lại chan hòa . Anh mỉm cười vui vẻ:
- Đừng thắc mắc, nghe Chiêm! Mình đang làm nốt mấy "pô" chụp hình bằng ánh sáng đỏ!
Tôi nóng lòng báo cáo công tác nên không tò mò thắc mắc gì thêm về chuyện chụp mình bằng ánh sáng "tối" của anh.
Trí im lặng nghe tôi báo cáo công tác tường tận và đưa anh coi mấy đồng bạc cắc một đồng Việt Nam do chính tay tôi nhận được từ tay một nữ nhân viên Ty Bưu Điện. "Sếp" trừng mắt nhìn tôi:
- Chiêm làm cách nào lấy được mấy đồng này trong bưu kiện gởi cho Sáu Goòng ? Coi chừng việc làm này bất hợp pháp à nghe!
Tôi "trấn an" Trí:
- Anh yên tâm! Đây là kết quả tài ngoại giao của bé Thơ! Nữ nhân viên vui tính của Ty Bưu Điện, sau khi nghe bé Thơ giới thiệu tôi là đặc phái viên của một nhật báo lớn tại thủ đô, tờ Chuông Vàng, đã vui vẻ cho tụi tôi coi qua thành tích của Ban tiếp nhận và phân phát bưu kiện. Bà ta hy vọng sẽ được nêu tên và thành tích hoạt động phục vụ quần chúng lên trong báo lớn, nên đã cho tôi và bé Thơ chiêm ngưỡng mấy cái kệ lớn chất đầy bưu kiện. Trong số bưu kiện đó có một hộp các tông lớn để địa chỉ Sáu Goòng...
- Hộp các tông lớn cỡ nào ?
- Bằng cái thùng sữa! Nặng lắm! Bà nữ nhân viên cười hí hí cho biết rằng đã có lần Sáu Goòng đến nhận lãnh, lúc bê ra đáy thùng bị bục, há ra để lọt mấy chục đồng bạc cắc bò tung tóe. Bà ta phải giúp lão Sáu lượm lên, nhưng còn sót lại mấy đồng này trong khe quầy. Và bà này không hiểu sao lão Sáu Goòng mất công nhờ người đổi nhiều bạc cắc ở tận đâu về. Có hỏi thì lão cho biết đem về đổi cho các bạn hàng cần tiền lẻ để thối cho khách, cứ 100 đồng, lão lời được 5 đồng.
Trí cầm mấy đồng bạc cắc tiến lại phía bàn làm việc, cắm cúi đọc trong một quyển sách lớn. Dáng điệu anh chăm chú, và tôi tôn trọng triệt để giây phút im lặng của anh. Bỗng anh ngẩng mặt, tia mắt sáng ngời. Tôi biết là anh đã tìm được một cái gì lạ.
- Ê, CT3! Theo các tài liệu do cảnh sát sưu tầm về việc "đúc tiền giả", thì các tay chuyên viên phạm pháp này bao giờ cũng theo đúng kỹ thuật sau đây: Đun cho chảy lỏng đồng tiền nhỏ cùng một thứ kim loại với đồng chúng đã chọn làm "mục tiêu". Như vậy chúng không lo bị người khác nhận ra là đồng tiền giả bằng cách nhồi nhồi xuống sàn để nghe tiếng kêu. Còn hình vẽ trên hai mặt thì được thực hiện nhờ khuôn đúc. Tụi Sáu Goòng cũng đã tính kỹ lắm. Cứ 3 đồng cắc 1 đồng, thì đúc được thành một đồng hai chục. Như vậy, ta thử làm một con tính. Thùng bưu kiện bằng cỡ thùng sữa kim cương chẳng hạn. Mà mỗi thùng sữa có 48 hộp. Má tôi hay để tiền cắc 1 đồng vào lon sữa bò. Hễ đầy thì bà lại đem ra đếm, được trên dưới 500 đồng. Vậy 48 hộp tức là được (Trí quơ tay lấy bút chì và tờ giấy trắng, hí hoáy làm tính nhân)... 24.000 đồng. Mà cứ 3 đồng thì đổ khuôn được một đồng hai chục. Vậy 24.000 đồng bạc cắc một sẽ thành 8.000 đồng bạc 20. Nhân 8.000 với 20, ta có 160.000 đồng. Chiêm đã thấy lợi hại ghê chưa ? 24.000 đồng đã thành 160.000 đồng. Mà theo lời nữ nhân viên Bưu Điện cho biết thì trung bình mỗi tháng Sáu Goòng nhận được 8 lần. Vậy tổng cộng số tiền giả tụi chúng cho ra thị trường tiêu thụ là một triệu hai trăm tám chục ngàn đồng!
Tôi bất giác huýt gió:
- Vậy, cứ một tháng thì tụi Sáu Goòng lại có một tay trở thành triệu phú!
Trí đáp:
- Đúng như vậy, chứ còn gì nữa!... Nhưng tôi, tôi nhất định cương quyết không để tụi nó làm như vậy được! Chiêm thử tưởng tượng một số lớn các cụ già của chúng ta buôn thúng bán bưng, mỗi ngày lời lãi chừng trên dưới trăm bạc... mà trong số đó lại lẫn vào hai ba đồng hai chục giả thì còn có gì nữa đâu! Quả là một tai họa cho đồng bào nghèo khổ!
- Chúng ta báo cho cảnh sát ?
- Không! Chưa phải lúc, Chiêm à! Phải lùng cho ra bằng được sào huyệt đúc tiền giả của chúng đã . Đó là việc cần làm trước nhất!
- Mà bằng cách nào ?
- Theo hút lão Sáu Goòng!
Tôi cứ đứng ngây như tượng gỗ vì hai lý do: Lý luận của Trí thật đúng, thật sắc bén khiến tôi không cãi được, và tinh thần mạo hiểm của anh làm tôi sởn da gà. Tôi thú thực với anh là việc theo hút lão Sáu có vẻ "nguy" quá. Nhưng một lần nữa, tôi thua anh về tranh luận, và quay về nhà, đi lủi thủi như một kẻ bại trận nhưng không còn thắc mắc gì và sẵn sàng tuân lệnh "hành quân" của anh.
Sáng hôm sau, ba má tôi và chị An đi thăm bác tôi trên Túc Trưng. Ở nhà còn mỗi mình tôi, tha hồ làm vương làm tướng. Má tôi gọi tôi tới dặn cách thức sửa soạn để nấu bữa cơm chiều đặng ở Túc Trưng về sẽ có cơm ăn ngay. Rồi hai cụ cùng chị An lên xe đi hồi 9 giờ. Năm phút sau, Trí đã dựng xe đạp trước cửa nhà tôi. Trước ngực anh lủng lẳng một ống viễn kính lớn đựng trong bao da.
- Lên đường lập tức, CT3! Chúng mình phải có mặt tại địa điểm quan sát khi người phu trạm đem bưu kiện đến cho Sáu Goòng! Nào, ta dông!
Không biết chắc là Sáu Goòng có nhận được bưu kiện nội ngày hôm đó không, nhưng chúng tôi cứ liều. Biết đâu! Vậy mà hai anh em tôi lại thắng cuộc! Quả nhiên người phu trạm đã dừng lại trước cửa tiệm Sáu Goòng. Lão này xuất hiện, nhận hàng. Mấy phút sau, y đã khệ nệ khiêng "thùng sữa" tới bên một chiếc xe hơi đậu gần đó.
Trí căn dặn tôi:
- Đừng theo sát quá, nghe Chiêm! Lão Sáu để ý ngó thấy là mệt ạ!
Việc theo hút một người lái xe hơi trong thành phố mà kẻ theo hút lại chỉ đạp xe đạp quả là một việc không mấy khó. Vì đường phố chật hẹp, đông xe cộ và đèn xanh đèn đỏ đủ thứ... Nhưng ra đến ngoại ô thì lại là chuyện khác. Đường tương đối trống vắng hơn, Sáu Goòng tăng gia tốc độ. Hai anh em cắm cổ đạp, nhưng khoảng cách cứ xa dần. Tới một con đường dốc khá cao, lại thêm gió ngược, hai chiếc xe đạp chỉ còn rì rì như người đi bộ... Ngước mắt nhìn: Sáu Goòng và chiếc xe hơi đã mất hút.
Tôi càu nhàu lên tiếng, khi cả hai đã leo hết quãng đường dốc:
- Quái! Đường trước mặt thẳng tắp và xa hun hút thế kia mà xe của lão biến đâu mất ?
Trí im lặng, đưa tay lên lấy ống nhòm quan sát chung quanh. Đột nhiên anh reo lên, và đưa tôi ống viễn kính:
- Chiêm! Coi này! Bãi ruộng thấp kia kìa, có cái nhà sau một lùm cây lớn rậm đó, thấy không ?
Quả thật, giữa tàng cây xanh đậm, nhô lên một mái nhà nhọn hoắt.
Giọng tôi đượm vẻ hoài nghi:
- Anh cho lão đã chạy xe vào nơi đó ?
- Còn gì nữa! Chung quanh đây còn có cái nhà nào nữa đâu ? Nhưng dù sao chúng mình cũng phải lùng xét kỹ một tua.
Hai anh em quay tìm một con lộ dẫn về hướng lùm cây rậm lá đó. Lại nhẩy lên yên, chúng tôi thả cho xe lăn bánh theo con đường đất rộng chừng hơn hai thước,dốc xiên xiên. Tôi nói to át cả tiếng gió:
- Trời ơi! Anh định cứ lừng lững thế này đến gõ cửa cái nhà đó hả ?
Trí không trả lời. Anh im lặng xuống xe, dúi sâu con ngựa sắt vào trong bụi sim rừng rậm lá, và ngoắc tay bảo tôi giấu xe:
- Gần tới rồi! Khom người xuống mà tiến lại khu nhà đó nghe! Đừng gây tiếng động đó!
Đừng gây tiếng động quả thật là khó! Bãi gì mà đầy vỏ bia hộp, chai lọ vỡ, khẽ đụng là kêu lanh canh rộn lên. Khó thật! Đúng là một bãi đổ rác! Càng lom khom bò tới gần, tôi lại càng cảm thấy sống lưng lạnh buốt. Nếu dự đoán của Trí mà đúng thì thật quả là hai đứa tôi đang bò vào... động sói.
Trước mắt, khu nhà hiện ra rõ rệt. Thì ra, đây chỉ là một căn nhà lớn, bỏ hoang phế từ lâu.
Trí rỉ khẽ bên tai tôi, mũi anh chạm sát đất:
- Ngó vào sâu coi, Chiêm!
Từ từ ngóc đầu lên, tôi thấy rõ cái thùng tróc sơn phía sau xe của Sáu Goòng. Trí bò bốn chân, tiến lên mấy thước nữa. Tôi cũng bám sát theo. Sân trước mặt đã hiện ra một khoảng lớn: Hai anh em lại bắt gặp hai cái xe nữa, một cái màu đỏ của Đặng Lân, còn cái kia là một cái xe "cam nhông nết". Phía sau hai chiếc xe là một gian nhà xe rộng, cửa làm bằng những thanh gỗ đóng thưa.
Từ trung tâm nhà cổ vẳng ra một loạt tiếng động gì nghe rầm rì đều đều như tiếng máy chạy. Tiếng Trí lọt vào tai tôi:
- Máy rập tiền giả đấy!
Nhưng chú ý lắng tai kỹ thì lại nghe có một thứ tiếng gì xình xịch như tiếng một cái động cơ. Trí đoán được ngay thắc mắc của tôi:
- Phải có hơi điện thì máy đúc tiền của chúng mới chạy được chứ! Tiếng xình xịch là động cơ phát điện đấy!
Hai ba phút sau, tôi đã nhận thấy một làn hơi phụt theo đám khói đang tỏa ra nơi đầu ống khói tại phía trên mái dãy nhà xe rộng.
Tôi khẽ lẩm bẩm:
- Đây chắc là lò nung chảy kim khí!
Giả thuyết của tôi được chứng nghiệm tức khắc. Vì ngay lúc đó Đặng Lân cùng với Sáu Goòng xuất hiện từ trong gian nhà rộng bước ra. Qua khung cửa mở, tôi trông thấy rõ ràng một người đàn ông ở trần trùng trục, hai tay nắm một thanh tre thật lớn đặt trên một cái lò thật bự cháy bằng gaz. Gần đó, có mấy cái bình to, loại bình sắt dầy vẫn dùng để đựng dưỡng khí hoặc khí đá.
Nhưng tất cả tâm trí của hai đứa tôi đều tập trung vào hai nhân vật chính: Đặng Lân và Sáu Goòng.
Hai người này bước qua sân rộng, đặt chân lên một con lộ nhỏ... tiến thẳng về phía chúng tôi. Chẳng ai phải bảo ai, Trí và tôi dán sát hết cỡ thân mình, rúc sâu vào đám cỏ rậm. Tôi có cảm giác như có một mãnh lực mầu nhiệm vô hình nào đó đã xui khiến làm họ mờ mắt không bắt gặp chúng tôi. Chân bước, tia nhìn họ ghim xuống đất, cả hai chìm đắm trong câu chuyện mải mê. Tiếng Đặng Lân khen Sáu Goòng nghe như có hơi men hừng hực của một ly rượu mừng:
- Anh Sáu! Bốn cái khuôn của anh quả đáng "mê" thật! Nhất là đôi khuôn 12 cạnh. Nguyên liệu dồi dào lắm rồi. Rập thử đồng mẫu 12 cạnh đó, như anh khó tính thế mà còn phải chịu là đẹp, huống hồ tụi tôi. Vậy chiều nay cho rập hết cả chỗ nguyên liệu thằng Phồn đang nung chẩy đó nghe!
Sáu Goòng đưa tay mở cửa chiếc xe của lão và ngồi vào ghế lái. Cả hai tên gian đều xây lưng về phía Trí và tôi đang nấp. Lúc này chẳng chuồn thì còn đợi lúc nào ? Chúng tôi đã "nhìn" thấy nhiều cái "hay" quá rồi! Hai anh em vạch cỏ mà đi lom khom tìm đường ra cùng lúc với Sáu Goòng mở máy cho xe lăn bánh chạy trên con đường đất hẹp dẫn ra đường cái nhựa.
Tình hình có vẻ "an ninh" trăm phần trăm như vậy. Nhưng quái thật! Đột nhiên tôi thấy lạnh buốt nơi xương sống y hệt bữa ở nhà một mình bị bé Thơ rình rập. Nhưng cảm giác ớn lạnh nơi đây lại còn khủng khiếp hơn: Tôi linh cảm Sáu Goòng đã... nhìn thấy hai thằng đang chạy băng qua đám cây rậm. Và tôi thấy sự đó vô lý quá sức. Hai tên gian đã quay lưng lại, cho xe chạy rồi, chúng tôi mới mò ra kia mà! Vô lý thì vô lý! Tiếng thét của lão Sáu tưởng chừng như đứng cách hàng cây số cũng còn nghe tiếng. Một trái bom nổ trúng giữa căn nhà bí mật tưởng hậu quả ghê gớm cũng chỉ tới cỡ đó. Gần một chục người, trừ tên Phồn ở trần, tất cả đều mặc quần áo xanh, chạy túa ra.
Trí hét lên:
- Lấy xe đạp! Mau!
Tôi lao người chạy như bay, giầy gần như không đụng mặt đất. Nhưng không hiểu sao tôi lại còn ngoái đầu ngó về phía xe hơi lão Sáu. A! Lạ thiệt! Không hiểu tại sao lão Sáu Goòng tự nhiên lại quay đầu xe trở lại hướng khu nhà. Và hai bánh sau xe loay hoay thế nào lại thụt xuống một cái hố bùn lớn ở trên mặt đường, chiếc xe quay ngang, chặn hết lối đi. Tên Đặng Lân ngồi bên đang gào hộc lên vì tức giận, giơ tay nắm thành quả đấm, dứ dứ vào mặt Sáu Goòng.
Hai đứa tôi nắm ghi đông xe đạp, phóng nhảy vút lên yên như những tên cao bồi chính hiệu, đầu óc mê muội đi không còn nhớ được cái gì nữa, ngoài vấn đề chúi đầu đạp xe như hai người điên vậy. Tới mép đường cái nhựa, bỗng Trí bóp phanh nghe cái "két". Anh hổn hển nói chẳng ra hơi:
- Kỳ quá! Mắc cỡ chết được! Thám tử gì mà lại sợ hãi đến như gần chết vậy không biết! Đạp xe muốn đứt hơi luôn.
Bực mình tôi phun một câu nói mát:
- Ờ há! Giá anh em mình cứ tà tà ở lại để chờ tụi nó ra mời "ngồi chơi xơi nước", thì hay hơn há!
Trí làm như không nghe câu nói móc của tôi, đưa ống viễn kính lên mắt, miệng lẩm bẩm:
- Để coi thử tại sao tụi nó không rượt theo tụi mình!
Anh im lặng quan sát có tới hai ba phút rồi đưa ống nhòm cho tôi: Qua ống kính, tôi thấy rõ chiếc xe của Sáu Goòng vẫn nằm ườn chắn ngang đường. Lão Đặng Lân đang cố gắng cho chiếc xe sơn đỏ của lão lách qua mà không được. Mấy tên quần áo xanh lố nhố đứng quanh chỉ chỉ chỏ chỏ giơ tay múa chân. Chắc chúng đang hò hét dữ lắm.
Tôi bảo nhanh Trí:
- Lợi dụng lúc này... vọt lẹ đi!
Suốt dọc đường hướng về Thủ Đức, chân đạp xe, đôi mắt Trí không ngớt liếc từng lùm cây, cột trụ, gò đống hai bên đường, miệng lẩm bẩm như học bài. Tôi biết là anh đang cố ghi vào trí nhớ mọi đặc điểm địa hình, địa vật trên suốt quãng đường dài... để một ngày kia... còn trở lại. Tôi thấy lạnh buốt nơi sống lưng như người sắp lên cơn sốt .
_________________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG XV