Năm
nay là năm Đinh Mùi, năm con dê. Nhẽ ra, tôi phải viết một bài với cái tựa đề
là : “Năm Dê nói chuyện dê” cũng như người ta vẫn thường viết : “Năm gà nói
chuyện gà, năm vịt nói chuyện vịt” (Quên, xin lỗi! Không có năm vịt). Nhưng tôi
thiết nghĩ cái loại bài đó nó “cổ lổ” quá rồi, mà độc giả Tuổi Hoa thì lại toàn
là những bậc thiếu niên anh tuấn, học lực uyên bác, triết lý cao siêu nên năm
nay, tôi xin cống hiến các bạn 5 câu chuyện có liên qua xa gần tới loài Dê, gọi
là : Đầu Xuân kể truyện tầm phào cho vui!
1) TÔ VŨ CHĂN DÊ
Đây
là một câu chuyện Tàu.
Vào
đời nhà Hán (100 năm trước Thiên Chúa Giáng Sinh) nước Trung Hoa bị rợ Hung Nô
(giặc Hồ) quấy phá biên giới. Nước Tàu tuy mạnh nhưng bọn Hung Nô cũng không
phải là yếu kém, hơn nữa lại nổi tiếng dã man, tàn nhẫn số một, bởi vậy vua nhà
Hán thầm nghĩ rằng : rầy rà rắc rối với bọn rợ Hồ đó cũng phiền lắm chứ chẳng
chơi, thắng được nó mình cũng đến trật vẩy. Mà nếu chẳng may bị thua thì thật
là mất mặt… thiên triều!
Sau
nhiều đêm ngày bỏ ăn bỏ ngủ suy nghĩ đến hao tổn cả long nhan và sau nhiều lần
họp bàn với bá quan văn võ trong triều, vua nhà Hán tìm ra được một cách có thể
tạm gọi là… thượng sách! Đó là dùng mỹ nhân kế để lấy lòng Hung Nô. Vua bèn sai
tìm một thiếu nữ thật đẹp để đem biếu tướng Hung Nô. Sau bao ngày tìm kiếm,
chọn lựa, vua tuyển được một thiếu nữ cực kỳ diễm lệ, đó là nàng Chiêu Quân.
Thật
là:
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng mán thằng
mường nó leo.
Nàng
Chiêu Quân cũng biết thế nên khóc lóc thảm thiết xin vua đừng thi hành cái lệnh
ác nghiệt là đem nàng cống giặc Hồ, kẻo uổng phí cả một đời xuân sắc. Đứng
trước cảnh một thiếu nữ hạt lệ đầm đìa ai mà chẳng mủi lòng, vua Hán chắc cũng
mủi lòng lắm, nhưng vì “quyền lợi quốc gia” nên dù có mủi lòng đi nữa ngài cũng
chỉ có thể “khóc thầm bên trong” còn ngoài mặt thì vẫn phải phớt tỉnh Ăng-lê để
thi hành… mưu kế.
Thế
là nàng Chiêu Quân bị đem đi cống Hồ và người có trách nhiệm đưa nàng đi là Tô
Vũ. Bị ức hiếp và nhất là không thể nào sống được với tướng Hung Nô nên nửa
đường nàng Chiêu Quân nhảy xuống sông tự tử và… chết (lúc đó chưa có đoàn người
nhái hoặc sở cứu hỏa nên cứ nhảy xuống thì chết là cái chắc). Bởi vậy nhẽ ra Tô
Vũ phải đến với tướng Hung Nô với một nàng Chiêu Quân xinh đẹp thì chàng lại ra
mắt hắn với hai bàn tay trắng. Mặc cho Tô Vũ phân trần và trình bày thiện chí
của vua Hán cũng như của mình, tướng Hung Nô vẫn không thèm để tai, hắn xài xể
Tô Vũ một trận như tát nước và sau cùng, để trừng phạt, tướng Hung Nô bèn đày
chàng ra sa mạc chăn một bầy dê đực!
Đường
đường là sứ giả của một đại cường quốc mà phải làm một anh chăn dê ở một chỗ
cùng tịch, Tô Vũ cũng phải cắn răng chịu, vì : “Anh hùng khi gấp cũng khoanh
tay”. Từ đó ngày qua ngày, Tô Vũ sống với bầy dê giữa một vùng sa mạc quạnh
hiu.
Vua
nhà Hán thấy lâu quá rồi mà Tô Vũ chưa về, lấy làm nóng ruột lắm, bèn thảo một
bức thư gửi cho tướng Hung Nô để hỏi thăm về Tô Vũ. Được thư, tướng Hung Nô băn
khoăn vô cùng, dù sao hắn vẫn kiêng hể vua Trung Hoa, bây giờ nói thật là đầy
Tô Vũ, sứ giả của nhà vua ra sa mạc chăn dê thì chắc chắn vua Hán phải nóng
mặt, lúc ấy sẽ rầy rà to. Tướng Hung Nô cũng định thả Tô Vũ về cho xong chuyện,
nhưng hắn lại thôi vì nghĩ rằng khi được thả về, Tô Vũ sẽ tỉ tê kể lại cho vua
nhà Hán nghe tất cả sự thật cũng phiền. Suy đi nghĩ lại, tướng Hung Nô quyết
định viết thư trả lời cho vua Hán, trong đó nói dối là không may Tô Vũ đã chết
rồi. Được thư, không biết vua Hán có khóc lóc thảm thiết không, chỉ biết rằng
ngài đinh ninh Tô Vũ chết thật rồi nên tỏ ý rất là thương tiếc, ngài có biết
đâu trong lúc mình đang tiếc thương vớ vỉn như thế thì Tô Vũ đang cặm cụi chăn
dê tại miền sa mạc quạnh hiu.
Nhưng
mà ông trời có mắt, cây ngay không sợ chết đứng. Ngày nọ Tô Vũ vớ được một con
chim nhạn, đó là một loại chim đưa thư rất giỏi. Tô Vũ thảo một bức thư kể hết
đầu đuôi câu chuyện và hiện trạng của mình rồi cột thư vào chân chim, tung cho
nó bay về hướng Nam.
Thế rồi người Tàu nhận được thư của Tô Vũ, dâng lên nhà vua. Xem thư, nhà vua
nổi trận lôi đình, giận cho tụi Hung Nô dám qua mặt mình, bèn tức tốc thảo một
tối hậu thư cho tướng Hung Nô, hẹn phải cấp thời thả Tô Vũ về nước, nếu không
hai bên sẽ có một màn đấu chưởng.
Nhận
thư, giặc Hung Nô sau khi suy tính hơn thiệt phải trả tự do cho Tô Vũ. Hỡi ơi,
ngày ra đi Tô Vũ là một vị quan triều đình uy nghi lẫm liệt, lệnh tiễn cầm tay
mà nay sau khi được thoát khỏi kiếp chăn dê, Tô Vũ về nước trình diện nhà vua
với một thân hình tiều tụy, râu tóc bạc phơ, cái mà hồi xưa được mệnh là lệnh
tiễn, giờ đây chỉ còn là một cái que không hơn không kém.
2) DÊ ĐỰC ĐẺ!
Đã
có chuyện Tàu giờ lại có chuyện ta.
Ôi,
cái chuyện dê xứ An-nam mới thật là khủng khiếp, ai đời dê đực lại đẻ bao giờ?
Cứ xem tất biết:
Những
cái chuyện tréo cẳng ngỗng ở xứ An-nam ta đa số đều có mặt Trạng Quỳnh, một nhân
vật nổi tiếng mưu mẹo và tinh nghịch. Vậy thì cái chuyện dê đực đẻ con này cũng
có bóng dáng đại ca Trạng Quỳnh.
Số
là một ngày nào đó vua Tàu (lại Tàu) nổi hứng muốn đánh nước ta chơi, vì nghe
dân xứ mình có nhiều thứ bổ béo có thể xài được lắm. Nhưng khi không cậy lớn mà
đánh người ta nó kỳ lắm, lại mang tiếng là du đãng! Vua Tàu bèn nghĩ ra một kế,
sai một sứ giả ăn vận chỉnh tề mang thư sang cho vua nước ta.
Sau
khi nhận thư, vua ta mở ra coi thì… trời ơi! Thật là kỳ cục! Vua Tàu đòi nước
ta phải cống cho lão 10 con dê đực biết đẻ, nếu không là… có chuyện.
Vua
ta đem chuyện trình bày với triều đình, vua quan đều đổ mồ hôi hột không biết
tính sao. Thôi rồi, phen này coi chừng mà tan tành xí quách. Trạng Quỳnh lúc đó
cũng có mặt, đợi đến lúc không ai có ý kiến gì, tất cả đều nghẹn ngào không nói
nên lời, Quỳnh mới xin phát biểu ý kiến. Sau khi Quỳnh trình bày kế hoạch, từ
vua chí quan đều hoan hô Quỳnh hết mình, lúc nầy ai nấy hình như đều quên đi
những cái đùa dai của Quỳnh đối với mình. Dưới mắt của họ, lúc đó, Quỳnh thật
là một anh hùng cứu quốc.
Ngày
giờ thấm thoát thoi đưa, quanh quẩn thế mà đã đến ngày sứ giả nước Tàu qua nhận
đồ triều cống, vua ra lệnh cho treo đèn kết hoa tưng bừng chào đón. Trong khi
đó, Quỳnh cải trang thành một người nhà quê ăn mặc rách rưới, quần áo nhọ nhem
bẩn thỉu rồi lén ra nằm dưới một gầm cầu, nơi mà theo lộ trình, sứ giả nước Tàu
sẽ phải đi qua.
Quỳnh
nằm vắt chân chữ ngũ, dưới gầm cầu một lát thì nghe tiếng xe ngựa rầm rập. Biết
là sứ giả sắp đi qua, Quỳnh chuẩn bị sẵn sàng. Khi sứ giả tới chỗ Quỳnh nằm,
Quỳnh bèn vận hết công lực khóc lên mấy tiếng “ô hô” thật lớn. Kể ra nội công
của Quỳnh cũng thâm hậu lắm nên tiếng khóc của Quỳnh át cả tiếng xe ngựa đang
di chuyển. Sứ giả thấy lạ bèn dừng xe lại, nhìn xuống gầm cầu thì thấy một kẻ
đang khóc lóc thảm thiết. Được “mắt xanh” chiếu cố, Quỳnh càng khóc thật khỏe.
sứ giả nóng ruột muốn biết rõ nguyên nhân của một hiện tượng kỳ quái bèn sai
lính xuống gầm cầu điệu Quỳnh lên. Quỳnh bước lên trình diện mọi người với một
dung nhan vô cùng ủ dột, hạt châu rơi lã chã và khi sứ giả nước Tàu hỏi nguyên
do, Quỳnh bèn nấc lên mấy tiếng, khóc rống lên một hồi, lính xúm lại dỗ Quỳnh
cũng không nín, cảnh tượng thật thương tâm khiến ai nấy đều mủi lòng. Mãi sau,
Quỳnh mới thưa:
-
Bẩm quan lớn, tôi khóc vì… tôi thương bố tôi quá… Hic… Hic…
Sứ
giả vội dỗ:
-
Thôi, nín đi nào, liền ông mà khóc như vậy chỉ tổ bị liền bà nó cười vào mũi.
Bố ngươi bị hoạn nạn làm sao mà ngươi thương dữ vậy?
Quỳnh
rống lên:
-
Ối giời ơi! Người ta ức hiếp bố tôi, người ta bắt nạt bố tôi, tôi chịu làm sao
nổi. Thôi, các ngài cứ để tôi chết cho yên chuyện.
Nói
xong, Quỳnh toan đập đầu vào thành cầu tự tử, may thay sứ giả nhanh tay ngăn
lại kịp:
-
Thôi mà chú em, làm chi kỳ rứa, cứ kể đầu đuôi ta nghe xem. Mà chú nói người ta
ức hiếp bố chú, vậy chứ người ta là ai?
Quỳnh
sụt sịt:
-
Dạ… dạ… người ta là… là mẹ tôi đấy ạ!
Sứ
giả trợn mắt:
-
Sao? Mẹ chú bắt nạt bố chú à?... Thôi, đúng bố chú thuộc hội “Râu quặp” rồi.
Nhưng mà mẹ chú bắt nạt bố chú ra làm sao?
Quỳnh
đỏ mặt, e lệ như cô gái mười tám:
-
Dạ, cái chuyện của mẹ tôi nó kỳ quá à! Khó nói lắm.
-
Thì cứ nói ta nghe.
-
Dạ, quan lớn đã dạy, tôi xin tuân. Số là hôm qua mẹ tôi gọi bố tôi lại bảo :
“Mình à, cái số mình thiệt là sướng, suốt ngày rong chơi chẳng biết chi là lo
buồn… Còn tôi, đã hơn mười lần mang nặng đẻ đau tưởng như đứt gan đứt ruột.
Thôi, vợ chồng sướng cùng sướng, khổ cùng khổ, vậy mai này mình chịu khó đẻ
giúp tôi một đứa con trai nhé!” Rồi không đợi cho bố tôi phát biểu ý kiến, mẹ
tôi tiếp : “Mình mà không chịu làm theo lời tôi, tôi bỏ mình cho mà xem, tôi
kiếm cái ông nào biết đẻ tôi làm vợ cho sướng cái thân tôi”. Trời ơi! Nghe mẹ
tôi nói, bố tôi khóc lóc như mưa, tôi dỗ mãi cũng chả chịu nín, tôi buồn quá
nên cũng ra gầm cầu nằm khóc…
Sứ
giả buột miệng:
-
Sao lại có mụ đàn bà ngu dại điên khùng đến thế nhỉ? Mụ có tìm cả đời cũng chả
được một thằng đàn ông biết đẻ.
Quỳnh
lễ phép thưa:
-
Ấy, vậy mà mẹ tôi còn khôn đấy chứ, tôi còn biết có đứa ngu gấp mười mẹ tôi cơ.
Sứ
giả lắc đầu:
-
Ta cam đoan, mẹ chú là người ngu nhất trên thế gian từ tạo thiên lập địa đến
giờ.
Quỳnh
làm như không biết người đang nói chuyện với mình là ai, trả lời luôn:
-
Thưa quan lớn, thế ngài chưa biết tin gì sao? Tôi vừa nghe nói cái lão vua gì
bên Tàu đòi nước mình tìm cho lão mười con dê đực biết đẻ. Mẹ tôi chỉ kiếm một
người đàn ông kỳ lạ đó, mẹ tôi chỉ ngu một, nhưng mà cái lão vua Tàu tìm mười
con dê quái quỉ kia thì quả là lão ngu gấp mười mẹ tôi. Mấy hôm nay đi đâu tôi
cũng nghe người ta cười vào mũi lão vua Tàu là ngu như bò. Thế ngài, ngài có
thấy lão ấy ngu không?
Nghe
Quỳnh hỏi, sứ giả nước Tàu tái mặt, vội vã ra lệnh quày xe trở về. Quỳnh đứng
nhìn theo cười sằng sặc.
3) TẠI SAO ĐÀN BÀ KHÔNG RÂU
MÀ DÊ CÁI LẠI CÓ RÂU?
Cái
đề thật là hấp dẫn.
Mà
quả nhiên như vậy, đối với loài người chúng ta, phụ nữ làm gì có râu, mặt mũi
họ trắng trẻo sạch sẽ và cằm thì nhẵn nhụi đàng hoàng lắm, trái lại đàn ông thì
lại phải có râu mới được. Thôi thì đủ thứ râu : râu cá chốt, râu ba chòm, râu
quai nón, râu quặp…
Ngược
lại, loài dê thật là kỳ quái, những chàng dê đực bói cũng không ra một sợi râu
nào trong khi những cô dê cái, cô nào cũng có một bộ râu thật là hách. Tại sao
lại có sự lạ lùng như vậy? Cho đến bây giờ cũng chưa ai giải thích được, vì vậy
để tạm hiểu, mời các bạn nghe câu chuyện có pha chút thần thoại sau đây:
Số
là ngày xưa dê cũng như người, dê đực có râu còn dê cái không râu, thật là đàng
hoàng dễ hiểu. Nhưng một biến cố khủng khiếp xảy ra đã khiến cái chân lý vĩnh
cửu là giống cái không râu bị sụp đổ. Cái biến cố nó như thế này:
Thời đó, có một ông vua (người kể chuyện không
cho biết ông vua tên gì và cũng không cho biết ông ta cai trị nước nào). Ông
vua này đúng là một hôn quân, ông ta không bao giờ lo việc triều chính mà suốt
ngày chỉ lo vui chơi phè phỡn, rượu nồng dê béo liên miên. Với dân chúng ông ta
rất tàn ác, bày đặt ra bao nhiêu thứ sưu thuế kỳ lạ để lấy tiền của dân… và còn
biết bao điều bất nhân khác mà ông vua ấy đã thực hiện.
Tiếng
đồn nhà vua là hôn quân bạo chúa vang đến tai một vị thần. Sau khi điều tra cẩn
thận, vị thần thấy tiếng đồn quả không sai, nhà vua thật không hổ danh là một
hôn quân bạo chúa. Ông thần này chắc còn trẻ nên bản tính nghịch ngợm, ông mới
nghĩ ra một trò để trừng phạt nhẹ ông vua tàn ác một phen.
Ngày
nọ, lính nhà vua thấy một anh nhà quê cắp một thúng cam đến trước cửa hoàng
cung rao inh ỏi, lính chạy ra đuổi, bảo đem ra chợ mà bán, anh chàng nhất định
không chịu đi, bảo : “ Đây tôi bán một thứ cam rất quí, chỉ nhà vua mới đáng
dùng, còn thứ dân giả sức mấy được ăn”. Nói rồi anh chàng mở cái thúng ra, quả
nhiên những quả cam chàng ta bán thật là ngon : nó to lớn lạ thường, vỏ vàng
bóng và như mọng nước, hương thơm tỏa ra ngào ngạt.
Lính
thấy vậy liền dẫn anh chàng bán cam vào ra mắt nhà vua. Vừa thấy cam, nhà vua
đã muốn chảy nước miếng. Chàng bán cam bóc một quả dâng vua, vua dùng qua quả nhiên
thấy thơm ngon lạ thường ; thích quá, bèn mua cả thúng cam với một số tiền vàng
rất hậu. Anh chàng bán cam đi rồi, vua sai quân hầu bóc cam để vua ăn tiếp cho
đã thèm. Nhưng lạ thay, người ta bóc hết quả này sang quả khác, chỉ thấy có vỏ
không. Vua giận quá tức tốc cho lính đuổi theo bắt chàng bán cam lại.
Chàng
bán cam đang đi ngoài đường bỗng nghe thấy tiếng lính tráng đuổi theo đằng sau,
chàng ta cũng không lấy đó làm sợ hãi (vì chàng chính là vị thần cải dạng),
trái lại còn có ý đi chậm lại để chờ. Lính đã bắt kịp, không nói không rằng lấy
dây thừng trói gô anh bán cam lại, điệu về hoàng cung để nhà vua đối chất.
Vừa
thấy mặt anh bán cam, vua nổi giận đùng đùng hét:
-
Tên kia, sao ngươi dám cả gan phạm tội khi quân?
Với
vẻ mặt ngơ ngác, anh chàng bán cam tâu:
-
Tâu bệ hạ, thần chả hiểu tí gì cả. Trước sau thần vẫn một lòng tôn kính bệ hạ
thì sao lại có thể nói thần phạm tội khi quân được.
Vua
càng giận, quát:
-
Qua mặt trẫm mà không phải là khi quân thì như thế nào mới đáng gọi là khi quân
hở tên kia?
Anh
bán cam vội vã sụp xuống:
-
Tâu bệ hạ, nào thần có bao giờ dám qua mặt bệ hạ.
- Thế
sao thúng cam ngươi bán cho ta chỉ toàn là vỏ?
-
Ủa, làm gì có chuyện lạ ấy. Đâu, bệ hạ thử cho thần xem lại thúng cam coi.
Thúng
cam được mang ra, lúc đó lại trở thành những quả cam ngon ngọt, anh bán cam lại
bóc dâng vua một quả, vua ăn thấy vẫn ngon như quả cam trước. Vua thấy không có
lý do gì để bắt tội người ta, bèn thả anh bán cam ra.
Nhưng
khi anh bán cam vừa ra khỏi hoàng cung thì thúng cam lại trở thành một đống vỏ.
Vua tức quá, cho anh chàng bán cam là phủ thủy, bèn sai một võ tướng chỉ huy
một đạo quân đuổi theo quyết giết cho được anh bán cam mới nghe.
Lần
này, ông thần không để bị bắt như lần trước, ông ta chạy vun vút như tên bắn,
nhưng chỉ cách lính nhà vua một khoảng vừa phải như để trêu họ chơi. Ông ta dụ
cho bọn lính đuổi theo đến một cánh đồng, nơi đó có người đang chăn một bầy dê
rất đông vừa đực vừa cái lẫn lộn. Để cho bọn lính tức chơi, ông thần chạy vào
giữa đám dê thì vụt biến mất. Ông tướng chỉ huy quân lính đuổi theo cho rằng
ông thần là lão phù thủy và như vậy rất có thể ông đã nhập vào một con dê nào
đó để trốn, bèn quan sát xem con dê nào có triệu chứng bất thường thì giết đi.
Nhưng than ôi! Những con dê tầm thường ấy đâu có đáng để được một vị thần nhập
vào, nên con dê nào cũng vẫn nhởn nhơ xơi cỏ như thường. Chính vì thấy con nào
cũng như con nào, không nhận thấy sự đặc biệt ở riêng một con dê nào cả, ông võ
tướng muốn cho chắc ăn liền ra lệnh chém đầu tất cả bầy dê cho xong chuyện. Mặc
nho người chăn dê khóc lóc thảm thiết, quân lính vẫn thi hành mệnh lệnh. Chỉ
nháy mắt hàng mấy chục cái đầu dê lăn lóc, máu đổ tung tóe. Tàn sát xong bầy
dê, ông võ tướng thu quân ra về, chắc mẩm “tên phù thủy” kia đã chết trong lốt
dê rồi.
Bọn
lính đi khỏi, người chăn dê vẫn khóc như cha chết, mà khóc cũng phải vì cơ
nghiệp ông ta chỉ có mỗi bầy dê, nay mất đi thì hoàn toàn tay trắng. Thấy ông
ta khóc quá, ông thần hiện ra hỏi:
-
Tên kia, sao ngươi khóc?
(Nhẽ
ra ông thần phải biết nguyên do cái khóc của ông chăn dê, bất tất phải hỏi.
Nhưng trong bất cứ một truyện cổ tích nào khi ông thần hoặc bà thần hiện ra với
một người đang khóc vì mới gặp chuyện đau khổ đều hỏi một câu tương tự như câu
trên. Vì vậy ở đây người kể chuyện cũng viết cái câu hỏi “đưa duyên” ấy cho ra
vẻ một câu chuyện cổ tích)
Ông
chăn dê thấy một vị thần uy nghi lẫm liệt hiện ra, lòng khấp khởi mừng thầm,
chắc sắp được giúp đỡ chi đây, bèn sụt sùi đáp:
-
Thưa ngài, mới đây có bọn lính đuổi bắt một người đến đây thì người ấy trốn
mất. Giận cá chém thớt, bọn lính giết cả bầy dê của tôi.
Ông
thần bèn phán:
-
Thôi, ngươi đừng khóc nữa, để ta cho bầy dê của ngươi được hồi sinh.
Nói
xong, ông thu thập tất cả đầu và mình dê lại lắp vào nhau ; con dê nào được lắp
xong đầu đều sống ngay, cười lên mấy tiếng “be be” rồi cúi đầu ăn cỏ. Tuy
nhiên, ông thần vốn là một cao thủ của làng Dzíc Dzắc, nên trong máu của ông,
chất tếu chiếm đến 75%, vì vậy đáng lẽ đầu dê nào thì lắp vào mình dê ấy, ông
ta lại nhè cứ đầu dê đực thì lắp vào mình dê cái và ngược lại đầu dê cái lắp
sang mình dê đực.
Sau
khi hoàn tất công việc, ông thần buồn cười quá, cười lên một tràng thật dài rồi
biến mất. Còn ông chăn dê mãi đến lúc lùa dê về ông mới khám phá ra rằng hôm
nay mấy anh dê đực anh nào cũng… mày râu nhẵn nhụi, còn mấy chị dê cái, chị nào
cũng có một bộ râu… dê, bay phất phơ theo gió.
Câu
chuyện đáng lẽ đến đây là hết nhưng người kể chuyện đoán rằng vào một thời nào
đó tất cả dê trên thế gian này đều lăn đùng ra chết hết , trừ có bầy dê lạ lùng
kia, và như thế chúng cứ sinh sôi nẩy nở ra cho đến bây giờ, người ta chỉ tìm
thấy rặt một giống dê đực không râu và một giống dê cái có râu.
4) BÁCH LÝ HỀ VÀ NĂM BỘ DA
DÊ.
Đây
lại là một câu chuyện Tàu, chắc hẳn là nước Tàu nhiều dê lắm.
Bách-Lý-Hề
là người nước Ngu, hơn ba mươi tuổi mới chịu lấy một cô vợ tên là Đỗ-Thị, sau
đó sinh được một tí nhau.
Nhà
nghèo lắm, Bách Lý Hề và con phải vào rừng săn chim đốn củi còn Đỗ Thị ở nhà
buôn bán quanh quẩn kiếm ăn qua ngày.
Bách
Lý Hề thực ra không phải là người tầm thường, Hề tài giỏi lại có chí khí, đã
nhiều lần muốn giã nhà đi lập công danh nhưng cứ sợ vợ con bơ vơ không nơi
nương tựa nên lại thôi. Đỗ Thị biết ý chồng, bảo:
-
Thiếp trộm nghĩ làm trai thì phải tạo công danh sự nghiệp, để lưu tiếng với núi
sông. Chàng đừng có vì mẹ con thiếp mà uổng mất tài trai, thiếp vẫn có thể tần
tảo nuôi con chờ ngày chàng về chung hưởng phú quí.
Nghe
vợ nói Bách Lý Hề khoái chí tử, sửa soạn đi ngay. Nhưng vì không gặp thời nên
nhiều phen phải khốn đốn, đã có lần phải ăn xin nơi đất Điệt, lúc khác phải
chăn trâu. Sau Hề cùng người anh kết nghĩa là Kiểm Thúc trở về nước Ngu thì Đỗ
Thị và con nghèo đói quá đã lưu lạc phương nào rồi. Bách Lý hề được bạn cũ đang
làm quan trong triều tiến dẫn nên được vua nước Ngu cho làm quan Trung Đại Phu.
Không
được bao lâu vua nước Ngu mất, rồi Tần Hiến Công đánh chiếm được nước Ngu. Muốn
gả chồng cho con gái là công chúa Bá Cơ sang Tần, Tần Hiến Công bắt Hề phải
theo hầu công chúa. Bách Lý Hề giận mình suốt đời chỉ làm tôi đòi cho người
khác nên nửa đường định trốn sang nước Tấn, nhưng vì nghẽn đường nên lại tới
Uyển Thành thuộc nước Sở, ở đó phải chăn trâu cho người ta, sau được tiến dẫn
vào chăn trâu cho vua nước Sở.
Công
chúa Bá Cơ sang Tần, dò lại sổ sách những người theo hầu thì thấy tên Bách Lý
Hề đã biến mất từ hồi nào, có người mách lẻo bảo Hề đã trốn sang nước Sở rồi.
Tần Mục Công điều tra biết Hề là người tài trí muốn dùng nên định sai người
mang lễ vật sang vua Sở xin chuộc lại, nhưng có người can rằng:
-
Vua Sở không biết tài của Bách Lý Hề nên bắt chăn trâu, nay đem lễ vật sang
chuộc tất vua Sở biết Hề là người tài sẽ giữ lại không trả. Chi bằng cứ đem năm
bộ da dê sang chuộc Bách Lý Hề về, bảo rằng đó là một tội phạm cần đem về trị
tội.
Theo
kế đó vua Tần chuộc được Hề về phong cho làm Tể tướng, lúc ấy Bách Lý Hề đã 70
tuổi.
Bấy
giờ Đỗ Thị nghèo quá cũng lưu lạc sang nước Tần, phải làm thuê giặt mướn. Nghe
tin chồng được làm Tể tướng muốn gặp mà không được. Nhân ngày nọ quan Tể tướng
mở tiệc mừng tại tư dinh, mời ban nhạc đến hát mua vui, Đỗ Thị xin phường nhạc
cho vào theo để giúp vui. Nhạc công đưa cho Đỗ Thị cây đàn, nàng đánh lên mấy
tiếng nhặt khoan làm Tể tướng Bách Lý Hề giật mình nhận ngay ra tiếng đàn của
vợ mình. Ở dưới, Đỗ Thị vừa gảy đàn vừa hát:
“Bách Lý Hề, năm bộ da dê,
Nhớ ngày nào ly biệt,
Dưng dưng lệ đôi hàng
Mổ con gà mái ấp,
Thổi lưng cơm gạo vàng,
Đói no có thiếp có chàng
Giờ ai chung đỉnh giàu sang
một mình.
Bách Lý hề, năm bộ da dê,
Cha ngồi trên ăn thịt,
Con ngoài ngõ khóc dài,
Chồng giàu sang gấm vóc,
Vợ đói giặt thuê hoài,
Nay chàng rực rỡ cân đai,
Trướng môn cách biệt, thiếp
ngoài cửa hiên
Bách Lý Hề, năm bộ da dê,
Suốt một đời lận đận,
Nai lưng phận tôi đòi,
Anh hùng không gặp vận,
Than bất công, hỡi trời!
Giờ đây đeo ấn phong hầu
Chàng ôi! Có nhớ cơ cầu năm
xưa?” (*)
Bách
Lý hề nghe tiếng hát, bước xuống thềm nhận ngay ra được vợ, cả hai cùng khóc
như mưa như bão. Từ đó vợ chồng con cái được đoàn tụ.
____________
Trích
trong cuốn “Gương danh tướng” của Toàn Phong.
5) CON DÊ CÁI CỦA ÔNG SEGUIN.
Hết
chuyện dê Tàu, dê Ta, bây giờ đến chuyện dê Tây.
Người
ta bảo rằng đây là một câu chuyện mà cho đến bây giờ những người dân miền Provence nước Pháp vẫn
còn thường kể cho con cháu nghe. Hôm nay thay lời những người dân quê đó, người
kể chuyện xin viết lại để bạn đọc cùng thưởng thức:
Ngày
xưa (nhưng chắc cũng không xưa lắm) có một nông gia tên là Seguin. Ngoài công việc trồng trọt ông này
còn chịu khó nuôi một bầy dê kiếm lời thêm. Nhưng đau khổ thay, ông này hình
như không có duyên với dê nên cứ liên tiếp vào những buổi sáng, các cô dê cái
của ông tháo tung cả dây buộc cổ và hăng say leo lên núi để rồi không trở về
nữa, các nàng dê ấy đã tự biến mình thành miếng mồi ngon của con sói hung dữ
sống lẩn khuất trên núi.
Ông
đã mất đến 6 con dê trong những trường hợp tương tự. Nhưng vốn tính kiên nhẫn,
ông tậu thêm con dê thứ bảy và quyết giữ gìn chăm sóc nó thật cẩn thận. Người ta
bảo con số bảy là con số rất đẹp và quả nhiên con dê thứ bảy cũng đẹp lắm, nó
có một đôi mắt hiền lành ngơ ngác, một cặp sừng nhọn, và những chiếc móng đen
bóng. Đã đẹp, con dê này lại còn dễ thương nữa, bao giờ cũng đứng yên khi ông
chủ vắt sữa.
Bởi
vậy ông Seguin
rất hài lòng về con dê này, ông thương nó như người cha yêu đứa con gái duy
nhất vậy. Sau nhà ông có khu vườn rộng đầy cỏ cây thơm mát và có hàng rào đàng
hoàng, ông chắc chắn rằng con dê này sẽ không chịu chung số phận như những con
trước.
Nhưng
mà:
“Sông sâu còn có kẻ dò,
Nào ai lấy thước mà đo lòng…
dê!”
Một
ngày nọ con dê ngỏ ý xin ông chủ cho mình… lên núi chơi. Nghe tin động trời,
ông Seguin suýt
chết ngất, ông vội vã cho con dê an trí trong chuồng bò và cẩn thận khóa hai
lần cửa. Nhưng, không biết ta có nên nói “ “Dê đã muốn là trời muốn” không, vì
khốn khổ! Ông Seguin lại quên đóng cái cửa sổ sau chuồng. Thế là sau khi đợi
cho ông chủ “cù lần” quay lưng, con dê phóng qua cửa sổ chạy tuốt lên núi.
Được
thoát cũi xổng chuồng, con dê vui mừng quá sức, trên núi không khí thật mát mẻ
và cỏ cây tươi tốt biết chừng nào! Con dê mải mê vui đùa cho đến khi trời sắp
tối mới cảm thấy hơi lo sợ. Nó ngừng bước và bỗng nhiên nghe thấy tiếng kêu của
ông Seguin ở
dưới thung lũng gọi nó trở về. Con dê nghĩ đến con chó sói mà nó vẫn nghe người
ta nhắc đến. Nó cảm thấy sợ sệt và muốn quay trở về với mảnh vườn nhỏ bé dưới
thung lũng. Nhưng nghĩ tới sợi dây, cái cọc, con dê lại cảm thấy chán ngán rồi
nó quyết định ở lại, và con dê tự nhủ rằng sẽ dùng đến đôi sừng nhọn của mình
một khi gặp con sói hung dữ.
Trong
bóng đêm bỗng con dê nghe thấy tiếng động nhẹ và bắt gặp một đôi mắt xanh lè
đang chòng chọc nhìn nó. Bản năng tự vệ bừng lên, con dê nằm mọp xuống đưa
thẳng hai sừng ra đàng trước thủ thế. Con sói từ từ tiến đến và một trận giao
tranh khá ác liệt diễn ra, nhưng có bao giờ dê lại thắng chó sói bao giờ nên
khi những vì sao vừa đua nhau lặn hết, ánh sáng bắt đầu xuất hiện và tiếng gà
dưới thung lũng đã vọng lên thì con sói cũng vừa vật con dê ngã xuống giữa một
vũng máu đào.
*
Đáng
nhẽ, sau mỗi truyện, người kể muốn thêm một “Lời bình” hầu giúp các bạn thấy
ngay ngụ ý của câu chuyện, khỏi tốn công suy nghĩ, nhưng lại sợ quí bạn chê…
Đành thôi! Và người kể truyện chỉ thầm mong sang năm Đinh Mùi, các bạn sáng
suốt nhận ra những điều hay, điều dở để chúng ta biết hướng cuộc đời theo một
lý tưởng mà hy vọng rằng các bạn đã đặt sẵn cho mình.
QUYÊN DI