Mụ
kiên nhẫn ngồi thu lu nấp sau bụi hoa dạ lý hương. Mùi phân vịt của chuồng cạnh
kề nồng át. Cửa chuồng toang hoác. Lũ vịt đi tắm mãi tận ao hàng xóm. Tụi gà
con xục xạo “chíp chíp” ỏm tỏi. Vài đứa chỉ chực băng vào chuồng vịt. Nhưng chị
gà mái dè dặt và đáo để. Chị “tục tục” réo gọi mấy đứa tò mò háu đói. Có lẽ chị
linh cảm chuyện gì ghê gớm sắp sửa xảy ra. Chuyện phải đến rồi cũng đến. Mụ
không nén nổi cơn đói hoành hành cái bao tử lép xẹp nên vút ra. Chị gà mái chỉ
kịp thấy vệt vàng sậm táp nhanh hai khối tròn vàng tươi và phóc sang bụi tre
gai. Chị gà mái thảng thốt la cầu cứu vang sân vắng. Phụ họa chị có tiếng lũ
con nhốn nháo, đứa thì chạy tản ra, đứa thì chụm lại dưới cánh bà mẹ lơ đễnh.
Chị gà mái băng băng định rượt theo con vật kẻ thù. Tiếc thay chị không có được
khứu giác bén nhạy. Chị mất dấu từ chỗ hàng rào. Dòng máu rơi rớt từ những cái
cổ non xinh nõn nà chợt đứt quãng trên bờ đất đen. Chị gà mái dừng lại và ngơ
ngác. Một đám ngơ ngác kéo theo đuôi. Tụi nhỏ lại bàn cãi nhau và giành giựt
một con giun chỉ. Chúng chẳng cần biết vừa mất hai đứa trong bọn. Mà nếu có
biết ư? Càng tốt, đỡ hai miệng ăn!!!
Giá
mà chị gà mái chịu khó thêm một đoạn đường nữa. Quanh co lối tẩu thoát dẫn đến
một gò nổng, có một cửa hang, sâu thẳm. Trong đó có mụ già đang nhấm nháp với
bữa ăn ngon. Từ những khe, hốc tụi kiến đen rủ nhau len vào đám lông tơ mịn
màng, là những gì còn sót lại sau cái liếm mép của mụ già.
Mụ
già vẫn chưa no. Mon men mụ trở lại đường cũ. Có tiếng chó sủa bâng quơ. Mụ chỉ
kịp nhìn thấy cửa chuồng vịt đóng chặt thì vội rút lui. Lũ vịt cũng đã thấy mụ.
Chúng la báo động hỗn loạn. Mặc chúng, chị người làm nhanh tay xắt chuối cây
nhanh hơn. Chị tưởng vịt đang đói. Con dao phay trên tay chị bén ngót. Tiếng
thép chạm vào thớt gỗ me nghe lạnh lùng. Lạnh lùng như tiếng sủa của gã chó cao
lớn và thính hơi. Mụ lì lợm lẩn quẩn gần đó tìm lũ gà, không sợ sự canh tuần
của gã chó Đức. Cái ngữ lớn xác ấy chỉ tổ vướng víu bởi lùm bụi và cây cối um
tùm trong vườn. Vả lại mụ có thể trèo cây nếu cần, tuy rằng móng vuốt của mụ đã
có vẻ cùn vì thời gian.
Mụ
già chợt thụp mình và xoay chạy. Mụ leo quýnh lên cây xoài lão. Dưới gốc gã chó
Đức ỏm tỏi. Cặp mắt sáng quắc của gã cố chọc thủng bóng đêm dần đổ ập xuống vạn
vật. Trên một chạc ba, 2 đốm mắt xanh lè
của mụ già láo liên, lo lắng tìm lối thoát. Chị người làm phân bua với chủ nhà
đang túa ra:
-
Con chồn… Cha chả, con chồn thiệt là lớn. Chính nó đã bắt trộm gà vịt lâu nay.
-
Mà mày thấy rõ không đó? – Bà chủ gay gắt hỏi gặng lại.
-
Rõ ràng con chồn mà. Xóm trên hổm rày họ báo động có cáo về…
-
Xóm trên họ ở gần rừng, mày đừng ẩu.
Ông
chủ nạt cô tớ.
-
Thiệt mà, hay là con chồn cáo. Ông bà chủ không nghe có đứa con nít mới biết đi
chập chững vừa bị nó cắn cổ chết tươi?
-
Mày sao ưa nhập chuyện nọ qua chuyện kia quá đi. Đứa nhỏ bị rắn hổ hành cắn
chết, chứ chồn cáo gì mà cắn người ta.
Chị
người làm vẫn bênh vực lý lẽ của mình:
-
Con nhất định là con chồn cáo. Mấy cái ổ gà đẻ của mình cứ mất trứng hoài hà.
-
Mày phải biết rắn hổ hành mới là ghê hơn. Mình nó tiết ra mùi hôi khiến gà vịt
sợ và nín khe, nó tha hồ bắt gà vịt nói gì ba cái trứng.
Bà
chủ tiếp lời chồng:
-
Mày coi mấy cửa nẻo chuồng gài cho cẩn thận. Biểu mấy em chơi trong nhà. Còn
con Lu này nữa, đi vô. Mày xích cổ nó, để rủi rắn cắn thì toi con chó quý.
Mà
gã chó quý thật. gã học trường nọ ở Sàigòn trọn khóa, đủ môn như nhảy cao, nhảy
vòng, nhảy rào, sẵn sàng giữ nhà, nghe hiệu lệnh để bắt trộm… Có lẽ trừ môn bắt
rắn thì chưa mà thôi.
Mụ
già nghe chừng êm, tuột xuống, trong lòng ấm ức. Bây giờ mụ đảo sang khu vườn
bên. Mấy cặp ngỗng gan góc “cà kíu” vươn cổ hầm hừ. Mụ nhịn nhục thầm nghĩ:
-
Hừ! Sợ gì cái bọn a dua, mụ chỉ lo chủ nhà hay biết, họ sẽ theo dõi tận hang ổ.
Và
mụ lững thững trở về, chẳng cần ẩn giấu thân mình. Vài chú dơi bay chập choạng.
Trên ngọn cây gòn, gã cú heo đập cánh di động theo lộ trình của mụ. Đã đến giờ
của bọn ăn đêm hoạt động. Thình lình gã cú heo sà xuống mổ nhanh. Mụ già may
mắn tránh được nhờ ánh trăng non in bóng gã cú. Gã tưởng lầm mụ già là một chú
thỏ béo hay chú cầy hương nhát nhúa. Mụ già lùi về gốc gòn thủ thế, miệng gầm
gừ trả đũa. Gã cú heo lỡ bộ xớt ngang đợt nữa và mụ già cũng phản công hụt. Hai
địch thủ gờm nhau trong tư thế dị kỳ. Cuối cùng gã cú heo bỏ mục tiêu bay mất.
Mụ
già xoay ý nghĩ về chỗ ngụ. Nơi đó mụ sẽ phải đối phó với một ông lão ăn xin
đáng ghét. Ông lão ban đầu ngủ tạm trên nền cái mả hoang. Dần dà che căn chòi
nhỏ sơ sài bằng ba mớ thùng giấy. Ông lão hấp dẫn một số trẻ con nghịch ngợm.
Trẻ hay rượt để chọc “ông già điên”. Trái lại ông già thật hiền, đi xin ăn và
lượm mót ở mấy đống rác suốt ngày. Mụ không thể chấp nhận ông láng giềng bất
đắc dĩ nầy được. Bởi vì mụ đào ngách vùng này trước. Thuở vùng này còn là rừng
thưa, nay đã thành trảng sụp. Thỉnh thoảng ông láng giềng gặp mụ trong khuya
khoắt. Ông lão hấp háy cặp mắt mờ và thản nhiên xua xua cây gậy tre láng bóng.
Và mụ dĩ nhiên chẳng bằng lòng cử chỉ ấy chút nào. Dù rằng đôi khi mụ phải nhờ
vả đến ông lão. Chẳng qua là vì “miếng ăn là miếng tồi tàn”, mà lúc quá đói mụ
đành phải lén tha xương cá, xương gà… về liếm láp. Mụ tự biện hộ cho hành vi ấy
: “ Có sao, thứ cặn thừa ông lão hốt vét của thực khách ở tiệm cơm kia mà”.
Riết
rồi mụ phải bám vào ông lão để sống ký sinh. Có những hôm trời mưa tầm tã mụ
rúc trong hang âu sầu. Chốc chốc lại ló ra cửa hang trông chờ ông lão. Càng
ngày mụ càng gầy rạc, người càng yếu. Mà càng yếu lại càng khó tự kiếm ăn. Lại
càng mất sức càng đói hơn. Cho đến một hôm… Ông lão về sớm hơn lệ thường. Mụ
thấy ông lôi từ trong cái bị rách một con gà quay vàng cháy thơm nức mũi. Chắc
hẳn của ông lão mua bằng tiền đi xin dành dụm bấy lâu. Ông lão loay hoay với
thẻ nhang và một cốc rượu đế. Mụ thấy ông lão trầm ngâm khấn vái, rồi ông lão
gục đầu vào đôi tay răn reo khóc nức nở.
Ăn
nhằm gì mụ, mụ chỉ liên tưởng đến lằn da nứt ra vì lửa than của con gà đang
khiêu khích. Con gà nằm vô duyên trên mấy lớp nhật trình cũ mèm. Mụ cuỗm nhẹ
con gà và lôi tuột vào hang. Nước miếng của mụ ứa ra. Hai hàm răng cái còn cái
mất run rẩy. Mụ nhủ thầm : “ Con gà đã chết, mình đừng cảm xúc vì mấy tháng nay
mới được chén một tiệc no đủ như vậy chứ. À, ông già, chắc ông ta sẽ trở ra phố
xin thêm. Chao ôi! Ai mà tốt bụng rộng rãi với ông già quá?”
Như
nắng hạn gặp mưa rào, con gà chỉ mới lưng bụng mụ già. Mụ thèm thuồng trổ một
ngách hang khác chui ra. Ông lão không đến nỗi ngốc đang bực tức dùng gậy quậy
cửa hang chính, rành rành giọt mỡ tươm đóng cục mà tụi kiến nhỏ hả hê đánh
chén.
-
Con quái chắc chén no nê. Đồ “chết đói” gì đâu. Có ngày người ta đập “chết
dịch”. Không nhờ lão, bọn trẻ nó hun khói thì cũng “chết cháy” rồi.
Rồi
ông lão ngừng rủa “con quái”, ngồi thừ ra kể lể với kỷ niệm, ôn lại chuỗi ngày
xưa còn bên vợ bên con. Ông lão lè nhè. Cốc đế cạn nhanh. Lâu ngày mới nhậu,
lại mất toi mồi nhắm dằng dai.
Mụ
tránh ngõ quen và lần vào xóm. Chà, mới vắng mặt có mấy hôm đã có một đồng
nghiệp đến tranh địa bàn hoạt động rồi.
-
Tưởng ai, ra thằng cù lần.
-
Ê, mụ nói ai cù lần?
-
À, quân lếu láo, mày chẳng nể kẻ trên trước gì cả. Dạng mày mà nên tích sự gì?
-
Mụ đánh cá không? Tôi bắt chim cho xem.
-
Ừ, đố mày bắt con hoàng yến ở lồng treo ngoài hàng ba kia được đó.
-
Dư sức. Mụ cá gì nào?
-
Trổ tài đi, mày sẽ được một cái đùi gà quay.
-
Ít quá. Nếu thua tôi sẽ đưa mụ quả chuối.
-
Giỡn mặt, tao mà ăn chuối?
-
Tôi tưởng mụ biết món tráng miệng. Thôi được, tôi sẽ rán ăn cắp cho mụ miếng
thịt bò.
-
Còn tao, sẽ thua mày nửa con gà quay.
-
Đồng ý, suya là tôi thắng cuộc, mụ hay dùng chữ thua quá.
Quả
nhiên, mụ thua. Thằng cù lần ban đêm siêng nhanh, và chính xác. Nó leo lên hất
cửa lồng nan tre. Cô hoàng yến sổ lồng chậm rãi bị nó chộp gọn gàng.
Mụ
già chưng hửng. Con gà quay đã nằm yên trong bụng mụ. Biết sao hơn, mụ xin khất
vậy. Thằng cù lần đắc chí đi quanh quẩn, nhảy nhót. Gã chó nhớn nhác động tĩnh
làm rùm lên. Giá mà gã không bị cột thì phải biết. Khiến nên bợm bãi dễ làm ăn.
Gã xách trọn một chuồng gà. Nhưng chị người làm thì ỷ y. Một con rắn hổ hành
giỏi lắm chỉ có thể nuốt chửng một con gà giò. Và chị thì sợ rắn lắm. Chắc gì
con chồn cáo đến đây. Chị tiếp tục dỗ giấc, mặc chó sủa ăn trộm. Mụ già và
thằng cù lần “có tịch giật mình”. Không ai bảo ai tự động dông mất. Chuyến này
người ta phát giác đúng là trộm. Nào trộm, nào chồn, nào cáo, nào rắn, nào ăn
xin… sao không hẹn mà cùng rủ nhau đến vùng này kiếm chác.
Đối
với ăn xin thì dễ dàng. Đuổi lão đi là xong. Còn rắn hả? Khai quang lùm bụi,
dọn dẹp bớt cây cối để rắn hết quấn. Tránh cả nạn chồn, cáo hay chồn – cáo gì
đó… Với trộm, chị người làm giục chủ:
-
Hay mình chuyền điện vào chuồng vịt, “ăn quen chồn đèn mắc bẫy”, điện sẽ giựt
trộm có ngày.
-
Mày tưởng trộm khờ khạo lắm sao? Họa may tìm xác một con rắn hổ mày bỏ trong
chậu đất rồi trồng hành lên trên. Chậu hành xinh tốt để gần chuồng gà vịt. Mấy
chú chích sẽ nhổ luôn hành về nấu cháo. Ăn xong chết êm thắm…
Chị
người làm nghe đến rắn bỗng rùng mình, nhưng bà chủ trấn an chị:
-
Mày tìm được xác rắn thì thực hiện cách đó, mà nói theo lời ông già bà cả chứ
chưa chắc thành công. Vả lại “tội chết”! Thôi, mày thả chó ra.
*
Đời
sống ngày càng khó khăn. Thằng cù lần hết còn đến hang mụ để đòi nợ nửa con gà
quay. Nó vừa sụp cái bẫy giựt. Khắp các nẻo người ta đặt vô số bẫy và mụ thì
không cù lần chút nào. Chỉ vì thằng cù lần mò mẫm ban ngày, mà ban ngày nó chậm
rì, y như mù.
Mụ
già giở ngón nghề rình rập. Mụ tấn công luôn gà, vịt lớn… Người, chó… săn đuổi
mụ ngày càng ráo riết. Họ đã xác định mụ đúng là một con vật rừng hoang to lớn,
phá phách. Họ tìm ra chỗ ở của mụ không khó.
Ngày
nào bên trên còn có ông lão bày biện chở che một phần những hở hang của mụ. Giờ
thì ông lão đã dời “nhà” khá xa. Mụ rúc vào một xó nằm im thin thít, lắng nghe
tiếng xì xào bàn tán. Họ lần dò bít chận những ngách hang phụ. Gió lùa khói củi
un làm mụ sặc sụa. Mụ nhận thức chỉ có một ngõ chính duy nhất là thông thoáng.
Có điều hẳn có hàm răng sắc của gã chó đang chầu chực mụ. Mụ liều vậy, khó nín
hơi lâu hơn nữa. Thong thả mụ chạy tọt vào trong cái cũi tre giữa tiếng hò reo
của trẻ nít.
-
A, con mèo “bự” quá bây ơi!
-
Giống con cọp ghê!
Vài
đứa tinh nghịch còn lấy cây chọc chọc con vật khốn kiếp.
Một
bà cụ ra dáng hiểu biết, suy đoán:
-
Con “cáo” này do tóc xác chết thành đây mà.
Mấy
ông bợm nhậu sấn đến:
- Ối,
mèo, cáo gì cũng cho tụi này xin ngã tiệc.
-
Tóc lâu ngày thành cá trê, cá trê ăn óc sọ người, rồi cá trê mọc chân, hóa cáo.
Cáo nay thành tinh, mấy ông coi chừng nó trả thù… Khu này mả mồ không hà. Chắc
còn nhiều con khác.
-
Bà già yên tâm, con quỉ này đào một mình nhiều hang. Vùng này hồi trước còn sót
một cụm rừng và nó đó thôi.
Ông
chủ – người đặt cũi – can thiệp:
- Tôi
sẽ thả con mèo này về rừng, cả nhà tôi giữ giới đâu để mấy chú sát sanh.
Chị
người làm cũng góp chuyện:
-
Ồ, con mèo rừng, vậy mà con nghe người ta nói mèo già hóa cáo chứ.
Đám
hàng xóm hiếu kỳ lần lượt ra. Mấy ông bợm nhậu tiếc rẻ. Họ dúm díu nhau nạt
chó.
Mụ
mèo rừng chẳng hiểu sao gã chó lại thù ghét những kẻ giết hụt mụ như vậy. Một
cơn gió đưa mùi hoa dạ lý hương thoang thoảng. Khói đã tan hết từ lâu. Trong
bóng đêm, đôi đồng tử của mụ già dần nở lớn. Đôi mắt con mèo rừng ươn ướt, bởi
vì nó không biết số phận mình ra sao, một khi đã già nua mà còn phải tranh sống
trong rừng.
PHAN KHƯƠNG THÁI
(Trích tuần báo Thiếu Nhi Xuân Ất Mão, 1975)