Chương XI
ĐÊM MỒNG BỐN THÁNG CHÍN
Lúc đó đã mười một giờ đêm.
Thằng Phú vẫn say sưa ngủ
trong vựa rơm.
Trong khi đó, bên Mương lai
bản, con Liên và mẹ túc trực bên giường thằng Phan, theo dõi giấc ngủ của người
ốm.
Từ quán cà phê tại Na Mân đi
ra, gã đàn ông mặc măng tô da bước lên chiếc Mercédès, ngồi bên tài xế. Xe chạy
một quãng, gã ra lệnh cho dừng lại giữa rừng, mở cửa xe bước xuống, khẽ nói với
người lái xe:
- Cứ việc cho xe chạy thẳng
tới ngã tư sẽ thấy cánh rừng rậm về phía tay phải. Giấu kín xe vào đấy. Chừng
một tiếng đồng hồ nữa, trở lại đón tôi.
Chiếc xe sang trọng lao vút
đi. Bách, gã đàn ông mặc áo măng tô da đúng là Bách, rảo bước tiến thẳng tới
nhà Mã Thiên Bỉnh. Tới nơi, gã giơ tay gõ cửa dồn dập, miệng lẩm bẩm, môi nhếch
nụ cười nham hiểm:
- Mình đến bất ngờ thế này,
anh chàng Mã chắc phải ngạc nhiên lắm. À, hắn bật đèn rồi đây.
Có tới hai phút sau, cánh
cửa ra vào mới hé mở. Mã Thiên Bỉnh sửng sốt:
- Ủa, ông! Xin… xin… xin mời
vào! Ông… hẹn mồng năm mới tới mà.
Bỉnh cười xòa, vẻ thản
nhiên:
- Tôi lầm ngày… ông bạn tha
lỗi cho nhé.
Họ Mã đổ quạu, hầm hừ, nhìn
thẳng mặt tên trùm buôn lậu:
- Lầm ngày!... Tôi dư biết
mà! Ông đa nghi thì đúng hơn.
Tên Bách vẫn thản nhiên đến
lạnh lùng:
- Ông bạn còn lạ gì, trong
giới “áp phe” nhất là loại “áp phe” đặc biệt, thận trọng là một đức tính cần
thiết. Phải luôn luôn cảnh giác, đề phòng ngay cả cái bóng của chính mình. Đối
với ông bạn, tôi mới được biết người, biết mặt, còn lòng dạ thì… chưa.
- Lòng dạ tôi hả?... Đã nói
sao thì y như vậy!
- Vâng, tôi vẫn biết thế.
Nhưng dịch vụ này lớn lao quá. Bao nhiêu anh em trông vào đó. Lỡ “môi hở răng
lạnh”, bọn quan thuế nghe hơi đón gió được, thì… Tôi hẹn mồng 5 nhưng lại tới
ngày mồng 4. Thôi, ông bạn thông cảm, nghe.
Mã Thiên Bỉnh nhún vai, chép
miệng:
- Tôi đem con chó lên chứ?
- Vâng! Ông bạn cầm cái gì
trong tay đó?
- Cái rọ khóa mõm! Khi thả
sẽ lấy ra! Cẩn thận vẫn hơn chứ. Sơ ý một cái là mất tay, què chân như chơi.
Dứt lời, họ Mã thắp một cây
đèn cầy, rảo bước xuống hầm. Chưa đầy năm phút sau, gã đã quay lên, tay nắm
chắc vòng da đai cổ con A-Giát. Con chó to lớn, lực lưỡng đã bị khóa mõm.
Tên Bách móc túi lôi ra một
cái túi nhỏ bằng da cá sấu. Những viên đá quý va chạm vào nhau phát ra tiếng
lanh canh. Những hòn bảo ngọc trị giá tới gần hai trăm triệu bạc đựng trong cái
túi nhỏ xíu nằm gọn lỏn trong lòng bàn tay.
Trong khi họ Mã kềm giữ con chó,
tên Bách cột thật chắc cái túi da vào cổ dề. Con A-Giát gầm gừ dữ dội trong
cuống họng nhưng không thể làm gì được vì vướng cái rọ mõm. Gã gian phi liếc
nhìn đồng hồ tay: Nửa đêm đúng. Y cất tiếng hỏi:
- Ông Mã, chừng bao lâu nó
vượt khỏi biên giới?
- Chậm lắm là bốn mươi phút.
Đói khát điên dại lên thế này rồi kia mà. Thả ra nghe, ông!
- Mười phút nữa!
Mười phút trôi qua, Mã Thiên
Bỉnh nắm vòng da đai cổ con chó. Con A-Giát lồng lộn muốn rời bỏ nơi chốn này
sớm phút nào hay phút ấy và biết rằng sắp được thả, nó kéo sểnh họ Mã ra tận
cửa. Họ Mã cởi nhanh chiếc rọ mõm, vừa kịp né khỏi một cái đớp của con chó suýt
trúng cổ tay.
Nhẩy vọt hai cái liền,
A-Giát băng qua mặt lộ, phóng mình vào bóng đêm. Bị tù hãm hai ngày, hai đêm
liền trong cái hầm hôi hám, giờ đây nó mới được hít thở không khí tự do.
Khu vực này nằm về phía đông
bắc Gò Quao, có đường đi Phà Liêm, A-Giát mới đi qua có một lần, hai ngày trước
đây, do tên Gà Cồ lôi sềnh sệch bằng dây thòng lọng luồn qua cái ống tre dài
gần một thước.
Chạy ra khỏi nhà Mã Thiên
Bỉnh chừng một trăm thước, A-Giát dừng chân trở lui ít bước, rồi lại quay đầu
lên đường.
Thính giác, khứu giác tinh
tế chẳng giúp được, con chó chỉ còn do bản năng tự động thúc đẩy chầm chậm bước
đi, mò mẫm, mũi rà rà mặt đất, cố tìm chút ít dấu vết nào đó còn vương vất lại.
Vượt một bãi ruộng cày, mô
đất lởm chởm, nó len lỏi đi vào một cánh đồng cỏ cao rậm rạp. A-Giát băng qua
một thửa ruộng đầy gốc rạ, lội bì bõm trong nước. Chốc chốc đạp phải đất sét
trơn, nó trượt chân té sóng soài nhưng lại nhổm dậy ngay, băng mình tiếp tục
cuộc hành trình trong đêm tối.
Đất mềm thụt chân, bùn ngập
đến nửa ống cẳng, bãi cỏ đầy nước, gốc rạ đứng chọc muốn thủng da bàn chân, bụi
gai rừng cào da xé thịt. Bất chấp! Con chó vẫn lao mình chạy như bay.
Đây rồi, bãi đất trống… và
bên kia là cánh rừng quen thuộc. A-Giát ngẩng đầu hít hơi đón gió. Linh tính
của nó bén nhậy thật. Con chó có cảm giác là sắp tới quãng đường quen thuộc.
Nó lao mình như một mũi tên
bật khỏi dây cung, vun vút xuống một cái đồi mọc đầy sim dại. Trong lòng như có
lửa đốt, A-Giát leo phăng phăng trái đồi kế tiếp, đầy những cây trà mới đốn,
cành đâm tua tủa nhọn hoắt như những mũi chông. Đường lớn đường nhỏ không khiến
được nó mảy may chú ý. A-Giát, không khác một con thú rừng bị toán thợ săn, chó
săn rượt đuổi, băng rừng phóng chạy, bất chấp gai góc châm chích, móc toạc cả
vành tai. Những vết thương “gãi ngứa” ấy lại càng khiến nó như lửa cháy bị đổ
thêm dầu.
Đây rồi, con đường đi Phà
Liêm…
Con chó tinh khôn đã tìm về
đúng khu vực cánh rừng giang sơn thân yêu của nó.
Tim đập như muốn vỡ tan lồng
ngực, A-Giát gom hết sức còn lại chạy nốt đoạn đường chót.
Sức mạnh chất chứa, dồn ép
trong hai ngày hai đêm bị giam cầm tới mức chỉ còn chút xíu khiến nó hóa điên
dại, A-Giát đem ra sử dụng hết. Giòng máu man dã luân lưu trong huyết quản bừng
sôi, đã khiến con chó nổi cơn hung hãn, giống hệt tổ tiên lang sói.
May mắn sao, đêm đó không
một người nào, không một con vật nào vô phúc lảng vảng chạm trán với nó trên
bước đường “mã hồi”.
Con đường A-Giát đã đi hằng
trăm lần, từ Phà Liêm băng qua Gò Quao, lau sậy um tùm, đến cái cầu hai cây gỗ,
rồi rừng Đen và tới… tới căn nhà tại thôn Phượng Mô.
Phút chốc, con chó đã vượt
qua quả đồi lớn trên Gò Quao, đến con đường chia hai: một về Phượng Mô, một về
Mương lai bản.
A-Giát dừng chân đứng sững.
Hai người bạn. Hai mái nhà.
Về đâu?... Và đã từ đâu đến? Mọi lần, mỗi khi tới đây, bao giờ A-Giát cũng nhìn
lại về hướng nó đã khởi hành trước khi phóng một mạch tới nơi nó định đến. Con
chó ngó về hướng Phượng Mô trước khi qua Mương lai bản, và ngược lại, trông về
Mương lai bản trước khi trở lại Phượng Mô.
Giờ đây, nó không ở nhà
Phan, cũng chẳng từ nhà thằng Phú tới, mà lại thoát ra từ cái hầm hôi hám ẩm
thấp tại nhà tên Mã Thiên Bỉnh. Và nơi cổ toòng teng một cái túi nhỏ, không
phải thằng Phú, cũng chẳng do tay thằng Phan đeo vào cho nó một cách thật âu
yếm dịu dàng.
Thằng Phú đã dạy nó cách
“thân xẻ làm đôi”, một nửa cho Phượng Mô, một nửa cho Mương lai bản.
Hai người bạn! Hai mái nhà!
Sau một phút ngập ngừng do
dự, A-Giát quay nhằm hướng Mương Lai trực chỉ. Từ chỗ nó đứng, một đường về
Phượng Mô, một về Mương lai bản. Đường về Mương lai bản gần hơn. A-Giát chọn
con đường này chắc cũng vì lý do ấy.
Qua khe cửa sổ, phòng thằng
Phan vẫn còn ánh sáng le lói chiếu hắt ra.
A-Giát trèo ba bậc thang gỗ
lên hàng ba. Nó nghiêng vai khẽ đẩy cánh cửa ra vào, rú rít khe khẽ trong cuống
họng, rồi đưa chân gãi sồn sột vào cánh gỗ.
Lúc đó, thằng Phan vẫn chưa
ngủ. Con Liên và mẹ đỡ nó ngồi dậy, cho dựa lưng vào mấy cái gối bông để tránh
cơn ho có thể khiến nó nghẹt thở.
Liên đỡ anh:
- Uống muỗng thuốc ngọt này
đi, anh Phan!
Thằng Phan nói như rên:
- Thôi, sợ thuốc quá! Con mệt
quá mẹ ơi! Liên ơi! Mệt lắm! Ủa, Phú về rồi hả?
- Ừ, mai anh ấy lại qua mà.
- Thế còn A-Giát? A-Giát
đâu? Tại sao Phú không để A-Giát ở lại bên này với anh hả Liên? Liên vừa mới
nói mai Phú lại sang đây hả? Mai chủ nhật à?... Đâu phải!... Không phải chủ
nhật thì Phú phải lên tỉnh đi học rồi. Tại sao Liên lại nói với anh là…
Ý nghĩ trong đầu óc thằng
Phan hỗn loạn hết. Con Liên ghé sát tai anh:
- Anh Phú vẫn được nghỉ hè
mà. Đừng nói nữa mệt, anh Phan! Mồ hôi ra ướt đầm đây này. Nói nhiều lại lên
cơn sốt bây giờ.
- Không, không! Không sốt
nữa đâu! Không sốt!
Thằng Phan nói nhiều, lại
sắp sửa nổi cơn ho. Nó cố nén hơi thở. Đột nhiên, nó ngồi thẳng người, ánh mắt
long lanh, giọng nói run rẩy:
- Có nghe tiếng gì không, hả
Liên?
Con em gái lắng tai. Gió lay
mấy tàu lá chuối ngoài vườn kêu sột soạt. Thằng Phan vẫn lẩm bẩm như người ngủ
mơ:
- Hình như con A-Giát! Ờ, ờ,
đúng A-Giát đó. Nó vào rừng sục sạo tìm anh không thấy, bây giờ mới quay về
đấy.
Bất thình lình, Phan lạc
giọng gọi thất thanh:
- A-Giát!
Bên ngoài cánh cửa đóng kín,
một tiếng “ấu” vui mừng khẽ vang lên.
Thằng Phan cuống quít:
- Đúng con A-Giát rồi. Đúng
rồi! Ra mở cửa cho nó đi, Liên!
Liên chạy như bay ra cửa.
- Từ từ chứ nào, A-Giát!
Con chó lao như mũi tên bắn
tới tận giường thằng Phan. Thằng nhỏ dang hai tay. A-Giát chồm lên dựa vào
thành giường, hai chân trước để hẳn lên tấm mền len, đặt đầu vào giữa hai cánh
tay ấm áp của thằng Phan, đôi mắt lim dim, cực kỳ sung sướng. Thằng nhỏ ốm đau
hôn hít mãi cái mõm con chó.
Đã từ hai ngày, hai đêm nay,
không một miếng gì trong bao tử, vậy mà con vật tinh khôn vẫn quên được cái đói
khủng khiếp khi nghe tiếng người bạn thân yêu cất lên dịu dàng êm ái hơn cả một
cái vuốt ve.
Đôi mắt nó ngó thằng Phan
chăm chú. Tia nhìn trừng trừng đặc biệt của những con vật chỉ có miệng ăn,
không có miệng nói và vẫn đau khổ vì cái khuyết điểm trời sanh ấy.
Không còn gì cảm động cho
bằng, hình ảnh những lời van nài khẩn thiết, nhưng hoàn toàn câm nín hiển hiện
nới ánh mắt một con chó, trong một lúc nào đó, tưởng chừng như nó muốn nói:
- “Hóa phép cho tôi biết nói
đi!”
Tội nghiệp! Con chó khôn nào
cũng thế. Chúng cứ tưởng rằng chủ của chúng là tất cả, đủ quyền lực làm được
tất cả, kể cả việc ban phép lành khiến chúng có thể cất tiếng nói được như
người.
Riêng A-Giát, có hai chủ. Nó
chịu tuân lời người này cũng như ngoan ngoãn nghe lệnh người kia. Hiếm thấy một
con chó nào lại thuần thục đến mức ấy. Tại đây, Mương lai bản, chủ nó là thằng
Phan. Ở bên Phượng Mô, là thằng Phú.
Đây và đó, hai người bạn chí
thân thay phiên nhau sai khiến nó: “Lại đây! A-Giát!” hoặc “Đi đi! A-Giát”. Đối
với chủ nào, nó cũng răm rắp tuân lời.
- Đã muốn về rồi hả, A-Giát?
Thằng Phan dịu dàng cất
tiếng hỏi khi thấy con chó chợt quay đầu ngó đăm đăm cánh cửa còn khép hờ. Đúng
lúc đó, con Liên trông thấy cái túi da cá sấu đeo toòng teng nơi cổ dề A-Giát.
Theo thường lệ, khi thằng
Phú gởi một món đồ gì, hoặc một lá thư chẳng hạn, bao giờ nó cũng “thắng yên
cương”, nai nịt đàng hoàng cho con chó. Tại sao bữa nay lại chỉ có cái túi da
cá sấu nhỏ xíu cột vào vòng đai cổ mà thôi? Và nhất là vì lẽ gì thằng Phú lại
sai con chó đi liên lạc vào lúc đêm khuya tăm tối? Từ trước đến nay chưa có lần
như thế bao giờ.
Ngạc nhiên đến tột độ, con
Liên đưa hai tay run rẩy cởi sợi dây dù, mở nắp túi da, đổ dốc tất cả những gì
ở bên trong lên giường thằng Phan và nó rú lên:
- Trời đất!
Trên chiếc mền len màu nâu
nhạt, tung tóe hàng mấy chục viên bảo thạch: hồng ngọc, bích ngọc và… kim
cương. Cả một đám như sao sa tỏa hào quang lấp lánh, vàng, đỏ, xanh biếc có,
xanh dương cũng không thiếu.
Thằng Phan chói mắt, bàng
hoàng, không dám cả đưa tay ra mó vào đám sỏi quý rải rác trước mắt nó nữa.
Những hạt sỏi quý, chiếu
sáng ngời, đúng là mớ sao được gieo rắc dưới bước chân đi của vị thần rừng trên
Gò Quao. Vị thần nhân từ bác ái đã chữa khỏi mắt cho A-Giát để rồi đêm nay lại
chọn đúng nó, sai khiến nó đem đến cho thằng Phan những vì sao vô cùng quý giá.
Năm chục vì sao trong đêm
giông bão, món quà tuyệt hảo của vị thần Gò Quao vẫn ngoan ngoãn nằm trên
giường thằng Phan, chiếu ánh sáng ngời.
Trong khi đó, con A-Giát gục
đầu trên chiếc soong lớn đựng cơm trộn với khoai tây hầm thịt bò, món “súp” nấu
lấy nước cho thằng Phan uống, sốc lấy sốc để. Chốc chốc nó lại đưa mắt liếc
nhanh tấm da cáo, cái “giường” êm ấm một chút nữa đây nó sẽ soải mình thoải mái
ngủ một giấc “trả thù” cho chuyến vượt biên gian khổ để sáng mai về Phượng Mô
với thằng Phú.
Con Liên mê mải ngắm những
viên hồng ngọc, bích ngọc, kim cương. Nó dùng mắt chia mớ bảo thạch thành hai
phần đều nhau. Và nó mỉm cười khi nghĩ đến thằng Phú cứ hay nói đùa với anh nó
câu:
“A-Giát thân xẻ làm đôi
Nửa Mương lai bản, nửa hồi Phượng Mô”.
Cũng trong khi đó, bên
Phượng Mô, thằng Phú vẫn ngủ say sưa trong vựa rơm…
… Trên con đường đất pha cát
vàng sẫm, hai bên lề mọc toàn giống cỏ tóc tiên, lá dài như lá lan, mềm mại,
mầu xanh thẫm, điểm những bông hoa năm cánh đỏ tươi, thằng Phú đi thơ thẩn,
miệng khẽ cất tiếng gọi buồn rầu: A-Giát! A-Giát!
- A-Giát!
Tiếng thằng Phan văng vẳng
đâu đây khiến nó quay đầu đưa mắt nhìn ngơ ngác. Thì kìa! A-Giát bằng xương
bằng thịt, mõm cắn một con gà rừng thật bự đang phi nước đại phóng tới. Dì Mai
đoán điềm giải mộng thường vẫn nói với cháu: “ Chó tha mồi là điềm tốt lành
lắm!” Tốt lành hay không tốt lành, chưa biết. Chỉ biết rằng khi thấy bóng con
chó tinh khôn yêu quý, thằng Phú đã hét lên:
- A-Giát!
Và nó mở choàng mắt… thức
tỉnh. Thì ra chỉ là một giấc mơ. Nhưng kể từ lúc đó, bao nhiêu lo lắng băn
khoăn trong lòng nó về con A-Giát đều bay biến hết. Thằng Phú mỉm cười trong
đêm tối, mơ màng nghĩ tới ngày mai… tại Mương lai bản.
Cũng trong khi đó, một bóng
người đàn ông lùn thấp, mập mạp, tướng đi hùng hổ như dáng đi của loài gấu, lầm
lũi bước trên con đường dẫn lên Gia Viễn. Trong tay, gã giữ khư khư một gói gì
dài dài bao ngoài bằng miếng vải tuồn. Vừa đi, gã vừa lầu bầu nguyền rủa xen
lẫn tiếng nghiến răng kèn kẹt, y hệt một võ sĩ lúc ở trên đài, để dốc toàn lực
tấn công địch thủ nhưng lại chỉ đấm trúng toàn không khí.
Gã đàn ông lùn thấp ấy là Gà
Cồ, và gói đồ dài dài bao vải tuồn trong tay gã là khẩu súng hai nòng không có
dịp sử dụng tới, đã được tháo rời thành hai mảnh.
Saigon, 05-09-1974
Viết theo “La Nuit des contrebandiers”.
Của RENÉ GUILLOT
NAM QUÂN