1. Sau nhà ông ngoại tôi có một khoảng đất nhỏ trồng hoa do chính tay
ông bốn mùa bắt sâu, tưới nước. Chỉ là những loại hoa thường thấy trong
các ngôi vườn Huế nhưng dưới đôi mắt bé thơ của tôi, bàn tay khéo léo
của ông như có phép mầu. Những cánh mộc lan trở nên tím biếc. Khóm
nguyệt quế trắng ngần tỏa ngát hương thơm. Thược dược, hồng nhung, cẩm
chướng… lung linh những sắc màu huyền ảo. Đặc biệt là mấy gốc hoàng mai,
cứ mỗi độ Xuân về, ông chăm sóc kỹ lắm. Những ngày giáp tết, niềm vui
của ông là mời bạn bè đến thăm vườn, uống trà thưởng hoa, sau đó tặng
mỗi người một nhành mai mang về chưng tết.
Trong khi đó, bà ngoại
tôi tất bật làm hàng bán tết. Nào là mứt bánh, dưa món, củ kiệu… lại còn
thêm những món cao cấp như nem, tré, chả lụa, chả bông… Bà huy động tất
cả các thành viên trong gia đình, không phân biệt nam nữ (dĩ nhiên là
phải chừa ông ngoại ra). Hồi ấy, trừ mẹ tôi, các cậu, các dì tôi chưa
lập gia đình, nhà đông như kiến. Chủ trương “lớn làm việc lớn, nhỏ làm
việc nhỏ”, suốt ngày, bà truyền lệnh: “Thằng Ti chở hàng, thằng Tô quết
thịt…”, rồi thì: “Con Nết in bánh, con Na xên mứt…” Tôi còn nhỏ xíu vẫn
không thoát: “ Bé Chút ra vườn coi mấy nia củ cải, cà rốt cho mệ làm dưa
món.” Có lần tôi ham nhảy lò cò, trời mưa không kịp đem vô, bị bà ngoại
đánh cho ba roi, còn “mắng vốn” mẹ: “Mi cưng con quá hóa hư”.
Bà
ngoại tôi khéo tay lắm. Cứ nhìn lọn nem bà gói, miếng mứt bà tỉa, sắc
óng mật hũ dưa món bà làm, quả xứng danh là “cao thủ”! Cao–thủ–không–chuyên–nghiệp nên mỗi lần tết đến, bà chỉ nhận “đơn đặt hàng” của bà
con, bạn bè thôi. Vậy mà các dì, các cậu tôi vẫn than: “Chán mạ quá,
nghỉ tết mà không được đi mô, suốt ngày cứ chúi đầu vô mấy cái mứt
bánh.” Hoặc : “Trai nam nhi mà phải quết thịt, gói bánh. Mạ ác quá.” Vậy
là bà ngoại nổi cơn tam bành: “Tổ cha bây chớ ác. Không làm thì cạp đất
mà ăn à.”
Trong các khâu làm hàng tết, tôi thích nhất là nhìn dì
Nết in bánh. Tôi thường ngồi cạnh dì, chăm chú nhìn những ngón tay trắng
hồng để cái khuôn rỗng lên mâm bột, đẩy qua đẩy về nhè nhẹ, rồi dùng
tay kia dồn thêm bột nén vào thật chặt, xong dì đặt lên trên một cái nắp
có chạm trổ ở mặt dưới. Tay dì thoăn thoắt xoay vòng, đồng thời hai
ngón cái ấn lên nắp khuôn. Rất nhanh, dì đẩy cái khuôn rỗng ra, rồi nhấc
nắp lên. Thế là hiện ra trước mắt tôi những chiếc bánh vuông vức khắc
hình rồng phụng tuyệt vời. Có lần tôi nói: “Dì Nết dạy cháu làm với.” Dì
cười hiền lành: “Ừ, nhưng Chút đừng cho mệ biết nghe.” Kể ra tôi cũng
hơi bị thông minh. Thao tác vài lần, tôi làm nhanh hơn cả dì Nết, có thể
đỡ đần được cho dì, tuy bánh tôi in không thể sắc sảo như “tác phẩm”
của dì.
Sáng 23 tết, bà ngoại sửa soạn đi chợ mua đồ cúng ông Táo.
Tôi níu áo bà: “Mệ ơi, cho cháu đi với.” “Không được. Chợ tết đông đúc
lắm, lạc đường chừ.” Rồi bà hối: “Nết ơi, lo in cho xong mâm bánh để kịp
gói sáng mai giao hàng nghe con. Mạ đi công chuyện chiều mới về.”. Tội
nghiệp dì Nết. Năm đó, dì mới quen chú Vinh học bên Sư Phạm, nhưng cứ
bận suốt, không có cả thời gian hẹn hò. Dì ngồi từ sáng đến xế chiều,
lưng mỏi cứng đơ. Bỗng mắt dì sáng lên khi thấy chú Vinh xuất hiện sau
hàng chè tàu: “Phương, (Phương là tên khai sinh của dì) đi ciné nghe.
Châu Tinh có phim hay lắm, anh mua vé rồi.”. Dì ngó trước ngó sau rồi
ngoắc tôi: “Còn khoảng mười mấy cái, Chút in dùm dì nghe.” Tôi chưa kịp
gật đầu, dì đã phóc vô buồng thay quần áo. Cả nhà, ai cũng đồng tình để
dì Nết đi chơi, trừ bà ngoại. Tôi hét lớn: “Mệ đi vắng rồi, khỏi lo.”
Không biết tôi lanh chanh thế nào mà khi in, tay nén của tôi không được
chặt, đến khi gói, mấy cái bánh sau cùng đều bị móp méo hoặc sứt mẻ. Bà
ngoại la dì Nết : “Con gái chi mà vụng về khê thúi.” Dì nheo mắt nhìn
tôi, tôi le lưỡi nhìn dì, không ai dám hé răng.
2. Khoảng đầu tháng
chạp, đối diện nhà tôi bỗng hiện lên một hiệu uốn tóc mang tên Lệ Túy,
khách vào ra khá tấp nập. Dì Na nói với dì Nết: “ Cô Lệ Túy này mới tốt
nghiệp một khóa Thẩm mỹ ở Sài Gòn đó.” “Răng mi biết?” “Em có vô trong
tiệm coi, thấy cô treo cái bằng to lắm, sang trọng lắm.” Suy nghĩ một
lát, dì Na thì thầm: “Em… định uốn tóc, chị thấy được không ?” Dì Nết
tròn mắt: “Coi chừng giống Ma rốc keng đó (người da đen xứ Ma Rốc).” “Em
tính rồi. Em sẽ dẫn con bé Chút đi trước.” Năm đó, tôi mới 8 tuổi, học
lớp ba trường dòng Mai Khôi. Vì quá nhỏ, tôi không hề biết mình sắp làm
vật “thí nghiệm” cho dì Na. Nghe dì nói chủ nhật tới sẽ cho đi uốn tóc,
tôi mừng hết lớn, tối nào cũng mơ mình có mái tóc dợn sóng đẹp như các
cô đầm nhỏ in trên mấy tờ chương trình ciné. Nào ngờ, sau hai tiếng đồng
hồ bị tra tấn (kẹp uốn tóc nặng như cùm), nhìn vào gương, tôi òa lên
khóc. Trước mặt tôi là một con bé lạ hoắc, tóc trên đầu quăn tít như lò
xo đang ngó tôi bằng đôi mắt ướt nhèm. Tôi dậm chân thình thịch: “Không
biết, đền tóc lại cho Chút.” Cô Lệ Túy ôm vai tôi, vỗ về: “Không sao
đâu. Nay mai tóc cháu sẽ bớt quăn và rất đẹp cho mà xem.” Tôi ráng đi
ngủ sớm. Sáng mai thức dậy, tóc vẫn như Ma rốc keng, tôi nhất định không
đi học. Cậu Tô cho tôi thỏi chocolat, rồi ấn cặp sách vào tay, dỗ dành:
“Chút ngoan, lên xe cậu chở.” Đến trường, bạn bè xúm lại xem làm tôi
muốn độn thổ, tụi con trai còn hát chọc: “Ai bảo phi dê (tóc frisé = tóc
uốn) là đẹp, phi dê xấu lắm chứ. Đầu phi dê như bãi c… trâu, và như cái ổ
rơm.” (nhại theo bài Em Bé Quê của Phạm Duy). Lại khóc. Lại đòi nghỉ
học. Cậu Ti an ủi: “Cháu đừng lo. Người xưa thường bảo, xấu mặt thì lâu,
xấu đầu mấy tí. Chút của cậu xinh đẹp như vậy, sợ gì chớ.”
Cậu Ti
nói đúng, cả cô Lệ Túy cũng đúng nữa. Khoảng hai tuần sau, mái tóc tôi
trở nên mềm mại không ngờ. Những lớp tóc bớt quăn, xếp so le như làn
sóng ôm lấy đầu, làm gương mặt tôi trở nên rạng rỡ khiến dì Nết phải kêu
lên: “Bé Chút dễ thương quá.” Dì Na được dịp kể công: “Nhờ dì mà Chút
mới đẹp đó. Rứa mà chưa chi Chút đã méc mệ làm mệ la dì.” Dì Na cũng có
lý. Trong buổi liên hoan văn nghệ mừng xuân, nhờ mái tóc đặc biệt, tôi
được soeur Thérèse chọn đứng giữa trong đội hình múa của trường. Vũ khúc
“Thiếu nữ Việt Nam” múa trên nền nhạc của Lưu Hữu Phước: “Trông hoa
xuân thắm tươi trên muôn cành, lòng niên thiếu chan chứa hương xuân…”
đạt được giải nhất.
3. Mấy ngày tết, tôi thường theo ông ngoại đi thăm bà con, bạn bè của ông (để lấy tiền lì xì). Nếu người lớn gây sòng đánh tứ sắc, mạt chược, thì tôi theo đám trẻ con đi đánh bài vụ. Trò chơi gồm một bản vẽ các con vật màu mè sặc sỡ tương tự như bản vẽ bầu cua, nhưng nhỏ hơn, được dán trên một cái bàn thấp, và một cái bông vụ bằng gỗ nhỏ cỡ đốt ngón tay hình lăng trụ tám mặt, mỗi mặt in hình một con vật. Lâu rồi tôi không nhớ rõ, hình như là trâu, heo, ngựa, rùa, tôm, cá, voi, ếch (!?). Người chủ cái xoay vụ quay tít trên dĩa, rồi úp kín cái tô lên, miệng la lớn: “Đặt vô, đặt vô…một ăn sáu… rồi chưa? Cất tay, cất tay…” ồn ào từ đường cái cho đến góc vườn, ngõ hẻm. Đánh một giác (cắc), trúng được chung sáu giác, đánh hai giác ăn một đồng hai.
Tôi thích nhất là đổ xăm hường, đây là trò chơi trong vòng gia đình
thân mật. Ông ngoại tôi có một bộ xăm hường bằng ngà rất đẹp. Ông quý
lắm, chỉ lấy ra chơi trong ba ngày tết. Bộ xăm hường gồm nhiều thẻ dài
ngắn, có những giá trị khác nhau. Người tham gia nắm 6 hột tào cáo (xí
ngầu) thả vào cái tô lớn, cứ ra một mặt tứ (bốn nút) là được thẻ “nhất
hường”, hai mặt tứ thì được thẻ “nhị hường”… Tôi không nhớ bao nhiêu
loại thẻ, chỉ nhớ đứng đầu bảng là thẻ “Trạng Nguyên” còn gọi là “Trạng
Anh”, tiếp đến là hai thẻ “Trạng Em”. Đổ được 4 mặt tứ sẽ được “Trạng
Anh”, tổng số nút trên hai hột còn lại sẽ là tuổi của Trạng. Nếu người
phiên sau cũng đổ được 4 mặt tứ, số tuổi Trạng lớn hơn, sẽ giật Trạng
của người phiên trước. Nhớ có lần tôi đổ được Trạng 11 tuổi, chắc ăn như
bắp. Nào ngờ, cầm Trạng chưa nóng tay đã thấy dì Na đổ được 4 mặt tứ,
còn lại là hai mặt lục. Dì reo lên: “A, Trạng của tao 12 tuổi! Đưa đây,
Chút!”. Thế là tôi ôm chặt Trạng, dụi đầu vào lòng ông ngoại, khóc la ỏm
tỏi: “Ôn, coi dì Na tề.”. Ông ngoại cười, xoa đầu tôi rồi bảo dì Na:
“Thôi, nhường cho cháu, đổ lại đi.” Dì Na kí vào đầu tôi: “Đồ ăn gian
không biết dị.”
4. Ông ngoại cưng tôi, bà ngoại còn cưng tôi gấp
bội. Tuy tuổi già hơi chướng, nhưng đi đâu bà cũng dắt tôi theo, lại còn
đem cả những tấm bảng danh dự của tôi khoe với bạn bè: “Cháu tui học
giỏi chưa?” Thích nhất là đi hội chợ với bà ngoại, tha hồ được ăn mặc đẹp
lại thêm bánh kẹo rủng rỉnh đầy túi. Hội chợ thường được tổ chức vào
những ngày gần tết kéo dài cho đến giữa tháng giêng. Qua mồng năm, mồng
sáu, việc nhà rảnh rỗi, chiều nào bà ngoại cũng dắt tôi đi, rong chơi
cho đến tối mịt mới về. Hội chợ được hình thành trên một khoảng đất rất
rộng (hình như là bến Thương Bạc (?!), gồm những gian hàng treo đèn kết
hoa rực rỡ, cùng nhiều trò chơi hấp dẫn du khách như ném vòng đầu vịt,
đánh lô tô, quay số… Bà ngoại thường ghé gian hàng du lịch “mua vé” để
tìm vận may. Cách chơi cũng đơn giản. Sau khi bán hết vé, chủ gian hàng
bấm nút điện điều khiển một chiếc máy bay cất cánh, quay vòng vòng rồi
đáp xuống một trong các sân bay được vẽ trên sàn gỗ bóng loáng: Huế, Đà
Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn, Cần Thơ… nếu máy bay ghé đúng địa
danh ghi trên vé, chủ vé sẽ được trúng thưởng. Phần thưởng khiêm nhường
thôi, nhưng chủ yếu là vui. Vui nhất là nghe những lời văn hoa sáo rỗng
của anh chàng bán vé: “Mua dzô, mua dzô… mời quí vị du lịch một vòng để
ngắm nhìn giang sơn cẩm tú. Đây Đà Nẵng với Ngũ Hành Sơn bốn mùa lộng
gió, bãi biển Tiên Sa sóng vỗ dạt dào… Đây Qui Nhơn với hàng dương liễu
ngàn đời ôm ấp trái tim chàng thi sĩ tài hoa bạc mệnh… Đây Nha Trang,
miền quê hương cát trắng…Đây Sài Gòn, hòn ngọc viễn đông…” Có lần bà
ngoại đưa tiền cho tôi: “ Tay cháu hên, cháu mua vé đi.” Tôi chọn mua vé
đi Huế và trúng được một cái… bình thủy! Cho nên thích nhất vẫn là câu:
“Huế đẹp Huế thơ, Huế mơ Huế mộng, Huế với cầu Trường Tiền 6 vài 12
nhịp, với bến Phu Văn Lâu ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm ai thương ai cảm
ai nhớ ai trông …”
Hơn nửa thế kỷ trôi qua, nhưng mỗi lần nhắc đến kỷ niệm xưa, lòng không khỏi bùi ngùi …
THÙY AN