Tôi đang ngồi đọc báo trong
nhà, bỗng con Tuyến, cháu nội cô Ba tôi, chạy vào mếu máo mách:
- Chú Phương ơi, anh Thắng
ảnh đánh Tuyến!
Tôi buông tờ báo, đứng lên:
- Cha chả, cái thằng ăn hiếp
em há!... Thôi nín đi cưng, để chú xử tội nó.
Đoạn tôi bước ra ngoài tìm
thằng Thắng. Thấy nó còn đứng trước sân, lấm lét nhìn vào, tôi quát:
- Thắng, vô đây!
Nó ngần ngại, coi bộ muốn bỏ
chạy đi. Nhưng rồi, có lẽ liệu chắc khó thoát khỏi tay “già” chú có cặp giò sếu
vườn nầy, nên nó ngoan ngoãn đi vào. Nó vừa đến gần, tôi lấy mặt hầm hầm, quắc
mắt hỏi:
- Sao mầy đánh em, hả?
Nó bướng bỉnh nghênh mặt,
trả lời một hơi:
- Ai biểu nó đạp mấy cục đạn
đất của tui. Công người ta ra ruộng móc đất sét về, vò nắn cả buổi mệt thấy mồ,
mới đem phơi, nó chạy ngang đạp dẹp đép hết trọi, tức hôn?...
Con Tuyến xen vào:
- Tại em hổng thấy mà, anh
phơi ngay đường đi ai mà biết.
- Chỗ đó có nắng, tao phơi
chứ sao. Con gái gì mà đi hổng coi trước coi sau, nhảy choi choi như con khỉ!
Tôi nạt:
- Thôi im! Kiếm chuyện rầy
trở lại người ta để chạy tội hả?... Chuyện có thế cũng đánh em. Vậy mà mầy nói
thương nó lắm đa!
Thắng cúi đầu, lặng thinh
một lúc rồi nói:
- Tui đâu có muốn đánh nó…
Tôi cười:
- Không muốn đánh mà phát vào
lưng người ta đau đến khóc được. Mầy nói nghe lạ quá!
Nó giải thích:
- Hồi đầu tui chỉ dọa nó
thôi. Tui nói: “Tao vố mầy một bạt tai bi giờ”. Nó hổng sợ, còn nghinh nghinh
bảo: “Ừ, ngon đánh đi, dám dữ!”. Tức quá, tui mới thụi đại nó đó chứ bộ.
Nghe xong, tôi quay sang la
con Tuyến:
- Tuyến, đáng kiếp lắm! Sao
thách nó chi vậy?
Giọng tôi biểu lộ cả một sự
trách móc ghét giận, vì chính thật lòng tôi lúc ấy bỗng dưng tràn đầy bực tức.
Con bé đã bị anh đánh còn thêm chú Phương rầy nữa, uất ức khóc òa lên. Nhìn cái
miệng nhỏ mếu xệch, đôi mắt ướt nhòe của nó, lòng tôi dịu lại dần. Hơi hối hận,
tôi đưa tay vuốt tóc nó, nhưng chẳng nói chi. Đầu óc tôi mải để đâu đâu, những
chuyện xa xưa, những hồn ma cũ vụt hiện về trong tâm tưởng.
Tôi rầy con Tuyến không phải
vì bênh thằng Thắng. Lâu nay tôi vẫn cưng nó hơn thằng anh nghịch ngợm của nó
nhiều. Tôi gay gắt với nó, chỉ vì một nguyên nhân sâu xa đã ghi đậm vào hồn tôi
một ấn tượng không tốt, đối với bất cứ một lời thách thức nào, của ai. Tôi vừa
chợt nhớ đến Thảo, cô bạn gái nho nhỏ ngày thơ. Kỷ niệm ấu thời theo đó lại
đến, khuấy động hồn tôi bao nỗi xót xa buồn giận.
*
Hồi đó tôi đâu tám chín
tuổi, Thảo cũng xuýt xoát vậy. Nhà hai đứa ở gần, thường chơi đùa với nhau,
thân lắm. Tôi chỉ có mình Thảo là bạn lối xóm – mẹ tôi không muốn tôi giao
thiệp với tụi trẻ du côn quanh đấy – nên tôi dành trọn cảm tình cho Thảo. Tôi
mến Thảo nhiều vì ưa tánh nết dịu hiền, và cũng vì cảm thương cảnh sống đáng
buồn của bạn. Tuy còn bé tôi cũng nhận ra đời Thảo rất khổ, chịu lắm thiệt
thòi, bất công.
Nhà Thảo không nghèo kém gì.
Thảo có ba má đàng hoàng, và có cả em nữa. Sống trong một gia đình đầy đủ như
vậy đúng lý Thảo được sung sướng mới phải, nhưng mà ngược lại : Thằng Phúc, em
Thảo, được ba má tưng tiu nuông chiều bao nhiêu thì Thảo bị đối xử tệ bạc bấy
nhiêu. Ba Thảo hờ hững với Thảo như người dưng không bằng. Má Thảo thì hở một
chút là đánh đập, chửi bới Thảo, chẳng khác nào một bà mẹ ghẻ ác độc. Lâu lâu
tôi lại nghe Thảo bị đòn. Đứng bên nhà mình, tôi hồi hộp nghe rõ tiếng Thảo
khóc ré lên, xen lẫn tiếng dì Ba Cang, má Thảo, rít lên giận dữ. Thường là:
- Tại sao mầy bỏ đi chơi,
không đưa võng em?
- Đồ bò, để em té vậy hả?
- Tao mượn xách có thùng
nước mà cũng cằn nhằn cửi nhửi… Nầy, nầy… cho bỏ cái tật làm biếng…
Những lúc ấy tự nhiên tôi
cảm thấy ghét giận cái dì Ba đó quá. Tại sao dì nỡ tàn nhẫn với con thế? Mẹ tôi
không bao giờ đối xử với tôi như vậy. Những lần tôi phạm lỗi mẹ chỉ rầy rà
khuyên bảo thôi. Song như vậy mà tôi sợ, cố gắng không làm mẹ phiền lòng nữa.
Tôi nhớ, từ nhỏ tới lớn hình như tôi bị mẹ đánh đòn đâu có vài lần, và lần nặng
nhứt là lần tôi bắt chước tụi trẻ trong xóm dùng lời tục tằn với chị tôi. Mẹ
đánh chẳng nương tay, giận dữ bảo:
- Ở nhà nầy không có cái thứ
ăn nói như vậy, nghe không!
Bị nếm đòn phen ấy, tôi khó
quên được : Những lằn roi quất vào mình rát như xé thịt, đau điếng người đi.
Tôi bị có mấy roi mà “tởn tới già”. Còn Thảo bị đòn liền xì chịu sao nổi?
Mà thật ra theo tôi thấy,
Thảo có vô dụng lười biếng gì đâu? Hằng ngày Thảo phải giữ em, giúp đỡ lặt vặt
cho ba má, còn gì nữa? Đành rằng đôi khi Thảo cũng phạm lỗi lầm, nhưng con nít
làm sao tránh được điều đó.
Nhận thấy cảm tình của dì
Ba, dượng Ba đối với Thảo có cái gì lạt lẽo làm sao ấy, có bận tôi hỏi mẹ:
- Mẹ, sao ba con Thảo coi bộ
hổng thương nó, hổng để ý gì đến nó hết, còn má nó dữ với nó quá…
Mẹ gạt ngang:
- Thôi nè, con nít đừng tìm
hiểu chuyện người lớn làm chi.
Không bỏ được sự tò mò, một
hôm tôi hỏi ngay Thảo:
- Nè Thảo, phải dượng Ba, dì
ba là ba má mầy thiệt không, sao mà… kỳ vậy?
Chúng tôi vẫn quen xưng hô
mầy tao thế. Thảo có vẻ buồn, đáp:
- Ba tao thì tao hổng biết
có phải thiệt hôn, chứ má tao thì tao chắc thiệt. Tao có thấy hình chụp má tao
ẵm tao hồi nhỏ mà.
- À, hay ba má mầy là ba má
ghẻ đó? Tao nghe người ta nói ba má ghẻ ghê lắm, hổng có thương con.
- Tao cũng hổng hiểu… Mà ba
má ghẻ là ba má làm sao hả Phương?
- Ờ, là… thì… để bữa nào tao
hỏi mẹ tao coi.
Quả thật thuở đó tôi không
biết cha mẹ ruột, cha mẹ ghẻ là thế nào. Nhiều khi tôi có ý nghĩ buồn cười: Cha
mẹ ruột là cha mẹ có nhiều ruột, cha mẹ ghẻ là cha mẹ có lắm… ghẻ!
Bấy giờ tôi đã đi học. Phần
Thảo không nghe dì Ba nói chừng nào cho cắp sách đến trường. Thảo đi học ai coi
giữ thằng Phúc? Tôi nghĩ đó là một điều may mắn cho Thảo, và ước sao được vậy.
Ở nhà khỏe, đi học mệt nhiều : nào phải học bài, nào sợ thầy phạt, còn bị tụi
bạn ăn hiếp nữa. Nhưng Thảo thì xem ra thích đi học lắm. Tôi hay đọc những bài
ám đọc ở trường cho Thảo nghe để khoe tài. Thảo mê ghê, đòi tôi dạy lại, học
thuộc lòng thôi. Thảo ưa nhất là bài “Con Cò”. Ngồi không, hai đứa thường đọc
ăn rập với nhau:
“Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ
xuống ao.
Ông ơi ông vớt tôi nao!
Tôi có lòng nào ông hãy xáo
măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng
cò con.”
Thảo còn năn nỉ tôi dạy học
chữ nữa. Tôi cũng chẳng hẹp hòi gì mà từ chối. Vả lại, bỗng dưng được làm thầy
giáo, còn chi khoái bằng. Hai đứa dắt nhau đến chỗ vắng, tôi kẻ chữ xuống mặt
cát mà dạy Thảo đọc theo viết theo:
- i… đi học, u… đánh đu, ư…
cái lư, ơ… quả mơ…
Thỉnh thoảng Thảo đọc hay
viết sai, tôi bắt chước giọng ông thầy ở trong lớp, gắt:
- Chà, cái trò nầy dở quá,
xè tay ra phạt hai khẻ, hột vịt!
Bị đánh, Thảo không khóc, mà
lại cười vì thật ra tôi cũng không nỡ đánh mạnh. Hơn nữa phạt vạ trở nên vô ích
với Thảo. Dù tôi không đánh, Thảo cũng tự cố gắng sửa chữa điểm sai lại. Có lúc
tôi hỏi:
- Nè Thảo, mầy tính học chữ
để làm gì chớ?
Thảo đáp:
- Thì để đọc nhựt trình hay
học những bài ám đọc như mầy vậy. À, mấy bài mầy đọc, hay ghê nha!
Tôi nghĩ mà thầm phục sự
siêng năng của Thảo. Tôi, hằng ngày đến trường có thầy chỉ dẫn đàng hoàng, tối
về lại được mẹ kềm dạy thêm, nhưng tôi ngán chữ hơn ngán cơm nếp, đâu như Thảo
vậy.
Tuy phải giữ em, giúp việc
cho má, và gần như bị cấm đoán sự vui đùa, nhưng Thảo cũng cố tìm dịp gặp tôi
thường để cùng bày trò chơi. Ấy là những lúc tôi nghỉ học, ba má Thảo đi vắng,
hay thằng Phúc đã ngủ say. Tuy biết rủ Thảo đi chơi là hại Thảo – dì Ba bắt gặp
thì Thảo phải đòn về tội bỏ nhà, bỏ em – song với lứa tuổi con nít đó, chúng
tôi không thể dẹp bỏ sự chơi đùa đi được.
Thảo ưa chơi cất nhà chòi.
Cô ta đi kiếm cây làm sườn. Còn tôi lén đánh cắp mấy tấm lá chằm dựng sau hè
nhà mình đem lợp mái, vừng vách. Cái nhà làm xong, nhỏ như một cái hộp, chỉ vừa
đủ hai đứa chui vào ngồi. Với hình dáng méo mó lạ lùng của nó, không biết nên
gọi nó là cái nhà không, nhưng bấy giờ chúng tôi lại thấy đẹp, thích chí, mãn
nguyện trước công trình xây cất của hai đứa nhiều. Thỉnh thoảng tôi quên lửng
đang ngồi trong chòi vụt đứng dậy đi ra. Thế là, tôi đội luôn cả cái mái, cột
kèo bị nhổ gốc, ngã xiêu xó hết trọi. Thảo la chói lói. Hai đứa lại phải mất
công làm lại.
Có nhà rồi, Thảo đi nhặt lá
cây hái hoa “nấu đồ ăn” bán cho tôi. Tôi xin được của mẹ mấy cái chung nhỏ, một
lưỡi dao cùn cho Thảo làm vật dụng. Ở trong chòi sửa soạn “hàng quà” xong, Thảo
cất tiếng trong trẻo rao:
- Ai ăn chè bột khoai đường
cát hôn?...
Hoặc:
- Mại vô mại vô, bánh bò
nóng hổi vừa thổi vừa ăn đây!
Tôi đi ngang, dừng lại hỏi:
- Có ngon không mà rao om
sòm đó thiếm?
- À, ông Hai, ngon lắm chứ,
ông dùng thử thì biết.
Tôi ngồi xuống:
- Đâu múc cho tôi một tô coi
nào.
Chúng tôi sống rất thật với
cảnh mua bán giả đó. Tiếp lấy tô chè – toàn bằng hoa lá – Thảo trao, tôi vừa
giả bộ ăn, vừa cằn nhằn:
- Thiếm nầy, bán cái gì mà
mắc đắng!
- Chè ngon mà ông Hai. Lúc
nầy đường cát lại lên giá, tôi phải bán mắc một chút để kiếm lời chớ sao.
Nhiều khi đang giữa cuộc
chơi, bỗng nghe thằng Phúc khóc ré trong nhà, hay tiếng dì Ba réo gọi, Thảo
hoảng hốt vất cả chén bát, bỏ chạy đi. Còn một mình tôi ngồi ngơ ngác như
“ngỗng đực”.
Một hôm tôi bày thêm một trò
chơi mới. Học được cách xếp tàu ghe bằng giấy của mấy đứa bạn trong lớp, tôi về
xếp ngay hai chiếc ghe thiệt đẹp, có lợp mui, có vẽ con mắt đằng trước mũi. Tôi
gò gẫm viết lên hông từng chiếc những chữ to : “Của Phương”, “Của Thảo”. Đoạn
tôi đem chiếc “Của Thảo” tặng cho cô bạn. Thảo thích thú nhận lãnh, trầm trồ
khen ngợi hoài khiến tôi sướng phổng mũi. Thảo hỏi:
- Sao chiếc ghe cũng có con
mắt ha?
Tôi giải thích:
- Tao nghe mẹ tao nói thì
hồi xưa ở dưới sông có cá sấu cá mập nhiều lắm, người ta phải vẽ mắt cho ghe để
chúng tưởng con quái gì hổng dám lại gần… Mà có con mắt, chiếc ghe coi ngộ ghê
chứ hén?
Thảo gật gù:
- Ờ, ngộ thiệt!
Tôi rủ Thảo đem thả ghe
ngoài ao trước sân nhà tôi – Cái ao nhỏ ấy ngày nay đã cạn mất rồi – Tôi lấy xà
bông gắn sau lái ghe. Thả xuống nước, xà bông tan đẩy ghe chạy tới như có máy
vậy. Đứng ven bờ nhìn ghe chạy, chúng tôi vỗ tay reo hò như cổ võ. Chợt, Thảo
nói:
- Ghe “Của Phương” chạy chậm
hơn ghe “Của Thảo”, ê!...
Quả nhiên tôi cũng nhận thấy
điều đó và đang tức bực đây : Ghe mình cho người ta lại tốt hơn ghe của mình.
Đã vậy người ta còn ngạo mình nữa, ghét chưa! Tôi cãi:
- Ê, tại ghe “Của Phương”
chưa xả hết ga.
- Chứ không phải nó liệt
máy? Coi kìa, nó chạy rề rề như miếng giấy trôi!...
Tôi đổi giọng:
- Thôi, đừng có làm tàng
nghe mậy!
Thảo nguýt:
- Làm tàng cái gì? Có mầy
nói hổng lại rồi nổi cộc đó.
Tôi bốc giận, cung tay:
- Ừ, tao cộc rồi mầy làm gì
tao? Nói lớ quớ tao xô xuống mương bây giờ.
Thảo hất mặt, trề môi, xê
mình lại gần tôi:
- Giỏi xô đi, dám xô dữ à!
Đôi khi hai đứa gây lộn,
Thảo cũng ưa thách thức như thế, tôi chịu thua không làm gì. Nhưng hôm ấy, bỗng
dưng tôi nóng giận lạ, thấy vẻ mặt khinh khỉnh của Thảo đáng ghét vô cùng.
Thình lình, tôi đưa hai tay đẩy mạnh Thảo xuống ao. Chỉ nghe Thảo thét lên một
tiếng kinh hoàng. Tiếp đó, một tiếng “ùm”, nước văng tóe vào mặt tôi.
Cái ao không sâu lắm, nhưng
đủ làm chết hụt những đứa trẻ cỡ như tôi và Thảo. Tôi thấy Thảo chìm sâu dưới
mặt nước, rồi trồi lên, quạt tay chới với, cứ há miệng toan la, nước lại tràn
vào òng ọc. Bấy giờ tôi mới hoảng hốt, kêu to lên:
- Mẹ ơi, mẹ!
- Cái gì vậy?
- Con Thảo té mương!
Bước vội lại bờ ao, mẹ cúi
xuống vớ lấy tay Thảo kéo lên. Cô bé ướt loi ngoi, đứng run rẩy, mặt xanh chành
còn in rõ nét hãi hùng cùng tột. Sau khi hoàn hồn, Thảo vụt khóc òa, rồi bỏ
chạy về nhà mình luôn.
Mẹ tôi nhìn theo, hỏi:
- Sao nó lại té vậy Phương?
Tôi cúi đầu, ngập ngừng đáp:
- Dạ… tại… con xô nó!...
Mẹ trợn mắt:
- Mầy xô nó?,,, Chơi ác vậy
hả Phương?
Đoạn mẹ phát vào mông tôi,
lôi vào nhà:
- Tội nặng lắm! Tao phạt mầy
năm ngày không được đi chơi!
Tôi lặng thinh, lòng hối hận
hết sức. Giả thử mẹ phạt tôi mười ngày hay đánh tôi cả chục roi đi nữa, tôi
cũng chẳng than van. Tôi tự trách mình sao đang tâm hành động thế ấy. Đã rồi,
tôi lại giận Thảo : Một phần cũng tại nó. Bị mình dọa, sao nó không làm mặt
giận hờn, bỏ về nhà, “xả” mình ra, có phải mình sẽ xuống nước xin lỗi nó không?
Nó lại thách đố nầy nọ làm chi cho nên nỗi.
Tôi đang ngồi cú rũ trong
góc nhà để mặc ăn năn xấu hổ dày vò, bỗng nghe Thảo khóc thét lên, cùng tiếng
dì Ba mắng chửi vang rõ bên kia. Chắc rằng thấy Thảo chạy về với thân hình ướt
đẫm, dì Ba đã hạch hỏi và đánh mắng nó. Nghe tiếng khóc của Thảo tôi càng xốn
xang trong bụng. Chợt mẹ tôi từ dưới bếp bước lên, lại nắm tay tôi lôi đi:
- Theo tao, mau!
Tim tôi đập thình thịch,
chưa biết mẹ có ý gì thì người đã kéo tôi vào nhà Thảo. Dì Ba đang vũ động con
roi, dừng lại, nhìn mẹ tôi dò hỏi. Mẹ đẩy tôi về phía dì:
- Xin chị tha cho con Thảo,
chỉ thằng nầy mới đáng tội, làm ơn đánh nó giùm tôi!
Tôi run rẩy thụt lùi lại.
Sẵn ghét sợ dì Ba, tôi càng kinh hãi
hơn. Trời ơi, với bàn tay đó, con roi
mây đó mà quất vào mình một cái thì chết mất! Nhưng may thay, dì không làm theo
lời mẹ tôi, lại lộ vẻ ngạc nhiên, hỏi:
- Chị nói gì tôi không hiểu?
Sao chuyện con Thảo lại dính dáng đến thằng Phương nữa?
- Ủa, thế chị không biết à?
Thằng Phương đã xô con Thảo xuống mương…
- Vậy sao? Con Thảo nó nói
với tôi là đi trật chân té, chứ ai dè.
Tôi liếc nhìn Thảo đang đứng
nép trong cánh cửa khóc thút thít, lòng rạt rào cảm mến. Thảo đã không khai tội
tôi ra! Tại sao?
Mẹ tôi hỏi:
- Chị Ba, chị xử tội thằng
khốn nầy đi chứ!
Dì Ba khẽ cười:
- Ối, chị dắt cháu về đi.
Tôi đánh con Thảo thật ra chỉ vì tội nó bỏ nhà đi chơi không coi em đó. Cháu
Phương, từ nay đứng chơi dại vậy nữa, nghe.
Mẹ tôi nạt:
- Phương, còn đứng trơ đó à,
không lại xin lỗi, cám ơn dì Ba tha tội cho, còn chờ gì?
Tôi lật đật vâng theo, bước
lại gần dì khoanh tay, cúi đầu thật thấp nói lí nhí mấy lời cám ơn, xin lỗi.
Tôi thật không ngờ dì ác với Thảo mà rộng lượng với tôi thế.
Từ bữa đó tôi không được gặp
Thảo. Tôi bị mẹ phạt không được ra khỏi nhà. Còn Thảo cũng chẳng thấy đi đâu.
Không biết cô bạn nhỏ của tôi có giận tôi lắm không? Tôi mong có dịp xin lỗi
riêng Thảo mới yên lòng. Nghĩ cũng kỳ, tôi phạm lỗi mà Thảo bị đòn. Rồi đáng lẽ
phải xin lỗi Thảo, tôi lại bắt buộc xin lỗi dì Ba!
Ba ngày trôi qua, buồn ơi là
buồn! Đi học về, lại phải lấy sách ra học, đem cửu chương ra nhẩm, ở miết trong
nhà, tôi thấy bực bội khó chịu khác nào một con nai tơ bị buộc cẳng. Sân cỏ
trải rộng trước nhà, căn chòi còn đứng nép dưới gốc mận bên mấy bụi hoa kia,
thế giới diễm ảo của tôi và Thảo còn mở ra đó, nhưng hai đứa vì đâu ngày ngày
không còn dắt tay nhau bước vào nữa vậy? Tay
cầm quyển sách, miệng lẩm bẩm đọc, song tôi không ghi được chữ nào vô óc. Trước
kia tôi học rất chóng thuộc bài, học rút để đi chơi chứ. Nhưng mấy ngày nầy,
không hy vọng có chuyện đi chơi, tự nhiên tôi học tới đâu quên tới đó. Thật ra,
tôi có chăm chú vào bài vở đâu. Tôi mải nghĩ:
- Chà, mấy hôm trước, giờ
nầy mình với con Thảo đang ở ngoài chòi đây.
- Phải chi mình được dông ra
sân chạy nhảy một hồi cho đã thì khoái biết mấy!
Ngày phạt thứ tư, xế chiều,
thấy mẹ mắc bận dưới bếp, tôi vứt tập, chạy ra trước hàng ba ngồi ngó mông ra
lộ xem người đi cho đỡ buồn. Chợt nhìn sang nhà Thảo, tôi bắt gặp Thảo đang lui
cui nhổ cỏ trước sân. Ngập ngừng suy tính một lúc, tôi quyết định sang xin lỗi
bạn. Bước nhẹ đến bên Thảo, tôi gọi khẽ:
- Thảo!
Thảo liếc nhìn tôi rồi lại
cúi đầu, lặng thinh bứt cỏ. Tôi ngồi xuống một bên:
- Mầy còn giận tao lắm sao?
Tao biết lỗi của tao nặng lắm, nhưng mầy tha cho tao một lần đi nhen. Từ nay
tao không dữ với mầy nữa.
Thấy Thảo không lay chuyển,
tôi tiếp:
- Mầy bỏ giận, tao xếp cho
mầy hai ba chiếc ghe, hai ba chiếc tàu, xếp đầu lân nữa… Ngộ lắm Thảo ơi!
Bấy giờ Thảo mới vùng vằng
thốt:
- Thôi đi, mầy làm bộ cho
tao, rồi của tao tốt hơn mầy, mầy lại tức gây lộn, xô tao nữa, tao hổng thèm
đâu!
Thảo đã mở miệng, một điều
đáng mừng. Tôi nói:
- Không đâu, chuyến nầy nhứt
định tao hổng có xấu vậy. Nếu tao xấu mầy nghỉ chơi tao luôn.
- Thiệt hôn?
Câu hỏi gián tiếp chấp nhận.
Tôi vui mừng đáp:
- Thiệt mà!... À, hôm mầy bị
đòn có đau lắm không?
- Sao không?
- Tao xè tay nè, mầy đánh
lại tao trừ.
Thảo mỉm cười vỗ vào tay
tôi, bảo:
- Đó, cho chừa nghe! Thôi về
đi, để tao nhổ sạch mấy cọng cỏ nầy. Bằng không má tao ra thấy chưa xong lại bị
mắng.
- Ừ, tao cũng phải về ngay.
Mẹ tao phạt tao không được ra khỏi nhà. Tao đi như vầy bả thấy rầy chết.
Và rồi, tôi với Thảo lại
hòa, chơi như cũ. Tuổi nhỏ dễ giận, chóng quên là thế. Tình thân giữa hai đứa
còn có phần khắng khít hơn xưa, vì tôi đã cố chiều chuộng, nhường nhịn Thảo để
chuộc lại những lỗi lầm đã tạo.
Tôi những tưởng tình bạn của
hai đứa sẽ không bao giờ rời rã. Thằng Phương và nhỏ Thảo sẽ được ở gần nhau, vui
đùa có nhau mãi vậy. Nhưng, mấy ai đoán trước được sự đổi thay đột ngột ở đời.
Một hôm tôi vừa đi học về, mẹ tôi báo ngay cho tôi biết : cả gia đình Thảo vừa
dọn đi phương xa, nhà bán lại người khác. Nghe qua tôi bàng hoàng cả dạ. Bực
tức, giận dỗi, nuối tiếc xáo trộn, tôi như vừa đánh mất một cái gì quí báu.
Thôi hết, Thảo đã rời xa tôi mất hút đi rồi! Biết đến bao giờ hai đứa mới gặp
lại? Hình bóng cô bạn nho nhỏ đó từ đây tôi muốn tìm họa chăng chỉ lần trong ký
ức. Còn chi xót xa bằng, hai đứa chia tay xa nhau mãi mãi mà không một lời tiễn
biệt?
Suốt mấy hôm, tôi nhớ Thảo.
Thơ thẩn tìm đến những nơi hai đứa họp mặt thường ngày, tôi đứng lặng một mình,
nghe lòng trơ trọi, buồn chán làm sao! Hoa nở rộ bên rào kia, nhưng không có
Thảo cùng lo trang hoàng căn chòi thì hái để làm gì. Trong chòi, chén bát đồ
chơi còn ngổn ngang đó, mà bàn tay xinh xắn vén khéo của “cô hàng” đã biến mất
tận đâu? Ô, cảnh sao mà buồn vậy?
Từ đấy tôi không còn gặp
Thảo. Nhưng nếu chuyện chỉ có thế, chắc bé Tuyến không bị tôi rầy, tính thách
đố không đến nỗi bị tôi “lên án”. Đâu năm sáu năm sau, sự buồn thương luyến nhớ
của tôi đối với Thảo đã chìm dần vào quên lãng. Tôi quên phức Thảo, đến nỗi
muốn gợi lại hình ảnh của cô bạn thân nầy, cũng khó lòng hình dung được. Thời
gian thật tàn nhẫn, nó cứ chực xóa đi tất cả những gì mình đã ghi vào hồn trong
tuổi ấu thơ. Trừ cái kỷ niệm xô Thảo xuống ao, những chuyện khác liên quan giữa
tôi và Thảo, tôi chỉ nhớ mang máng, còn lãng quên không buồn ngẫm lại. Chính
lúc ấy thì tên của Thảo được nhắc đến, và đã gieo thêm cho tôi một sự đau lòng.
Một chiều, chợt có bạn thân
của mẹ tôi là cô Tư Liên ghé qua nhà. Trước kia cô cũng ở trong xóm, sau khi
buôn bán xa, bẵng đi một dạo, nay mới có dịp trở về đây ghé thăm mẹ tôi luôn
thể. Gặp tôi, cô vui vẻ hỏi:
- Thằng Phương đây hả? Cha,
mới ngày nào còn khóc lè nhè nhõng nhẽo mẹ, đòi khúc mía củ khoai om, mà nay
lớn đại. Mau thiệt há!
Rồi cô nói huyên thuyên,
chuyện xưa tiếp đến chuyện nay, đem ra kể cả dọc. Tính cô vẫn vậy, ăn nói hoạt
bát lắm, nên buôn bán dễ dàng cũng phải. Đang thuật chuyện đi đó đi đây bỗng cô
hỏi mẹ tôi một câu khiến tôi chú ý:
- Nầy, chị còn nhớ chị Ba
Cang hồi trước nhà ở kế đây không?
Dì Ba Cang, chính má Thảo!
Mẹ tôi nói:
- Nhớ chứ. Hiện giờ chỉ ở
đâu, làm nghề gì?
- Tôi gặp chỉ ở dưới Bình
Đại. Hai vợ chồng mở tiệm hàng xén, làm ăn coi bộ cũng khá.
- Mấy đứa con của chỉ chắc
cũng mạnh?
Mẹ tôi hỏi chính câu tôi
mong. Cô Tư đáp:
- Chị hỏi tôi mới nhớ. Hiện
chị ấy chỉ còn cậu con trai. Đứa con gái, con Thảo con Thiết gì đó, chết lâu
rồi…
- Thảo chết! Sao vậy?
Mẹ và tôi đồng kêu lên sửng
sốt. Cô Tư tiếp lời:
- Theo chị Ba Cang thuật lại
thì bữa nọ chị em nó dẫn nhau ra chơi ngoài cầu tàu. Rồi chẳng rõ cớ gì hai đứa
lại sinh cãi vã. Thằng em dọa xô con chị xuống sông, con chị thách lại, thế là
gây nên chuyện…
- Lúc con nhỏ té xuống sông
không ai thấy sao?
- Cũng theo lời chỉ thì lúc
ấy cầu vắng người. Hơn nữa phải chị có đi miệt Bình Đại hẳn biết, sông ở dưới
lúc nước ròng, nước chảy xiết, sóng nhiều, bờ sông lại cao lắm, té xuống quả
khó vớt.
Nghe xong tôi cúi đầu than
thầm : lại cũng thách thức! Câu chuyện gây gỗ về hai chiếc thuyền giấy ngày xưa
giữa tôi và Thảo vụt hiện đến với tôi. Sao nó trùng hợp với chuyện cô Tư Liên
vừa thuật thế? Nhưng, trong khi kết quả lời thách thức của Thảo trong vụ đó
chẳng có gì, thì kết quả lời thách thức sau nầy thật bi đát quá. Tôi không bao
giờ có thể ngờ được.
Thách thức! Than ôi, thách
thức! bắt đầu từ đó tôi căm thù những lời thách thức.
DẠ NHẤT PHƯƠNG
(Trích từ
tạp chí Tuổi Hoa số 48, ra ngày 1-7-1966)