CHƯƠNG XI
CT3 LÀM TRÒ XIẾC
Tôi đứng lặng há miệng chẳng ra tiếng, bực tức không thể tả được. “Sếp”
chuyên môn giao phó cho tôi những công tác thật nguy hiểm. còn mình thì
cứ giành lấy những việc nhẹ nhàng, ngon như ăn phở. Chẳng hiểu có việc gì
cần mà phải lên Biên Hoà, cái thành phố xanh ngát bóng dừa, không khí
nhẹ vương toàn mùi dạ lý hương thần tiên ấy? Hay Trí chỉ tạo sự ra đi để
loè tôi đặng lên trên đó hóng mát, xả hơi?
Đột nhiên tôi lại cảm thấy ngay rằng “sếp” có một vài điều gì đó giấu nhẹm không cho tôi biết. Hừ! Bắt người ta xung phong làm những việc nguy hiểm rồi có cái gì hay ho thú vị thì gạt người ta ra rìa. Ức quá…! Nhưng tôi tự an ủi rằng “sếp” vẫn thường có thái độ như vậy mỗi khi anh gần đi tới đích, sắp sửa tìm ra đáp số của một bài toán khó… Tôi rời bỏ đường Lục tỉnh rẽ vào con lộ đất đỏ vùng Phú Định. À, lại con đường bị tên ném đá phục kích hôm trước. Lần này thì đừng hòng! Cắm đầu chăm chú đạp xe lên dốc, đôi mắt tôi không ngớt liếc loang loáng hai bên đường, soi mói từng bụi cây, đám cỏ, đề phòng một cuộc đột kích bất ngờ. Còn chừng một trăm thước nữa tới cổng biệt thự, tôi xuống xe dắt vào lề đường, giấu kín trong một đám cỏ cao rậm, rồi cứ men theo bờ cỏ, nhẹ chân bước, rón rén tiến lại gần tòa nhà cổ kính. Nhìn thấy người khác mà người khác không nhìn thấy mình là một chiến thuật căn bản, nhân viên hãng CT2 phải thuộc nằm lòng…
Ẩn mình sau một gốc cây sung cổ thụ, tôi liếc nhanh mắt vào bên trong khuôn viên biệt thự Lan Anh…
Nhân vật trông thấy khiến tôi suýt buộc miệng la lên một tiếng lớn: Du Đả!
Đích thị tên bị xe đụng bữa nọ! Trông hắn rõ ràng là chẳng bị thương hay đau đớn một chút nào. Không biết tên này lách vào khuôn viên bằng cách nào trong khi cửa lớn vẫn đóng. Hắn từ phía sau nhà xe xuất hiện và nhẹ chân chạy vun vút lên cầu thang dẫn tới căn nhà nhỏ của tên tài xế mới. Cửa mở, hắn lọt vào, quài tay khép cánh cửa rất lẹ. Tôi lựa một chỗ thật êm, khuất vào hõm cây, bình tĩnh ngồi chờ. Tia mắt bắt dính vào khuôn cửa đóng của căn nhà tài xế…
Có tới mười phút sau, Du Đả xuất hiện, theo sau là Kha Bỉ. Hai tên lao vun vút xuống cầu thang, chạy nhanh vào nhà để xe, cửa đã mở sẵn từ bao giờ. Tôi trông thấy rõ ràng chiếc xe Rolls Royce bóng loáng và hai tên Ả Rập đứng sát bên nhau. Chúng đang mải miết bàn soạn gì đó thì phải. Cách xa quá, tôi chịu không nghe được một tiếng gì. Đột nhiên Du Đả gật mạnh đầu một cái rồi cả hai bước ra ngoài. Tụi họ tiến về phía sau ngôi nhà lớn rồi xăm xăm bước tới một khu nhà tròn, kiểu nhà ngồi hóng mát. Tôi và Trí đã thấy từ trước địa điểm này. Chờ cho hai người đi khuất, tôi lập tức rời hốc cây, chui qua rào kẽm gai lọt vào, nhẩy hai buớc như khi đá banh mang được quả bóng da đến trước cửa thành đối phương, sắp sửa sút một cú như súng trái phá. Tới chân cầu thang, tôi nhẩy bực còn nhanh gấp mấy lần tên Du Đả hồi nẫy, đưa tay xoay quả đấm cửa… Trời Phật phò hộ! May quá, cánh cửa không khoá. Tôi lọt vào trong nhà tên tài xế mới, loáng tia mắt quét trọn một vòng.
Trên mặt chiếc bàn con, một cái bàn chải tóc nằm tênh hênh. Bốn sợi tóc hung hung đỏ nằm trong kẽ răng bàn chải. Không đủ một lọn tóc như “sếp” đã chỉ thị. Nhưng… còn hơn không. Hai ngón tay tôi rút nhanh bốn sợi tóc quý hoá đó, lượm một miếng giấy con gói lại cẩn thận rồi nhét ngay vào túi quần sau.
Niềm hân hoan thật không bút nào tả xiết. Tôi cứ lo ngay ngáy là sứ mạng không thể nào thực hiện nổi. Thế mà…! “Mít-sông anh-pốp-síp” Ha! Ha!
Tôi quay mình tiến ra phía cửa. Đúng lúc đó có tiếng người nói chuyện: Du Đả và Kha Bỉ đang quay về. Gần lắm rồi, tôi không thể nào ra kịp mà không bị hai tên đó bắt gặp. Đưa đôi mắt ngơ ngác, tôi tìm chổ ẩn nấp. Trời ơi! Nguy quá! Nếu hai tên lại mò lên và vớ được tôi thì chết. Tim đập thình thịch, đột nhiên tôi thở được một hơi dài khi nghe tiếng chân hai tên Ả Rập tiến thẳng vào nhà để xe. Nhưng hy vọng mới loé lên đã tắt ngóm ngay. Tiếng nói chuyện của hai tên từ phía dưới đưa lên nghe vang vang khiến tôi biết chắc rằng tụi họ đứng ngay trước cửa nhà xe. Như thế, nếu nhô ra chạy xuống cầu thang thế nào cũng bị bắt gặp. Chúng nói chuyện gì với nhau toàn bằng tiếng Ả Rập nghe chỉ rõ những âm thanh “a rả, a rả, a rỉ”… rất quái dị. Nhưng qua những câu nói chí choé tôi bắt chợt được hai ba tiếng Việt Nam rõ ràng: “Núi ông Voi! Núi ông Voi!” Á, à! Núi ông Voi là một trái núi thấp ở quá Phú lâm, cách Phú Định chừng năm sáu cây số, chỗ đó là một hầm khai thác đá, lâu ngày không người trông coi, đã trở thành hoang phế. Đột nhiên tôi nghe tên Kha Bỉ la lên bằng tiếng Việt:
- Thôi được! Để tao đi lùng “nó” cho! Mày chỉ được cái bộ lười! Để tao lên, chờ đây nghe!
Chẳng hiểu Kha Bỉ dùng cái đại danh từ ngôi thứ ba số ít “nó” đây là có ý chỉ đồ vật, con vật hay con… người. Chỉ biết là cái chữ “nó” ấy đã khiến tim tôi như thót lại, tóc trên đầu như biết cựa quậy, dựng đứng cả lên, trong lòng chỉ còn le lói một tia hy vọng yếu ớt: chữ “nó” đây không phải là để ám chỉ tôi!
Bước chân nặng chịch của tên Kha Bỉ đã thình thịch đặt trên cầu thang. Nguy rồi! Tôi nằm soài ra sàn nhà, lăn nhanh vào gầm chiếc giường sắt có trải tấm “drap” trắng rộng phủ gần chấm đất.
Đột nhiên có tiếng người gọi to:
- Ê, ông bạn!
Buớc chân dừng lại. Tên Ả Rập mới leo tới nửa cầu thang. Tôi vui mừng hết sức khi nhận ra tiếng gọi của bác Phối, bác tài xế thân mến của tụi tôi.
- Bà chủ đang tìm anh đó, mau lên!
Tiếng Kha Bỉ nghe bực bội ra mặt:
- Vâng! Vâng! Tôi xuống đây!
Chờ cho tiếng bước chân xuống hết cầu thang, đi xa dần, tôi mới chạy lao xuống, không gây tiếng động, chạy vút ra đầu hồi để xe, nép mình vào góc tường có lùm cây dại mọc chìa ra che kín. Để tay lên ngực cố chờ cho tim bớt đập mạnh rồi tôi mới men lại phía cửa sổ nhòm vào trong nhà xe.
Kha Bỉ đã trở xuống từ lúc nào và tên Du Đả thì đang im lặng đứng chờ bạn bên chiếc xe. Lại một tràng “a rả, a rỉ, a rả” nổ như bắp rang. Tôi không hiểu được tiếng nào. Nhưng nghe âm thanh vội vã và điệu bộ giơ chân múa tay của Kha Bỉ, tôi biết được ngay là bà chủ sắp sửa cần đến xe. Và một ngón tay tên tài xế mới giơ ra trước mặt bạn cho tôi hay là chừng một tiếng đồng hồ nữa là phải sẵn sàng có xe cho bà đi.
Hai tên vột vã bước vào trong chiếc Rolls Royce. Kha Bỉ mở máy. Chiếc xe lộng lẫy lướt êm ra khỏi nhà để xe, nhẹ bon tiến về phía cổng lớn.
Tôi tung chân chạy vòng quanh “ga-ra” gặp ngay bác Phối đang ngơ ngác đưa mắt ngó theo đứa con cưng của mình đang đi với người khác.
Tôi la lên bảo bác:
- Mau lên! Bác Phối! Đuổi theo tụi nó gấp!
Không một giây trù trừ, bác Phối quơ nhanh cái xe đạp, tay lái như tay lái xe ba gác, của bà chủ, rồi bác lao xuống dốc nhanh hết sức khiến cả người lẫn xe loạng choạng như người say rượu.
Ra tới đường Lục Tỉnh hướng về Phú Lâm bác Phối thở hổn hển quay mặt ngó tôi:
- Chú phải cho anh biết là tụi mình đi đâu và để làm cái gì đây chứ?
- Để làm gì, chưa biết, nhưng đi thì… đi tới chỗ này.
Hai anh em lại cắm đầu đạp đều đều có tới hơn ba cây số nữa, rồi tôi quẹo về tay trái. Hai chiếc xe đạp lại nhảy chồm chồm trên con lộ đất chưa đầy ba thước chiều ngang, đầy ổ gà, bụi cát mịt mù. Bác Phối chăm chú nhìn mặt đường không còn dịp hỏi han gì nữa. Tôi nghĩ thầm: “Hai tên Ả-Rập bàn soạn với nhau. Trong câu chuyện, xen lẫn vào những tiếng “Núi ông Voi, núi ông Voi”, giờ đây lại lén lút vội vã lái chiếc xe Rolls Royce ra đi. Đi đâu về hướng đó? Nếu không là tới Núi Voi? Đi Mỹ Tho không thể là chuyện thực hiện được. Tôi vẫn nhớ rõ là bà Huỳnh Lan Anh ra lệnh một tiếng đồng hồ nữa là phải có xe cho bà đi. Hai tên Ca-sa-bỉ-ba lái chiếc Rolls Royce tới Núi Voi để làm gì? … Chỉ có cách theo đến tận nơi mới biết được.
Núi ông Voi kia rồi, còn cách chừng ba, bốn trăm thước nữa. Bác Phối và tôi xuống xe, dúi sâu vào đám cỏ cao rậm rồi quay ra cuốc bộ, đi lần tới. Mỏ đá rộng lắm, trông như một cái lũng lớn ăn sâu mãi vào sườn núi Voi. Hai bên thành đứng thẳng như hai bức tường vĩ đại. Cạnh thứ ba sấn vào sườn núi; phía trên một ghềnh đá lớn nhô ra như một cái mái hiên thiên tạo. Đến gần cửa hầm đá, bác Phối và tôi dè dặt bước chân tiến tới. Tôi giật thót mình khi thấy chiếc Rolls Royce ngoan ngoãn nằm im dưới mái hiên đá. Đi ngoài xa hay ở trên sườn núi, nếu vô tình, không thể trông thấy chiếc xe hơi đẹp nhất nước Việt Nam ấy được. Tôi giơ tay ra hiệu cho bác Phối, hai anh em men dần theo sườn núi thoai thoải. Năm phút sau, cả hai đã đứng ngay trên nóc “mái hiên”. Tôi ghé tai bảo bác Phối ngồi nép xuống, riêng tôi, nằm soài ra rồi bò tiến dần ra mép ghềnh đá.
Bác Phối thì thào:
- Thấy tụi nó làm gì dưới ấy không, chú Chiêm?
Tôi rướn dài cổ nhòm xuống:
- Bác Phối! Tôi chỉ trông thấy cái đỉnh đầu của tên Kha Bỉ thôi. A, hình như nó đang mở thùng xe.
Tôi thấy tên tài xế mới đi lên phía mũi xe, tay hắn cầm một cái hộp gì xinh xinh màu đen.
Tôi ghé vào tai bác Phối:
- Cái hộp ở tay Kha Bỉ to bằng gói thuốc lá, mặt có chữ số, có kim chỉ như mặt đồng hồ đó, bác Phối.
Hai tên Ả Rập mở cửa bước vào trong xe. Không nghe tiếng chúng nói gì nữa. Nhìn xuống, chỉ còn thấy cái nóc mui xe. Không biết tụi họ lúi húi trong đó làm gì, tìm cái gì và tìm ở chỗ nào trong cái xe đẹp đó. Dồn sức vào hai cánh tay, tôi trườn người về phía sau, hạ thấp giọng:
- Tôi định thế này! Bác Phối! Nhưng cần bác giúp một tay thì mới được!
- Được, anh sẵn sàng, chú cứ yên trí đi!
Giờ đây ngồi hồi tưởng lại, tôi vẫn giật mình thon thót tự nhủ: “Hôm ấy thật tình mình liều quá sức là liều!”. Nhưng bữa đó, tôi nghiến răng cương quyết thực hành ý định:
- Bác Phối! Tôi muốn dòm vào trong xe xem hai tên Ả Rập đang làm gì!
Bác Phối ngơ ngác:
- Nhưng làm thế nào chứ, chú em?
Tôi đưa tia nhìn ước lượng chiều dài hai cánh tay bác tài xế. À! Hai cánh tay bác cộng với chiều cao thân mình tôi, có lẽ… được đấy!
Và tôi giải thích, giọng nói nhẹ như hơi gió nhưng thật rõ ràng lọt vào tai bác Phối, những nét chính trong việc trinh sát địch.
Thế là mấy phút sau, cái thân xác chưa đầy 35 kí của tôi đã, đầu xuống đất, treo toòng teng. Hai cổ chân được hai bàn tay mạnh của bác Phối nắm giữ thật chắc, trong khi hai bàn tay tôi chống nhẹ lên nóc mui chiếc xe Rolls Royce. Trong tình trạng “trồng cây chuối” nghẹt thở như thế tôi vẫn đủ bình tĩnh liên tưởng đến một mục trình diễn hát xiệc rất khôi hài do CT3 đóng vai chính.
Hai cánh tay tôi nhẹ cong lại. Cử động đó báo cho bác tài xế biết là phải thả “cần trục” thấp xuống nữa. Quả nhiên, đầu được thòng xuống có tới năm phân nữa, tôi nhẹ nhàng di chuyển hai bàn tay, nhích dần tới ô kính phía hậu xe. Tầm mắt tôi đụng đường viền phía trên cửa kính, cần cổ cố kéo dài thêm. Bác Phối biết ý, thả thấp tay thên được chừng ba, bốn phân phụ trội. Bất giác tôi thầm khấn cho bác tài ở một vị thế đừng chới với lắm, nếu không, bác lộn cổ xuống theo tôi thì nguy cho cả hai không biết chừng nào.
Tôi trông thấy rõ ràng hai tên Ả Rập ở trong xe. Thiệt may, chúng đều xây lưng lại phía tôi. Tên Kha Bỉ cầm nơi tay một cái hộp đen, đang từ từ đưa đầu hộp rà rà theo lưng hàng ghế ngồi đàng trước, tên Du Đả thì quỳ hẳn xuống ghé sát tai vào chiếc hộp nghe ngóng.
Quái! Chúng đang làm cái gì vậy? Và cái hộp đen xinh xinh đó là hộp gì chứ? Chịu, không hiểu được.
Tôi đang giương đôi mắt ngạc nhiên nhìn không nháy qua ô kính thì đột nhiên khuôn mặt “bánh trung thu” của Du Đả chợt ngẩng lên, bắt gặp tia mắt tôi. Trong hai người, hắn và tôi, chẳng hiểu ai là người bị hoảng hồn hơn ai. Tôi linh cảm có lẽ là Du Đả, vì, đang lúi húi làm một việc gì bí mật, đột nhiên bắt gặp một đôi mắt nhìn mình không chớp … mà nhất là đôi mắt ấy lại lộn ngược nữa thì thật là thế gian này chắc chỉ có Du Đả là người duy nhất bị một vố “sợ” như thế.
Quả nhiên, y rú lên:
- A hả! A hả! A hả! A…
Đồng thời tôi cũng gọi bác Phối thất thanh:
- Kéo tôi lên! Kéo tôi lên! Mau! Bác Phối!
Cơ khổ! Bác tài quýnh lên, kéo chẳng thấy đâu, lại thấy bác rời hai tay ra khiến cả thân hình tôi lăn chiêng xuống như một khúc cây bị đốn ngã, lọt vào khe giữa hông xe và vách tuờng đá. Chưa kịp lấy lại hơi thở, chợt nghe tiếng cửa xe mở “xoạch”, tôi đã vội nhổm người ngồi lên nắp thùng xe phía sau, chỗ vịn hai tay lúc trước. Loáng nhanh mắt chợt thấy chùm chìa khoá “công tắc” xe cắm nơi ổ nắp thùng, tôi quơ vội cho vào túi quần.
Hai tên Ả Rập đang lừ lừ tiến lại mỗi tên một bên xe. Hết lối chạy. Bất giác ngẩng đầu: bác Phối đang cúi nhòm xuống. Trên khuôn mặt tái xanh của bác, tôi chỉ kịp thấy hai con mắt trợn tròn… to như hai quả bóng ping pong.
Hai tên Ca-sa-bỉ-ba cùng hộc lên một tiếng như beo gầm. Chúng lao người tới chụp nhanh như chớp xẹt. Phản ứng tự nhiên, thay vì nhẩy xuống đất thì chắc chắn sẽ dính vào hai gọng kìm, tôi trườn người ngược lên thùng xe rồi tụt nhanh xuống một bên hông. Hai tên Ả Rập lỡ trớn, lao bổ vào nhau, ngã bổ chửng, thét lên như tràng súng liên thanh: a rả! a rả! a rả! rả… rả... Lợi dụng mấy giây tích tắc quý báu đó, trong lúc hai tên chân tay còn vướng khoặc vào nhau, tôi lao đầu chạy như bay ra phía cửa hầm đá. Phía sau đã nghe tiếng chân đuổi theo thình thịch. Tôi nghiến răng hết sức tăng tốc độ nhưng khoảng cách vẫn thu ngắn thấy rõ.
Trời phật phò hộ tôi! Tên Kha Bỉ bỗng vấp chân vào một cục đá ngầm ở mặt đất, ngã sóng soài, Du Đả chạy sát nút, mất đà ngã chồm lên đồng bọn. Lại một hồi “a rả rả, a rả ra” vang lên như sấm nổ. Tôi cũng không còn đủ can đảm dừng lại để quan sát về vụ tai nạn lưu thông “thiệt hại vật chất” này xem ra sao nữa. Và, nếu nhớ không lầm, có lẽ từ thuở bé đến giờ, chưa lần nào tôi nhẩy phóc lên xe đạp lao vút đi nhanh như lần đó. Được một quãng kha khá, quay đầu lại, đã thấy bác Phối gầm đầu, cúi rạp người trên chiếc xe “ghi đông” “xe ba gác”, hai chân đạp như tay cua-rơ về nhất đang lao tới đích. Tâm trí bình tĩnh hẳn lại, tôi nhớ ra chùm chìa khoá xe Rolls Royce hiện còn nằm ngoan ngoãn trong túi quần. Thú quá, tôi cười bật lên ha hả. Vừa sắp tới, bác Phối thấy tôi cười “kỳ” như vậy, trợn đôi mắt ngạc nhiên. Thở ồ ồ như ống bể lò rèn, bác vẫn còn đủ hơi hỏi tôi:
- Quái thật! Tình thế gay cấn đến nước này, anh không hiểu sao chú em lại còn cười được chứ!
Tôi liền giơ ra trước mắt bác chùm chìa khoá:
- Cái này này bác Phối! Hai thằng “a rả” đó hết đường chạy chiếc Rolls Royce được nữa. Thắng lợi như thế không đáng cười chút sao?
Bác tài xế chợt cau cặp chân mày:
- Không được rồi em ơi… Phải đưa trả lại cho tụi nó! Phải đưa trả lại cho tụi nó ngay đi.
Tôi hét lên:
- Ý! Quay lại đem chìa khoá trả cho chúng nó?
Đầu bác Phối gật gù, giọng nói nghiêm trọng:
- Đúng vậy đó, chú Chiêm! Bà chủ cần đi! Ngót một giờ nữa là phải có xe cho bà.
Đột nhiên tôi lại cảm thấy ngay rằng “sếp” có một vài điều gì đó giấu nhẹm không cho tôi biết. Hừ! Bắt người ta xung phong làm những việc nguy hiểm rồi có cái gì hay ho thú vị thì gạt người ta ra rìa. Ức quá…! Nhưng tôi tự an ủi rằng “sếp” vẫn thường có thái độ như vậy mỗi khi anh gần đi tới đích, sắp sửa tìm ra đáp số của một bài toán khó… Tôi rời bỏ đường Lục tỉnh rẽ vào con lộ đất đỏ vùng Phú Định. À, lại con đường bị tên ném đá phục kích hôm trước. Lần này thì đừng hòng! Cắm đầu chăm chú đạp xe lên dốc, đôi mắt tôi không ngớt liếc loang loáng hai bên đường, soi mói từng bụi cây, đám cỏ, đề phòng một cuộc đột kích bất ngờ. Còn chừng một trăm thước nữa tới cổng biệt thự, tôi xuống xe dắt vào lề đường, giấu kín trong một đám cỏ cao rậm, rồi cứ men theo bờ cỏ, nhẹ chân bước, rón rén tiến lại gần tòa nhà cổ kính. Nhìn thấy người khác mà người khác không nhìn thấy mình là một chiến thuật căn bản, nhân viên hãng CT2 phải thuộc nằm lòng…
Ẩn mình sau một gốc cây sung cổ thụ, tôi liếc nhanh mắt vào bên trong khuôn viên biệt thự Lan Anh…
Nhân vật trông thấy khiến tôi suýt buộc miệng la lên một tiếng lớn: Du Đả!
Đích thị tên bị xe đụng bữa nọ! Trông hắn rõ ràng là chẳng bị thương hay đau đớn một chút nào. Không biết tên này lách vào khuôn viên bằng cách nào trong khi cửa lớn vẫn đóng. Hắn từ phía sau nhà xe xuất hiện và nhẹ chân chạy vun vút lên cầu thang dẫn tới căn nhà nhỏ của tên tài xế mới. Cửa mở, hắn lọt vào, quài tay khép cánh cửa rất lẹ. Tôi lựa một chỗ thật êm, khuất vào hõm cây, bình tĩnh ngồi chờ. Tia mắt bắt dính vào khuôn cửa đóng của căn nhà tài xế…
Có tới mười phút sau, Du Đả xuất hiện, theo sau là Kha Bỉ. Hai tên lao vun vút xuống cầu thang, chạy nhanh vào nhà để xe, cửa đã mở sẵn từ bao giờ. Tôi trông thấy rõ ràng chiếc xe Rolls Royce bóng loáng và hai tên Ả Rập đứng sát bên nhau. Chúng đang mải miết bàn soạn gì đó thì phải. Cách xa quá, tôi chịu không nghe được một tiếng gì. Đột nhiên Du Đả gật mạnh đầu một cái rồi cả hai bước ra ngoài. Tụi họ tiến về phía sau ngôi nhà lớn rồi xăm xăm bước tới một khu nhà tròn, kiểu nhà ngồi hóng mát. Tôi và Trí đã thấy từ trước địa điểm này. Chờ cho hai người đi khuất, tôi lập tức rời hốc cây, chui qua rào kẽm gai lọt vào, nhẩy hai buớc như khi đá banh mang được quả bóng da đến trước cửa thành đối phương, sắp sửa sút một cú như súng trái phá. Tới chân cầu thang, tôi nhẩy bực còn nhanh gấp mấy lần tên Du Đả hồi nẫy, đưa tay xoay quả đấm cửa… Trời Phật phò hộ! May quá, cánh cửa không khoá. Tôi lọt vào trong nhà tên tài xế mới, loáng tia mắt quét trọn một vòng.
Trên mặt chiếc bàn con, một cái bàn chải tóc nằm tênh hênh. Bốn sợi tóc hung hung đỏ nằm trong kẽ răng bàn chải. Không đủ một lọn tóc như “sếp” đã chỉ thị. Nhưng… còn hơn không. Hai ngón tay tôi rút nhanh bốn sợi tóc quý hoá đó, lượm một miếng giấy con gói lại cẩn thận rồi nhét ngay vào túi quần sau.
Niềm hân hoan thật không bút nào tả xiết. Tôi cứ lo ngay ngáy là sứ mạng không thể nào thực hiện nổi. Thế mà…! “Mít-sông anh-pốp-síp” Ha! Ha!
Tôi quay mình tiến ra phía cửa. Đúng lúc đó có tiếng người nói chuyện: Du Đả và Kha Bỉ đang quay về. Gần lắm rồi, tôi không thể nào ra kịp mà không bị hai tên đó bắt gặp. Đưa đôi mắt ngơ ngác, tôi tìm chổ ẩn nấp. Trời ơi! Nguy quá! Nếu hai tên lại mò lên và vớ được tôi thì chết. Tim đập thình thịch, đột nhiên tôi thở được một hơi dài khi nghe tiếng chân hai tên Ả Rập tiến thẳng vào nhà để xe. Nhưng hy vọng mới loé lên đã tắt ngóm ngay. Tiếng nói chuyện của hai tên từ phía dưới đưa lên nghe vang vang khiến tôi biết chắc rằng tụi họ đứng ngay trước cửa nhà xe. Như thế, nếu nhô ra chạy xuống cầu thang thế nào cũng bị bắt gặp. Chúng nói chuyện gì với nhau toàn bằng tiếng Ả Rập nghe chỉ rõ những âm thanh “a rả, a rả, a rỉ”… rất quái dị. Nhưng qua những câu nói chí choé tôi bắt chợt được hai ba tiếng Việt Nam rõ ràng: “Núi ông Voi! Núi ông Voi!” Á, à! Núi ông Voi là một trái núi thấp ở quá Phú lâm, cách Phú Định chừng năm sáu cây số, chỗ đó là một hầm khai thác đá, lâu ngày không người trông coi, đã trở thành hoang phế. Đột nhiên tôi nghe tên Kha Bỉ la lên bằng tiếng Việt:
- Thôi được! Để tao đi lùng “nó” cho! Mày chỉ được cái bộ lười! Để tao lên, chờ đây nghe!
Chẳng hiểu Kha Bỉ dùng cái đại danh từ ngôi thứ ba số ít “nó” đây là có ý chỉ đồ vật, con vật hay con… người. Chỉ biết là cái chữ “nó” ấy đã khiến tim tôi như thót lại, tóc trên đầu như biết cựa quậy, dựng đứng cả lên, trong lòng chỉ còn le lói một tia hy vọng yếu ớt: chữ “nó” đây không phải là để ám chỉ tôi!
Bước chân nặng chịch của tên Kha Bỉ đã thình thịch đặt trên cầu thang. Nguy rồi! Tôi nằm soài ra sàn nhà, lăn nhanh vào gầm chiếc giường sắt có trải tấm “drap” trắng rộng phủ gần chấm đất.
Đột nhiên có tiếng người gọi to:
- Ê, ông bạn!
Buớc chân dừng lại. Tên Ả Rập mới leo tới nửa cầu thang. Tôi vui mừng hết sức khi nhận ra tiếng gọi của bác Phối, bác tài xế thân mến của tụi tôi.
- Bà chủ đang tìm anh đó, mau lên!
Tiếng Kha Bỉ nghe bực bội ra mặt:
- Vâng! Vâng! Tôi xuống đây!
Chờ cho tiếng bước chân xuống hết cầu thang, đi xa dần, tôi mới chạy lao xuống, không gây tiếng động, chạy vút ra đầu hồi để xe, nép mình vào góc tường có lùm cây dại mọc chìa ra che kín. Để tay lên ngực cố chờ cho tim bớt đập mạnh rồi tôi mới men lại phía cửa sổ nhòm vào trong nhà xe.
Kha Bỉ đã trở xuống từ lúc nào và tên Du Đả thì đang im lặng đứng chờ bạn bên chiếc xe. Lại một tràng “a rả, a rỉ, a rả” nổ như bắp rang. Tôi không hiểu được tiếng nào. Nhưng nghe âm thanh vội vã và điệu bộ giơ chân múa tay của Kha Bỉ, tôi biết được ngay là bà chủ sắp sửa cần đến xe. Và một ngón tay tên tài xế mới giơ ra trước mặt bạn cho tôi hay là chừng một tiếng đồng hồ nữa là phải sẵn sàng có xe cho bà đi.
Hai tên vột vã bước vào trong chiếc Rolls Royce. Kha Bỉ mở máy. Chiếc xe lộng lẫy lướt êm ra khỏi nhà để xe, nhẹ bon tiến về phía cổng lớn.
Tôi tung chân chạy vòng quanh “ga-ra” gặp ngay bác Phối đang ngơ ngác đưa mắt ngó theo đứa con cưng của mình đang đi với người khác.
Tôi la lên bảo bác:
- Mau lên! Bác Phối! Đuổi theo tụi nó gấp!
Không một giây trù trừ, bác Phối quơ nhanh cái xe đạp, tay lái như tay lái xe ba gác, của bà chủ, rồi bác lao xuống dốc nhanh hết sức khiến cả người lẫn xe loạng choạng như người say rượu.
Ra tới đường Lục Tỉnh hướng về Phú Lâm bác Phối thở hổn hển quay mặt ngó tôi:
- Chú phải cho anh biết là tụi mình đi đâu và để làm cái gì đây chứ?
- Để làm gì, chưa biết, nhưng đi thì… đi tới chỗ này.
Hai anh em lại cắm đầu đạp đều đều có tới hơn ba cây số nữa, rồi tôi quẹo về tay trái. Hai chiếc xe đạp lại nhảy chồm chồm trên con lộ đất chưa đầy ba thước chiều ngang, đầy ổ gà, bụi cát mịt mù. Bác Phối chăm chú nhìn mặt đường không còn dịp hỏi han gì nữa. Tôi nghĩ thầm: “Hai tên Ả-Rập bàn soạn với nhau. Trong câu chuyện, xen lẫn vào những tiếng “Núi ông Voi, núi ông Voi”, giờ đây lại lén lút vội vã lái chiếc xe Rolls Royce ra đi. Đi đâu về hướng đó? Nếu không là tới Núi Voi? Đi Mỹ Tho không thể là chuyện thực hiện được. Tôi vẫn nhớ rõ là bà Huỳnh Lan Anh ra lệnh một tiếng đồng hồ nữa là phải có xe cho bà đi. Hai tên Ca-sa-bỉ-ba lái chiếc Rolls Royce tới Núi Voi để làm gì? … Chỉ có cách theo đến tận nơi mới biết được.
Núi ông Voi kia rồi, còn cách chừng ba, bốn trăm thước nữa. Bác Phối và tôi xuống xe, dúi sâu vào đám cỏ cao rậm rồi quay ra cuốc bộ, đi lần tới. Mỏ đá rộng lắm, trông như một cái lũng lớn ăn sâu mãi vào sườn núi Voi. Hai bên thành đứng thẳng như hai bức tường vĩ đại. Cạnh thứ ba sấn vào sườn núi; phía trên một ghềnh đá lớn nhô ra như một cái mái hiên thiên tạo. Đến gần cửa hầm đá, bác Phối và tôi dè dặt bước chân tiến tới. Tôi giật thót mình khi thấy chiếc Rolls Royce ngoan ngoãn nằm im dưới mái hiên đá. Đi ngoài xa hay ở trên sườn núi, nếu vô tình, không thể trông thấy chiếc xe hơi đẹp nhất nước Việt Nam ấy được. Tôi giơ tay ra hiệu cho bác Phối, hai anh em men dần theo sườn núi thoai thoải. Năm phút sau, cả hai đã đứng ngay trên nóc “mái hiên”. Tôi ghé tai bảo bác Phối ngồi nép xuống, riêng tôi, nằm soài ra rồi bò tiến dần ra mép ghềnh đá.
Bác Phối thì thào:
- Thấy tụi nó làm gì dưới ấy không, chú Chiêm?
Tôi rướn dài cổ nhòm xuống:
- Bác Phối! Tôi chỉ trông thấy cái đỉnh đầu của tên Kha Bỉ thôi. A, hình như nó đang mở thùng xe.
Tôi thấy tên tài xế mới đi lên phía mũi xe, tay hắn cầm một cái hộp gì xinh xinh màu đen.
Tôi ghé vào tai bác Phối:
- Cái hộp ở tay Kha Bỉ to bằng gói thuốc lá, mặt có chữ số, có kim chỉ như mặt đồng hồ đó, bác Phối.
Hai tên Ả Rập mở cửa bước vào trong xe. Không nghe tiếng chúng nói gì nữa. Nhìn xuống, chỉ còn thấy cái nóc mui xe. Không biết tụi họ lúi húi trong đó làm gì, tìm cái gì và tìm ở chỗ nào trong cái xe đẹp đó. Dồn sức vào hai cánh tay, tôi trườn người về phía sau, hạ thấp giọng:
- Tôi định thế này! Bác Phối! Nhưng cần bác giúp một tay thì mới được!
- Được, anh sẵn sàng, chú cứ yên trí đi!
Giờ đây ngồi hồi tưởng lại, tôi vẫn giật mình thon thót tự nhủ: “Hôm ấy thật tình mình liều quá sức là liều!”. Nhưng bữa đó, tôi nghiến răng cương quyết thực hành ý định:
- Bác Phối! Tôi muốn dòm vào trong xe xem hai tên Ả Rập đang làm gì!
Bác Phối ngơ ngác:
- Nhưng làm thế nào chứ, chú em?
Tôi đưa tia nhìn ước lượng chiều dài hai cánh tay bác tài xế. À! Hai cánh tay bác cộng với chiều cao thân mình tôi, có lẽ… được đấy!
Và tôi giải thích, giọng nói nhẹ như hơi gió nhưng thật rõ ràng lọt vào tai bác Phối, những nét chính trong việc trinh sát địch.
Thế là mấy phút sau, cái thân xác chưa đầy 35 kí của tôi đã, đầu xuống đất, treo toòng teng. Hai cổ chân được hai bàn tay mạnh của bác Phối nắm giữ thật chắc, trong khi hai bàn tay tôi chống nhẹ lên nóc mui chiếc xe Rolls Royce. Trong tình trạng “trồng cây chuối” nghẹt thở như thế tôi vẫn đủ bình tĩnh liên tưởng đến một mục trình diễn hát xiệc rất khôi hài do CT3 đóng vai chính.
Hai cánh tay tôi nhẹ cong lại. Cử động đó báo cho bác tài xế biết là phải thả “cần trục” thấp xuống nữa. Quả nhiên, đầu được thòng xuống có tới năm phân nữa, tôi nhẹ nhàng di chuyển hai bàn tay, nhích dần tới ô kính phía hậu xe. Tầm mắt tôi đụng đường viền phía trên cửa kính, cần cổ cố kéo dài thêm. Bác Phối biết ý, thả thấp tay thên được chừng ba, bốn phân phụ trội. Bất giác tôi thầm khấn cho bác tài ở một vị thế đừng chới với lắm, nếu không, bác lộn cổ xuống theo tôi thì nguy cho cả hai không biết chừng nào.
Tôi trông thấy rõ ràng hai tên Ả Rập ở trong xe. Thiệt may, chúng đều xây lưng lại phía tôi. Tên Kha Bỉ cầm nơi tay một cái hộp đen, đang từ từ đưa đầu hộp rà rà theo lưng hàng ghế ngồi đàng trước, tên Du Đả thì quỳ hẳn xuống ghé sát tai vào chiếc hộp nghe ngóng.
Quái! Chúng đang làm cái gì vậy? Và cái hộp đen xinh xinh đó là hộp gì chứ? Chịu, không hiểu được.
Tôi đang giương đôi mắt ngạc nhiên nhìn không nháy qua ô kính thì đột nhiên khuôn mặt “bánh trung thu” của Du Đả chợt ngẩng lên, bắt gặp tia mắt tôi. Trong hai người, hắn và tôi, chẳng hiểu ai là người bị hoảng hồn hơn ai. Tôi linh cảm có lẽ là Du Đả, vì, đang lúi húi làm một việc gì bí mật, đột nhiên bắt gặp một đôi mắt nhìn mình không chớp … mà nhất là đôi mắt ấy lại lộn ngược nữa thì thật là thế gian này chắc chỉ có Du Đả là người duy nhất bị một vố “sợ” như thế.
Quả nhiên, y rú lên:
- A hả! A hả! A hả! A…
Đồng thời tôi cũng gọi bác Phối thất thanh:
- Kéo tôi lên! Kéo tôi lên! Mau! Bác Phối!
Cơ khổ! Bác tài quýnh lên, kéo chẳng thấy đâu, lại thấy bác rời hai tay ra khiến cả thân hình tôi lăn chiêng xuống như một khúc cây bị đốn ngã, lọt vào khe giữa hông xe và vách tuờng đá. Chưa kịp lấy lại hơi thở, chợt nghe tiếng cửa xe mở “xoạch”, tôi đã vội nhổm người ngồi lên nắp thùng xe phía sau, chỗ vịn hai tay lúc trước. Loáng nhanh mắt chợt thấy chùm chìa khoá “công tắc” xe cắm nơi ổ nắp thùng, tôi quơ vội cho vào túi quần.
Hai tên Ả Rập đang lừ lừ tiến lại mỗi tên một bên xe. Hết lối chạy. Bất giác ngẩng đầu: bác Phối đang cúi nhòm xuống. Trên khuôn mặt tái xanh của bác, tôi chỉ kịp thấy hai con mắt trợn tròn… to như hai quả bóng ping pong.
Hai tên Ca-sa-bỉ-ba cùng hộc lên một tiếng như beo gầm. Chúng lao người tới chụp nhanh như chớp xẹt. Phản ứng tự nhiên, thay vì nhẩy xuống đất thì chắc chắn sẽ dính vào hai gọng kìm, tôi trườn người ngược lên thùng xe rồi tụt nhanh xuống một bên hông. Hai tên Ả Rập lỡ trớn, lao bổ vào nhau, ngã bổ chửng, thét lên như tràng súng liên thanh: a rả! a rả! a rả! rả… rả... Lợi dụng mấy giây tích tắc quý báu đó, trong lúc hai tên chân tay còn vướng khoặc vào nhau, tôi lao đầu chạy như bay ra phía cửa hầm đá. Phía sau đã nghe tiếng chân đuổi theo thình thịch. Tôi nghiến răng hết sức tăng tốc độ nhưng khoảng cách vẫn thu ngắn thấy rõ.
Trời phật phò hộ tôi! Tên Kha Bỉ bỗng vấp chân vào một cục đá ngầm ở mặt đất, ngã sóng soài, Du Đả chạy sát nút, mất đà ngã chồm lên đồng bọn. Lại một hồi “a rả rả, a rả ra” vang lên như sấm nổ. Tôi cũng không còn đủ can đảm dừng lại để quan sát về vụ tai nạn lưu thông “thiệt hại vật chất” này xem ra sao nữa. Và, nếu nhớ không lầm, có lẽ từ thuở bé đến giờ, chưa lần nào tôi nhẩy phóc lên xe đạp lao vút đi nhanh như lần đó. Được một quãng kha khá, quay đầu lại, đã thấy bác Phối gầm đầu, cúi rạp người trên chiếc xe “ghi đông” “xe ba gác”, hai chân đạp như tay cua-rơ về nhất đang lao tới đích. Tâm trí bình tĩnh hẳn lại, tôi nhớ ra chùm chìa khoá xe Rolls Royce hiện còn nằm ngoan ngoãn trong túi quần. Thú quá, tôi cười bật lên ha hả. Vừa sắp tới, bác Phối thấy tôi cười “kỳ” như vậy, trợn đôi mắt ngạc nhiên. Thở ồ ồ như ống bể lò rèn, bác vẫn còn đủ hơi hỏi tôi:
- Quái thật! Tình thế gay cấn đến nước này, anh không hiểu sao chú em lại còn cười được chứ!
Tôi liền giơ ra trước mắt bác chùm chìa khoá:
- Cái này này bác Phối! Hai thằng “a rả” đó hết đường chạy chiếc Rolls Royce được nữa. Thắng lợi như thế không đáng cười chút sao?
Bác tài xế chợt cau cặp chân mày:
- Không được rồi em ơi… Phải đưa trả lại cho tụi nó! Phải đưa trả lại cho tụi nó ngay đi.
Tôi hét lên:
- Ý! Quay lại đem chìa khoá trả cho chúng nó?
Đầu bác Phối gật gù, giọng nói nghiêm trọng:
- Đúng vậy đó, chú Chiêm! Bà chủ cần đi! Ngót một giờ nữa là phải có xe cho bà.
CHƯƠNG XII
CON MA ÁNH BẠC
Trí cất tiếng hỏi:
- Thế rồi Chiêm nghe lời bác Phối cầm xâu chìa khóa quay lại trả cho tụi kia?
- Ý! Tôi ấy hả? Còn lâu! Có các vàng tôi cũng chẳng dám quay lại hầm đá nữa!
- Vậy thì bác Phối…
- Đúng vậy! Bác Phối đã trở lại đưa trả cho tụi “a rả” xâu chìa khoá xe. Vì, cứ cái gì dính dáng đến bà chủ là y như bác Phối sẽ chu đáo cẩn thận lắm.
Một lúc sau, Trí cất tiếng hỏi:
- Nhưng mình hy vọng rằng vụ “giồng cây chuối” nghẹt thở này vẫn không khiến cho Chiêm quên được công tác mình đã giao phó.
Tôi giật thót mình, nghĩ thầm thật nhanh:
- Thôi nguy rồi! Chỉ sợ trong lúc cùng bác Phối làm trò hát xiệc để rình mò hai tay Ả Rập, lộn dốc ngược túi, lỡ cái gói giấy đã tuột ra rơi khỏi túi quần.
Đưa nhanh tay sờ, tiếng giấy sột soạt ở túi quần sau khiến tôi vững bụng. Rút gói, mở ra: bốn sợi tóc hung của Kha Bỉ vẫn nằm ngoan trong đó.
Trí cầm gọn mấy sợi tóc đưa lên gần mắt:
- Tuyệt quá CT3! Tuyệt quá! Thành thực ngợi khen CT3, nghe!
Tôi khoái quá:
- Cám ơn “sếp”! – Tôi vui sướng thật tình, vì lẽ xưa nay Trí vốn rất hà tiện lời khen như người ta hà tiện tiêu tiền mới vậy. Và tôi vẫn thắc mắc chẳng hiểu mấy sợi tóc đó thì ăn nhậu gì đến cái vụ “A rập, a rỉ, a rả” này.
Trí giải thích:
- Chiêm cứ nhớ rằng hiện giờ chúng ta có hai điều bí mật cần phải khám phá cho ra. Thứ nhất: Vụ tai nạn đụng xe giả tạo đã khiến bác Phối bị treo bằng lái xe. Thứ nhì: báu vật mà tụi Kha Bỉ và Du Đả lục lọi bới tìm trong cái xe hơi đẹp Rolls Royce của bà Huỳnh Lan Anh.
- Theo ý anh thì tụi nó tìm kiếm cái gì trong đó?
- Tôi đã đoán ra được lờ mờ. Để còn phải thử lại bài tính cho thật chắc đã. Dù sao thì tôi cũng đã tin rằng giả thuyết của tôi thế nào cũng đúng. Vì thế mình đã phải lặn lội lên tận Biên Hoà…để tìm tài liệu… chớ không phải lên để hóng mát, xả hơi đâu nghe, Chiêm!
Rồi anh cau cau vầng trán rộng:
- Tuy nhiên có một điểm khiến tôi hơi băn khoăn một chút. Khi Hoàng Tử Hà Lam kể cho tụi mình nghe về lễ đăng quang đó, ông đã lờ đi không nói đến một đoạn quan trọng nhất trong cuộc lễ. Có thể là ông quên chăng? Nhưng theo tôi nghĩ thì ông không nói đến cái mục quan trọng đó vì chính ông, ông cũng không biết nốt.
- Vậy ra, lên Biên Hoà, anh đã tìm ra được nhiều điều quan trọng lắm?
- Đúng vậy đó Chiêm! Tuyệt lắm! Thư viện tại Biên Hoà có lưu trữ một số báo chí ngoại quốc lâu đời có tới gần một thế kỷ, trong số có một xấp báo Luân Đôn thời sự. Tôi đã nhờ ông Tổng Thư Ký Thư Viện giảng cho mấy mục nói về Ca-sa-bỉ-ba quốc thật hay, thật thú vị và quan trọng lắm. Và bây giờ mình muốn hỏi bác Phối hoặc Hoàng Tử Hà Lam về vụ chiếc xe hơi Rolls Royce này. Chiều nay tụi mình tới tìm bác Phối nghe Chiêm!
Tôi khoái quá:
- Ừ, đi chứ! Quả tình tôi cũng nóng lòng muốn biết xem bác Phối khi đem trả lại chìa khoá có bị tui kia làm rắc rối gì không.
Ngay lúc đó, bỗng có tiếng ông Bích Tâm nói vang vang qua ống nội đàm, phương tiện thông tin tiện lợi này cũng lại do “sếp” tôi hì hục làm gần một tuần mới xong, hiện đặt ngay trên bàn anh, trong phòng thí nghiệm.
Giáo sư Bích Tâm cho biết hiện thời Hoàng Tử Hà Lam đang ở văn phòng ông. Ông sắp sửa đưa Hà Lam trở lại biệt thự Huỳnh Lan Anh và hỏi chúng tôi có muốn đi cùng cho vui không. Hai anh em vui mừng không để ông phải hỏi tới lần thứ hai đã vội xin được cùng đi ngay.
Ngồi trong xe, tôi không có dịp nào để hỏi Trí nữa. Nhiều điều nóng lòng muốn biết cứ nhẩy loạn xạ trong đầu óc mà không thể mở miệng nói ra vì có sự hiện diện của giáo sư Bích Tâm, ba Trí, và Thái Tử Hà Lam. Liếc nhìn Trí, tôi nhận thấy anh cũng nóng muốn cho tôi biết điều quan trọng đã khám phá ra được ở Biên Hoà. Trong đầu, tôi thầm đoán: chắc chỉ là cái báu vật bí mật mà Kha Bỉ và Du Đả đang sục sạo đi tìm.
Và tôi cho rằng cái báu vật đó hình dáng giống cái bình cắm bông! À! Hay là chiếc ly báu bằng bạch kim đựng thứ nước Đồng Sinh cần dùng trong ngày lễ đăng quang của vị vua Ca-sa-bỉ-ba quốc? Vô lý! Chiếc ly báu đó, đồ quốc bảo, sao lại có thể lọt ra được và nếu lọt ra được thì lọt bằng cách nào chứ?... Nhìn vẻ mặt Trí, tôi có cảm giác là anh đã biết được điều bí mật đó rồi.
Xe vừa rẽ vào sân trong khuôn viên biệt thự, Trí và tôi đã trông thấy bác Phối, một tay đặt ngang ngực, một bàn tay chống cằm, lưng dựa vào thành chiếc xe Rolls Royce bóng loáng, đưa mắt nhìn đăm đăm một điểm nào đó trong khoảng không trước mặt. Nét mặt bác tài hiền lành còn hằn in rõ rệt vẻ kinh hoàng vì chuyến mạo hiểm hôm qua tại hầm đá nhưng không thấy bác bị thương tích hay rách quần lấm áo gì, tôi cảm thấy yên trí vô cùng.
Giáo sư Bích Tâm, vội vã đi vào trong nhà nói chuyện với bà Lan Anh. Thái Tử Hà Lam, tuổi cỡ tụi tôi, hoặc có hơn, chắc cũng chỉ hơn hai hay ba là cùng, còn ham vui, đứng lại cùng Trí và tôi, bên cạnh bác Phối. Tiếng Trí:
- Này bác Phối à! Bác có biết gì về chuyện cái xe Rolls Royce này không, hả bác Phối?
- Biết chứ chú Trí! Tôi không biết thì còn ai biết nữa! Đây là kiểu cuối cùng của loạt… “con ma ánh bạc” đấy!
Trí trợn tròn mắt:
- Cái gì? Con ma ánh bạc?
Bác tài giải thích:
- Đúng! Đó là tên các kỹ sư chế tạo đã đặt ra cho nó đấy. Loại cuối cùng hiệu xe Rolls Royce này được chế tạo từ năm 1952 kia. Riêng chiếc của bà chủ đây thì đã được chế tạo đặc biệt theo ý muốn riêng của Đức Vua Hà Kim nhân đức, phụ vương Thái Tử Hà Lam đây, hồi chưa hạ sanh Thái Tử kia mà. Ngài có nhớ được chút gì về chiếc xe này không, thưa Thái Tử?
- Cũng không nhớ được nhiều lắm đâu. À, tôi chỉ biết rằng ngày xưa, hồi còn phụ vương, chiếc xe Rolls này còn có một tấm bửng phía trên thùng sau. Tấm bửng đó đành cho toán sĩ quan hộ vệ vua cha. Họ phải ngồi riêng chớ không được ngồi trong xe của đức Vua. Nghi lễ triều đình Ca-sa quốc đã định rõ như vậy…
Sau một tiếng thở dài, Thái Tử Hà Lam nói tiếp:
- Giờ đây, chắc đã thay đổi hết cả rồi!
Trí óc giàu tưởng tượng của tôi máy động và tôi hình dung ngay được một chiếc xe Rolls Royce màu cà phê sữa nhạt, viền xe, vành bánh, đường cong bằng bạc quý sáng lấp lánh, chạy như bay qua bãi sa mạc rộng mênh mông. Và bốn dũng sĩ hộ giá vua, ngồi nghiêm túc ở bửng phía sau, bốn bộ “djellabah” áo choàng dài rộng thùng thình đặc biệt của dân Ả Rập, tung bay tơi bời theo gió lộng. Ối chà! Con ma ánh bạc, con ma ánh bạc… Tia mắt tự động quay nhìn chiếc Rolls Royce, lòng riêng tôi lại tăng thêm phần kính nể cái xe hơi lịch sử này.
Trí lại hỏi:
- Thế “con ma ánh bạc” này về tay bà Huỳnh Lan Anh đã lâu chưa bác Phối?
- Không! Không lâu lắm đâu, mới khoảng năm sáu tháng thôi hà! Ngay sau khi đức vua Hà Kim băng hà, các vị trung thần tuân hành lời di ngôn của ngài đã trao chiếc xe quý cho bà, kèm theo bức thư dài do đích tay vị minh quân thủ bút. Ở trong đó có một câu như sau:”Đây là món quà cuối cùng của một người bạn để tỏ lòng biết ơn một người bạn đã hết lòng làm cho nước mình được giàu dân mình được thịnh”.
Thái tử Hà Lam:
- Ngày bà Huỳnh Lan Anh lãnh chiếc xe này tôi còn nhớ rõ lắm. Bà cứ thấy cái xe thì lại nhớ tiếc đến vua cha. Rồi bà cho đem qua Anh quốc thăm tôi, đón tôi đi chơi khắp nơi tại kinh thành Luân Đôn. Bà thuờng nói: “Cứ nhìn thấy tôi là đỡ thương, đỡ nhớ phụ vuơng”. Và bà yêu quý nó không muốn rời xa một bước nào. Khi trở lại Việt Nam, bà cũng đem theo về, mặc dầu tiền cước phí tốn hao ghê gớm.
Bác tài Phối thắc mắc hỏi Trí:
- Nhưng tại sao chú Trí lại cứ hỏi han kỹ quá về chiếc xe Rolls Royce này như vậy chứ?
Trí, tia mắt đăm chiêu, cất tiếng ai nấy đều nghe rõ mà như thể tự nói với mình:
- Nhất định trong chiếc xe quý này có giấu một báu vật gì quan trọng lắm, một báu vật định đoạt cả cuộc đời của Thái Tử Hà Lam.
Chẳng ai bảo ai, ba người chúng tôi đều “a” lên một tiếng, chưa kịp nói gì thì Trí đã tiếp:
- Mà theo tôi thì báu vật đó có hình dáng như một chiếc bình xinh xinh để cắm bông. Và tôi dám nói rằng báu vật đó chỉ giấu kỹ nội trong chiếc xe Rolls Royce này mà thôi.
Tôi giật mình chợt nhớ ra hành động kỳ lạ của hai tên Ả Rập tại hầm đá Núi Voi nữa nọ:
- À, thế thì Kha Bỉ và Du Đả chắc cũng nghĩ như anh. Hôm ở hầm đá trong núi, chúng dùng cả một cái hộp gì đen đen để rà tìm khắp mọi góc kẹt trong xe nữa đó.
Trí chợt khẽ kêu:
- Cái gì, Chiêm? Chiêm vừa nói hộp gì?
- Một cái hộp đen to hơn gói thuốc là một chút. Tôi chẳng nói với anh rồi là gì!
Trí cau cặp chân mày cười nhếch môi:
- Nói hồi nào? Nếu Chiêm đã nói cho tôi biết thì giờ đây tôi còn hỏi làm quái gì nữa chứ!
Tôi cười xoà đánh trống lấp:
- Nếu vậy thì nghe đây này: hai tay Kha Bỉ, Du Đả đã dùng một cái hộp màu đen, nhỏ hơn hộp thuốc lá của ba Trí một chút, trên mặt có ghi chữ số y hệt mặt đồng hồ vậy. Và chúng cứ rà rà đầu hộp dọc theo các mép cạnh ghế ngồi trong xe như thể rà… mìn vậy.
Đôi mắt Trí long lanh sáng quắc:
- A! Đúng máy rà tìm chất uranium, kiểu “Geiger” rồi.
- Tôi chợt nghĩ: Tìm chất uranium, một loại kim khí rất quý, rất hiếm... giấu trong xe hơi. Vô lý! Và liếc nhanh mắt ngó anh, tôi tự nhủ:
- Phen này chắc “sếp” tôi rớt đài thua cuộc mất thôi!
Giữa giây phút bất ngờ, Trí bỗng hét to:
- Này bác Phối! Này Hà Lam! Chiêm! Hãy nghe tôi nói: chúng ta phải đem cái xe Rolls Royce này ra khỏi đây, và ngay bây giờ, mau lên.
- Thế rồi Chiêm nghe lời bác Phối cầm xâu chìa khóa quay lại trả cho tụi kia?
- Ý! Tôi ấy hả? Còn lâu! Có các vàng tôi cũng chẳng dám quay lại hầm đá nữa!
- Vậy thì bác Phối…
- Đúng vậy! Bác Phối đã trở lại đưa trả cho tụi “a rả” xâu chìa khoá xe. Vì, cứ cái gì dính dáng đến bà chủ là y như bác Phối sẽ chu đáo cẩn thận lắm.
Một lúc sau, Trí cất tiếng hỏi:
- Nhưng mình hy vọng rằng vụ “giồng cây chuối” nghẹt thở này vẫn không khiến cho Chiêm quên được công tác mình đã giao phó.
Tôi giật thót mình, nghĩ thầm thật nhanh:
- Thôi nguy rồi! Chỉ sợ trong lúc cùng bác Phối làm trò hát xiệc để rình mò hai tay Ả Rập, lộn dốc ngược túi, lỡ cái gói giấy đã tuột ra rơi khỏi túi quần.
Đưa nhanh tay sờ, tiếng giấy sột soạt ở túi quần sau khiến tôi vững bụng. Rút gói, mở ra: bốn sợi tóc hung của Kha Bỉ vẫn nằm ngoan trong đó.
Trí cầm gọn mấy sợi tóc đưa lên gần mắt:
- Tuyệt quá CT3! Tuyệt quá! Thành thực ngợi khen CT3, nghe!
Tôi khoái quá:
- Cám ơn “sếp”! – Tôi vui sướng thật tình, vì lẽ xưa nay Trí vốn rất hà tiện lời khen như người ta hà tiện tiêu tiền mới vậy. Và tôi vẫn thắc mắc chẳng hiểu mấy sợi tóc đó thì ăn nhậu gì đến cái vụ “A rập, a rỉ, a rả” này.
Trí giải thích:
- Chiêm cứ nhớ rằng hiện giờ chúng ta có hai điều bí mật cần phải khám phá cho ra. Thứ nhất: Vụ tai nạn đụng xe giả tạo đã khiến bác Phối bị treo bằng lái xe. Thứ nhì: báu vật mà tụi Kha Bỉ và Du Đả lục lọi bới tìm trong cái xe hơi đẹp Rolls Royce của bà Huỳnh Lan Anh.
- Theo ý anh thì tụi nó tìm kiếm cái gì trong đó?
- Tôi đã đoán ra được lờ mờ. Để còn phải thử lại bài tính cho thật chắc đã. Dù sao thì tôi cũng đã tin rằng giả thuyết của tôi thế nào cũng đúng. Vì thế mình đã phải lặn lội lên tận Biên Hoà…để tìm tài liệu… chớ không phải lên để hóng mát, xả hơi đâu nghe, Chiêm!
Rồi anh cau cau vầng trán rộng:
- Tuy nhiên có một điểm khiến tôi hơi băn khoăn một chút. Khi Hoàng Tử Hà Lam kể cho tụi mình nghe về lễ đăng quang đó, ông đã lờ đi không nói đến một đoạn quan trọng nhất trong cuộc lễ. Có thể là ông quên chăng? Nhưng theo tôi nghĩ thì ông không nói đến cái mục quan trọng đó vì chính ông, ông cũng không biết nốt.
- Vậy ra, lên Biên Hoà, anh đã tìm ra được nhiều điều quan trọng lắm?
- Đúng vậy đó Chiêm! Tuyệt lắm! Thư viện tại Biên Hoà có lưu trữ một số báo chí ngoại quốc lâu đời có tới gần một thế kỷ, trong số có một xấp báo Luân Đôn thời sự. Tôi đã nhờ ông Tổng Thư Ký Thư Viện giảng cho mấy mục nói về Ca-sa-bỉ-ba quốc thật hay, thật thú vị và quan trọng lắm. Và bây giờ mình muốn hỏi bác Phối hoặc Hoàng Tử Hà Lam về vụ chiếc xe hơi Rolls Royce này. Chiều nay tụi mình tới tìm bác Phối nghe Chiêm!
Tôi khoái quá:
- Ừ, đi chứ! Quả tình tôi cũng nóng lòng muốn biết xem bác Phối khi đem trả lại chìa khoá có bị tui kia làm rắc rối gì không.
Ngay lúc đó, bỗng có tiếng ông Bích Tâm nói vang vang qua ống nội đàm, phương tiện thông tin tiện lợi này cũng lại do “sếp” tôi hì hục làm gần một tuần mới xong, hiện đặt ngay trên bàn anh, trong phòng thí nghiệm.
Giáo sư Bích Tâm cho biết hiện thời Hoàng Tử Hà Lam đang ở văn phòng ông. Ông sắp sửa đưa Hà Lam trở lại biệt thự Huỳnh Lan Anh và hỏi chúng tôi có muốn đi cùng cho vui không. Hai anh em vui mừng không để ông phải hỏi tới lần thứ hai đã vội xin được cùng đi ngay.
Ngồi trong xe, tôi không có dịp nào để hỏi Trí nữa. Nhiều điều nóng lòng muốn biết cứ nhẩy loạn xạ trong đầu óc mà không thể mở miệng nói ra vì có sự hiện diện của giáo sư Bích Tâm, ba Trí, và Thái Tử Hà Lam. Liếc nhìn Trí, tôi nhận thấy anh cũng nóng muốn cho tôi biết điều quan trọng đã khám phá ra được ở Biên Hoà. Trong đầu, tôi thầm đoán: chắc chỉ là cái báu vật bí mật mà Kha Bỉ và Du Đả đang sục sạo đi tìm.
Và tôi cho rằng cái báu vật đó hình dáng giống cái bình cắm bông! À! Hay là chiếc ly báu bằng bạch kim đựng thứ nước Đồng Sinh cần dùng trong ngày lễ đăng quang của vị vua Ca-sa-bỉ-ba quốc? Vô lý! Chiếc ly báu đó, đồ quốc bảo, sao lại có thể lọt ra được và nếu lọt ra được thì lọt bằng cách nào chứ?... Nhìn vẻ mặt Trí, tôi có cảm giác là anh đã biết được điều bí mật đó rồi.
Xe vừa rẽ vào sân trong khuôn viên biệt thự, Trí và tôi đã trông thấy bác Phối, một tay đặt ngang ngực, một bàn tay chống cằm, lưng dựa vào thành chiếc xe Rolls Royce bóng loáng, đưa mắt nhìn đăm đăm một điểm nào đó trong khoảng không trước mặt. Nét mặt bác tài hiền lành còn hằn in rõ rệt vẻ kinh hoàng vì chuyến mạo hiểm hôm qua tại hầm đá nhưng không thấy bác bị thương tích hay rách quần lấm áo gì, tôi cảm thấy yên trí vô cùng.
Giáo sư Bích Tâm, vội vã đi vào trong nhà nói chuyện với bà Lan Anh. Thái Tử Hà Lam, tuổi cỡ tụi tôi, hoặc có hơn, chắc cũng chỉ hơn hai hay ba là cùng, còn ham vui, đứng lại cùng Trí và tôi, bên cạnh bác Phối. Tiếng Trí:
- Này bác Phối à! Bác có biết gì về chuyện cái xe Rolls Royce này không, hả bác Phối?
- Biết chứ chú Trí! Tôi không biết thì còn ai biết nữa! Đây là kiểu cuối cùng của loạt… “con ma ánh bạc” đấy!
Trí trợn tròn mắt:
- Cái gì? Con ma ánh bạc?
Bác tài giải thích:
- Đúng! Đó là tên các kỹ sư chế tạo đã đặt ra cho nó đấy. Loại cuối cùng hiệu xe Rolls Royce này được chế tạo từ năm 1952 kia. Riêng chiếc của bà chủ đây thì đã được chế tạo đặc biệt theo ý muốn riêng của Đức Vua Hà Kim nhân đức, phụ vương Thái Tử Hà Lam đây, hồi chưa hạ sanh Thái Tử kia mà. Ngài có nhớ được chút gì về chiếc xe này không, thưa Thái Tử?
- Cũng không nhớ được nhiều lắm đâu. À, tôi chỉ biết rằng ngày xưa, hồi còn phụ vương, chiếc xe Rolls này còn có một tấm bửng phía trên thùng sau. Tấm bửng đó đành cho toán sĩ quan hộ vệ vua cha. Họ phải ngồi riêng chớ không được ngồi trong xe của đức Vua. Nghi lễ triều đình Ca-sa quốc đã định rõ như vậy…
Sau một tiếng thở dài, Thái Tử Hà Lam nói tiếp:
- Giờ đây, chắc đã thay đổi hết cả rồi!
Trí óc giàu tưởng tượng của tôi máy động và tôi hình dung ngay được một chiếc xe Rolls Royce màu cà phê sữa nhạt, viền xe, vành bánh, đường cong bằng bạc quý sáng lấp lánh, chạy như bay qua bãi sa mạc rộng mênh mông. Và bốn dũng sĩ hộ giá vua, ngồi nghiêm túc ở bửng phía sau, bốn bộ “djellabah” áo choàng dài rộng thùng thình đặc biệt của dân Ả Rập, tung bay tơi bời theo gió lộng. Ối chà! Con ma ánh bạc, con ma ánh bạc… Tia mắt tự động quay nhìn chiếc Rolls Royce, lòng riêng tôi lại tăng thêm phần kính nể cái xe hơi lịch sử này.
Trí lại hỏi:
- Thế “con ma ánh bạc” này về tay bà Huỳnh Lan Anh đã lâu chưa bác Phối?
- Không! Không lâu lắm đâu, mới khoảng năm sáu tháng thôi hà! Ngay sau khi đức vua Hà Kim băng hà, các vị trung thần tuân hành lời di ngôn của ngài đã trao chiếc xe quý cho bà, kèm theo bức thư dài do đích tay vị minh quân thủ bút. Ở trong đó có một câu như sau:”Đây là món quà cuối cùng của một người bạn để tỏ lòng biết ơn một người bạn đã hết lòng làm cho nước mình được giàu dân mình được thịnh”.
Thái tử Hà Lam:
- Ngày bà Huỳnh Lan Anh lãnh chiếc xe này tôi còn nhớ rõ lắm. Bà cứ thấy cái xe thì lại nhớ tiếc đến vua cha. Rồi bà cho đem qua Anh quốc thăm tôi, đón tôi đi chơi khắp nơi tại kinh thành Luân Đôn. Bà thuờng nói: “Cứ nhìn thấy tôi là đỡ thương, đỡ nhớ phụ vuơng”. Và bà yêu quý nó không muốn rời xa một bước nào. Khi trở lại Việt Nam, bà cũng đem theo về, mặc dầu tiền cước phí tốn hao ghê gớm.
Bác tài Phối thắc mắc hỏi Trí:
- Nhưng tại sao chú Trí lại cứ hỏi han kỹ quá về chiếc xe Rolls Royce này như vậy chứ?
Trí, tia mắt đăm chiêu, cất tiếng ai nấy đều nghe rõ mà như thể tự nói với mình:
- Nhất định trong chiếc xe quý này có giấu một báu vật gì quan trọng lắm, một báu vật định đoạt cả cuộc đời của Thái Tử Hà Lam.
Chẳng ai bảo ai, ba người chúng tôi đều “a” lên một tiếng, chưa kịp nói gì thì Trí đã tiếp:
- Mà theo tôi thì báu vật đó có hình dáng như một chiếc bình xinh xinh để cắm bông. Và tôi dám nói rằng báu vật đó chỉ giấu kỹ nội trong chiếc xe Rolls Royce này mà thôi.
Tôi giật mình chợt nhớ ra hành động kỳ lạ của hai tên Ả Rập tại hầm đá Núi Voi nữa nọ:
- À, thế thì Kha Bỉ và Du Đả chắc cũng nghĩ như anh. Hôm ở hầm đá trong núi, chúng dùng cả một cái hộp gì đen đen để rà tìm khắp mọi góc kẹt trong xe nữa đó.
Trí chợt khẽ kêu:
- Cái gì, Chiêm? Chiêm vừa nói hộp gì?
- Một cái hộp đen to hơn gói thuốc là một chút. Tôi chẳng nói với anh rồi là gì!
Trí cau cặp chân mày cười nhếch môi:
- Nói hồi nào? Nếu Chiêm đã nói cho tôi biết thì giờ đây tôi còn hỏi làm quái gì nữa chứ!
Tôi cười xoà đánh trống lấp:
- Nếu vậy thì nghe đây này: hai tay Kha Bỉ, Du Đả đã dùng một cái hộp màu đen, nhỏ hơn hộp thuốc lá của ba Trí một chút, trên mặt có ghi chữ số y hệt mặt đồng hồ vậy. Và chúng cứ rà rà đầu hộp dọc theo các mép cạnh ghế ngồi trong xe như thể rà… mìn vậy.
Đôi mắt Trí long lanh sáng quắc:
- A! Đúng máy rà tìm chất uranium, kiểu “Geiger” rồi.
- Tôi chợt nghĩ: Tìm chất uranium, một loại kim khí rất quý, rất hiếm... giấu trong xe hơi. Vô lý! Và liếc nhanh mắt ngó anh, tôi tự nhủ:
- Phen này chắc “sếp” tôi rớt đài thua cuộc mất thôi!
Giữa giây phút bất ngờ, Trí bỗng hét to:
- Này bác Phối! Này Hà Lam! Chiêm! Hãy nghe tôi nói: chúng ta phải đem cái xe Rolls Royce này ra khỏi đây, và ngay bây giờ, mau lên.
_________________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG XIII, XIV