V
Rời khỏi nhà Mộ Dung, Thư Trúc và Diễm Minh đi dọc theo đường Đồng Khánh về nhà. Trời nắng gắt gay làm cả hai đổ mồ hôi nhễ nhại, nhưng họ vẫn không đi nhanh hơn, cơ hồ sợ con đường rút ngắn.
Ngày
mai Diễm Minh đi Hồng Kông, lần chia tay này không biết đến bao giờ mới
gặp lại. Lúc nãy vừa ở nhà Mộ Dung ăn bữa tiệc tiễn biệt Diễm Minh, Mộ
Dung khóc rưng rức. Tuy không chơi thân với Diễm Minh, Trúc cũng cảm
thấy buồn vô hạn. Nhìn Mộ Dung giọt vắn giọt dài, Trúc có cảm tưởng
chuyến ra đi của Diễm Minh có giá trị trọng đại như những người đi làm
lịch sử. Cũng có tiệc tiễn biệt, cũng có những giọt nước mắt luyến tiếc
của bạn bè. Trúc ước ao nàng cũng sẽ có cơ hội đi xa một chuyến, chẳng
để làm gì, chỉ để chuốc những giọt nước mắt chân thành của bạn bè mà tự
lấy làm vinh hạnh. Nhưng rồi Trúc thở
dài, giả sử sau này có cơ hội đi xa, liệu Trúc có
thể rời bỏ cha nàng để ra đi hay không ? Hoặc giả rất nhiều năm sau,
nàng có thể dứt áo ra đi một cách không ràng buộc, liệu bạn bè có còn đủ
những đa sầu đa cảm để tiễn nàng bằng nước mắt như đã tiễn Diễm Minh
hay không ?
Dù
sao thời gian là một cái gì rất vô thường, nó có thể làm cho tình cảm
con người đậm đà, cùng một lúc cũng có thể làm cho nhạt nhòa đi, hay khô
khan cằn cỗi đến không còn có thể gọi là tình cảm nữa.
- Thư Trúc dự định thế nào trong tương lai nhỉ ?
- Tương lai ?
Trúc
cảm thấy bàng hoàng. Tại sao lâu nay Trúc chưa từng nghĩ đến hai tiếng
ấy nhỉ ? Cũng bởi thế, Trúc không biết nói thế nào để trả lời Diễm Minh.
- Sao thế ? Thư Trúc !
- À… á. Tôi không biết !
- Không biết cái gì ?
- Ơ hay, Diễm Minh vừa hỏi tôi về tương lai đấy thôi !
Cả hai im lặng băng qua ngã tư đường.
-
Tôi cảm thấy Thư Trúc thật đặc biệt. Trong một nhóm bạn bè theo đạo
Phật, hình như chỉ có Thư Trúc là không có ý kiến gì về Đức Chúa Trời.
Ngừng một lát, Diễm Minh tiếp :
- Không, có thể là Trúc có rất nhiều ý kiến, nhưng vì Trúc thường im lặng nên tôi không hiểu được đấy thôi.
Thư
Trúc cảm thấy buồn cười, nhưng nhìn Diễm Minh thấy có nét gì uy nghiêm
trên khuôn mặt bầu bĩnh, giông giống khuôn mặt những con búp bê Đại Hàn
của Diễm Minh, Trúc nghiêm ngay nét mặt lại nói :
- Tôi có thể đưa ra ý kiến gì bây giờ ? Tôi không hiểu mảy may nào về Đức Chúa Trời, hay Thiên Chúa giáo cả !
- Nhưng Trúc theo đạo Phật !
- Không hẳn theo đạo Phật là phải có ý kiến về…
-
Xin lỗi Trúc, tôi không có ý ấy. Tôi muốn nói, phần đông, những người
theo đạo Phật thường có ý kiến về Thiên Chúa giáo, và khi tôi muốn tìm
hiểu về Phật thì họ trả lời rất mơ hồ, tôi không hiểu chi cả. Trúc có
thể…
- Tôi cũng không hiểu chi cả !
-
Thật là lạ lùng ! Đáng lẽ ra, là một tín đồ Phật giáo, Trúc phải chịu
khó tìm hiểu và học hỏi về giáo lý của tôn giáo mà mình tín ngưỡng mới
đúng.
-
Diễm Minh nói rất đúng. Tuy nhiên, Phật giáo chỉ là tín ngưỡng truyền
thống của gia đình tôi, không ai bắt buộc tôi học hỏi về giáo lý nên tôi
chẳng hiểu chi cả.
- Nhưng tự Trúc có bổn phận tìm hiểu.
- Tại sao lại là bổn phận nhỉ ? Tôi không là tu sĩ, vả lại tôn giáo không có quyền bắt buộc tín đồ điều ấy.
- Có chứ, nếu không, ta lấy tư cách gì để làm một tín đồ ?
- Thế… à ! Có lẽ tôi không phải là một tín đồ Phật giáo, nhưng cũng không thể là kẻ ngoại đạo. Thế thì… tôi là gì nhỉ ?
Diễm
Minh cười, Trúc cũng cười. Lúc đầu chỉ là những cái cười mỉm, rồi cười
thành tiếng, rốt cuộc cả hai cùng cười sặc sụa. Diễm Minh nói :
- Lạ nhỉ ?
Trúc nói :
- Thật là buồn cười !
- Trúc đã nghĩ ra mình là gì chưa ?
- Đã, tôi là tôi !
- Dĩ nhiên, ngoài phạm vi tôn giáo, tôi cũng là tôi, ngược lại, tôi là một tín đồ Thiên Chúa giáo.
- Nếu thế, trong phạm vi tôn giáo, tôi không là gì cả ?
Trúc dừng lại. Quả thật, “không là gì cả” mới là câu duy nhất để nói với Diễm Minh, vì đó là sự thật. Trúc chợt nói :
- Đúng rồi ! Không là gì cả !
Diễm Minh cười lắc đầu :
- Tôi vẫn không hiểu. Mà thôi, ta không nói về tôn giáo nữa. Trở lại vấn đề cũ, Trúc có dự tính gì cho tương lai không ?
- Tôi chưa hề nghĩ đến những gì sẽ làm trong tương lai. Nhưng xin Diễm Minh nói một cách cụ thể hơn.
-
Chẳng hạn, học hết chương trình trung học, Trúc định thôi học để đi làm
hay tiếp tục học. Nếu tiếp tục học, sẽ chọn môn nào, bằng ngược lại, sẽ
chọn chức nghiệp gì ?
-
Câu trả lời của tôi có lẽ sẽ làm cho Diễm Minh thất vọng, vì tôi chưa
có dự tính nào cả. Giá dụ, tôi đặt trong đầu một kế hoạch thập toàn thập
mỹ, nhưng đến thời kỳ phải thực hành kế hoạch ấy, bỗng nhiên vì hoàn
cảnh hay nguyên do nào khác, bắt buộc phải bỏ dở kế hoạch cũ để chuyển
sang một mục tiêu khác thì Diễm Minh nghĩ sao ?
Diễm Minh trầm mặc giây lát :
-
Tôi còn định hỏi Thư Trúc, có ý định xuất ngoại không, nhưng theo quan
niệm vừa rồi của Trúc, tôi biết là tôi sẽ không được một câu trả lời
thỏa đáng nào. Tuy nhiên, tôi cảm thấy chúng ta rất trùng hợp với nhau ở
một tiêu điểm nào đó, dù quan niệm của chúng ta hoàn toàn tương phản.
Dừng lại một lát, diễm Minh nói :
- Tôi mến Thư Trúc lắm.
- Tôi cũng rất mến Diễm Minh.
- Đây là lần đầu tiên, tôi chuyện trò thật cởi mở với một người không đồng tôn giáo và là sơ giao.
- Nếu Diễm Minh tin ở lời nói của tôi, đây là lần đầu tiên tôi nói chuyện thật nhiều, và thật… trôi chảy.
Diễm Minh bật cười thành tiếng :
- Thư Trúc, cậu đùa với tôi đấy à ?
- Tôi nói thật, cậu không tin ?
- Tin chứ sao lại không ? Thư Trúc này !
- Hửm ?
- Cậu có thích trao đổi thư tín với tôi không ?
- Dĩ nhiên là có.
-
Tôi sang đến bên ấy xong sẽ viết thư ngay cho Mộ Dung và cậu, cậu chịu
khó tìm hiểu về tôn giáo của mình và viết thư kể cho tôi biết, nhé !
- Vâng, nhưng tại sao cậu quan tâm đến Phật giáo thế ?
- Phải nói rằng tôi quan tâm đến cậu, Mộ Dung và các bạn bè đạo Phật khác mới đúng.
- Xin cám ơn Diễm Minh.
- Cậu lại khách sáo. Sắp đến nhà tôi rồi, mình chia tay nhé ! Cậu ở lại chờ thư tôi.
- Diễm Minh !
- Chi, Thư Trúc ?
- Tôi mời cậu đến nhà tôi dùng cơm tối. Tôi muốn một mình tôi mời cậu bữa tiễn biệt tối nay, được chứ ?
- Thôi, không dám phiền cậu. Mình hiểu nhau là được rồi. Tôi đi nhé, bái bai !
- Diễm Minh ! Tôi chờ cậu đến 7 giờ tối. Nếu cậu bận không đến được thì thôi, nhé !
- Vâng, tôi sẽ cố gắng đến. Cám ơn Trúc nhé !
Nhìn
theo bóng Diễm Minh khuất dần sau một khúc quanh, Trúc lấy khăn tay lau
mồ hôi ở trán và ở cổ. Nàng cảm thấy cổ họng khô khát, có lẽ tại phơi
nắng và nói nhiều.
- Cô Trúc !
Một
giọng nói phái nam đầm ấm vang lên bên tai Trúc. Tiếng gọi nghe thật
quen, Trúc không dám tin tưởng là tiếng gọi quen thuộc ấy phát xuất từ
con người đã làm tâm trí nàng bận rộn từ bấy những nay. Nhưng cuối cùng
sự thật vẫn là sự thật, thính giác của Trúc có mơ hồ đến thế nào đi nữa
thì thị giác của nàng vẫn còn đủ khả năng chứng thực sự hiện diện của
Bình. Trong lúc Trúc còn đang ngơ ngẩn trước sự thể quá ư đột ngột, thì
Bình lên tiếng lần thứ hai :
- Cô Trúc đi đâu thế ?
- Dạ, thưa… tôi từ nhà cô Mộ Dung về…
Trúc
định hỏi “ông Bình đi đâu đấy”, nhưng nàng biết là Bình đang trên đường
đi đến nhà nàng để học, vì hôm nay là chiều thứ bảy. Mặc dù hỏi như thế
chỉ là một phép lịch sự, Trúc vẫn cảm thấy không được thành thật nên
nàng im lặng. Hình như Bình đoán được tâm ý của Trúc nên tự giải thích :
-
… Tôi định ghé hiệu sách Tản Đà để tìm một vài loại sách rồi đến đằng
giáo sư, nhưng hiệu sách chưa mở cửa. Cô có biết mấy giờ họ mở cửa không
?
- Dạ, khoảng 3 giờ thưa ông.
Bình xem đồng hồ tay nói :
- Thế thì trễ mất giờ học, thôi để khi khác vậy ! Cô về bây giờ chứ ?
Bình
nói xong không đợi Trúc trả lời đã bước chân đi. Lúc nãy Trúc định bụng
là sẽ đi mua thêm một ít thức ăn về làm cơm thết diễm Minh, nhưng thái
độ của Bình trông chừng anh quả quyết là Trúc đang trên đường về nhà.
Nếu nàng nhất định từ chối cùng đi về với Bình, Trúc e Bình sẽ hiểu lầm
là nàng khinh thị anh thì khốn. Nếu là trước kia, có lẽ Trúc để mặc cho
Bình hiểu lầm. Bây giờ thì khác, biết đâu Bình sẽ chẳng vì hiểu lầm mà
cho rằng sở dĩ Trúc tránh đi cùng với Bình là vì đã từng trông thấy anh
lái xe lam. Như thế chẳng hóa ra Trúc là một con người có tư tưởng hạ
cấp ? Nghĩ thế nên Trúc không ngần
ngại rảo bước đi theo Bình.
Buổi
trưa trên con đường Tản Đà thật vắng lặng. Khoảng từ đường Đồng Khánh
đến đường Nguyễn Trãi râm mát bởi những tàn me già khổng lồ đang rắc nhẹ
những lá vàng xuống mặt đường nhựa thoai thoải dốc. Rất tiếc là khúc
đường nên thơ quá ngắn. Trúc dừng chân trong khoảnh khắc ở khúc quanh
sang đường Nguyễn Trãi, con đường chật hẹp khan hiếm bóng mát. Nếu đi
xuống một tí nữa, hai bên đường chẳng còn một bóng cây. Hàng phố, cửa
hiệu san sát, ồn ào đến bực dọc.
Trúc lấy khăn tay che đầu để đỡ phải chóa mắt vì ánh nắng. Đến ngã tư, Bình ra hiệu cho Trúc qua đường và nói :
- Ta đi sang đường Hồng Bàng cho đỡ nắng.
Trúc
lặng lẽ đi theo sau Bình. Nàng có cảm tưởng Bình cũng vừa nghĩ đến điểm
đáng ghét của đường Nguyễn Trãi như nàng nên mới đề nghị như thế. Thế
nhưng Trúc chẳng hiểu ý nghĩ trên đến với nàng từ lúc nào ? Có lẽ mới
đây thôi, vì trước kia, Trúc đi thì đi, chớ chưa bao giờ có một ý thức
gì về những con đường.
Đang
đi trên đường Phù Đổng Thiên Vương, chợt có một đôi nam nữ đèo nhau
trên chiếc xe Honda chạy vụt qua, suýt đụng phải Bình, vì anh đi phía
sát lề đường. Gã con trai có dáng công tử bột đã không dừng xe xin lỗi
còn nói với lại :
- Rán để dành tiền mua xe rồi hãy đi với bồ, chú em ạ !
Gã nói bằng tiếng Quảng Đông, Bình không biết nên hỏi :
- Anh ta vừa nói gì thế hả cô ?
- Tôi không nghe rõ, thưa ông.
Trúc
nói dối một cách thật phớt tỉnh. Nàng có đủ sự bình thản để nói dối mà
không tự thẹn trong trường hợp vừa rồi. Lẽ thứ nhất, Trúc sợ nói trắng
ra sẽ chạm đến tự ái của Bình. Thứ đến, Trúc tự thấy nàng có bổn phận
che đậy sự thiếu hàm dưỡng của gã con trai nọ trước mặt Bình. Dù sao, gã
và nàng cùng nói một ngôn ngữ, cùng ở trong tình trạng chen chân khách
trú trên quốc thổ của Bình. Bình mỉm cười nói :
- Chắc họ phàn nàn tôi không biết luật đi đường đấy !
Trúc mỉm cười, nàng nói mà không nhìn thẳng Bình :
- Theo tôi, ông Bình mới là người có quyền phàn nàn họ.
- Tại sao thế hở cô ?
Bình vừa hỏi, vừa nhìn Trúc với dáng điệu thích thú về một đề tài thú vị.
- Vì họ không nhường người đi bộ.
Nói
xong, Trúc mỉm cười nhìn Bình không chút ngượng ngập. Trúc không ngờ
giữa nàng và Bình có thể có được một cuộc đàm thoại cởi mở và thú vị
thế. Bình bây giờ không còn lầm lì “kênh kiệu” như trong ý nghĩ của Trúc
trước kia nữa. Anh cười như nụ cười đầu tiên từng làm Trúc phát giác sự
duyên dáng dễ thương ở anh.
- Cô Trúc giỏi về luật lệ giao thông lắm ! Chắc cô phải đứng đầu về môn Công dân giáo dục ?
- Ông Bình đoán sai rồi, tôi thích học Lịch sử nhất.
Bình trầm ngâm giây lâu, hỏi :
- Cô có thích học Việt văn không ?
- Thưa có !
- Nếu cô Trúc không trách tôi tò mò, tôi xin mạn phép hỏi cô một câu.
- Xin ông tự nhiên cho.
- Cảm ơn cô Trúc. Tại sao cô thích học Việt văn ?
Trúc
nhìn Bình. Trực giác cho nàng thấy, đề tài này không được thú vị lắm,
lại có vẻ hơi quan trọng. Nàng trầm ngâm giây lát, đáp :
- Tôi không hiểu chính xác được tại sao, thưa ông ! Cái gì tôi thích thì tôi học. Nhưng… tại sao ông hỏi tôi câu ấy ?
-
Vì theo tôi thấy thì những học sinh ở các trường Việt Hoa thường không
thích học Việt ngữ. Chẳng những thế, hình như họ không mấy có cảm tình
với các giáo sư dạy Việt ngữ nữa.
Bình
nói câu này với nét buồn trên mặt. Trúc cảm thấy ái ngại chính nàng là
một phần tử kể trên, đã và đang gián tiếp làm mất lòng Bình. Trúc biết
là Bình nói thật vì anh có dạy ở các trường Việt Hoa. Nhất thời Trúc
chẳng biết nói thế nào để giải đáp thỏa đáng câu hỏi của Bình, mặc dù
Trúc biết rõ nguyên nhân gây nên phần đông học sinh Việt gốc Hoa không
thích học Việt ngữ. Lý do chủ yếu là ngôn ngữ là một trong những sức
mạnh thiên nhiên có thể tạo nên sự cảm hóa và đồng hóa giữa hai dân tộc.
Người Trung Hoa thường tự hào dân tộc mình có một lịch sử văn hóa vĩ
đại. Họ chỉ nghĩ, nếu học và biết giỏi
ngôn ngữ của một dân tộc mà xưa kia đã từng
một thời lệ thuộc quyền thống trị của dân tộc họ, để bị văn hóa và ngôn
ngữ của dân tộc này cảm hóa và đồng hóa thì chẳng có gì lấy làm vinh dự
cả. Nhưng họ không hoặc ít khi nào nghĩ đến : Học ngôn ngữ của một dân
tộc khác, ngoài những lý do (nếu có) nêu trên còn có thể đi đến sự cảm
thông và sống chung hòa bình. Giáo sư Hiền đã có lần đưa ra một ý kiến
về ngôn ngữ trong lúc dạy bọn Trúc : Học sinh ngữ cũng là để gia tăng
giá trị con người, biết một thứ tiếng chỉ có giá trị một con người, nếu
ta chịu khó học thêm nhiều thứ tiếng, ta sẽ có giá trị của nhiều con
người. Trong những bạn bè của Trúc, có nhiều người trong lúc vì lý do
lịch sử, nảy sinh ra tâm lý ghét bỏ chữ Việt, thì họ lại gạt bỏ những
khía cạnh tâm
lý khác, để theo học Nhật ngữ. Họ học Nhật ngữ với khía cạnh tâm lý là,
Nhật là một cường quốc, giỏi Nhật ngữ, họ sẽ có một địa vị xã hội hái
ra tiền trong tương lai. Trúc không có tư tưởng ấy nên có một vài lần
bạn bè rủ Trúc học Nhật ngữ, Trúc đã khẳng khái từ khước. Tuy nhiên,
hiểu rõ nguyên nhân là một vấn đề. Trúc không phải là một con người linh
lợi hoạt bát, nên nếu dùng lời nói để giải thích nguyên nhân với Bình
là cả một công trình. Nếu nói không khéo sẽ xảy ra tình trạng “từ bất
đạt ý” thì lại càng phức tạp hơn. Sau một hồi trầm ngâm, Trúc quyết định
tìm một cách khác để trả lời Bình. Vừa lúc ấy, có lẽ Bình đã phát giác
ra sự tư lự của Trúc nên hỏi :
- Hình như cô Trúc không được vui, hay tôi đã hỏi sai câu gì làm phật lòng cô chăng ?
- Ồ ! Xin lỗi ông, tôi chỉ đang nghĩ cách để trả lời câu hỏi của ông chứ chẳng có chi làm tôi không vui cả.
Bình cười :
- Thế cô đã nghĩ ra chưa ?
Trúc ngẫm nghĩ một thoáng nói :
-
Theo tôi thấy thì cũng tùy người ông ạ. Gia đình tôi và gia đình cô Mộ
Dung đều là người Trung Hoa, thế nhưng chúng tôi đã học và thích chữ
Việt. Quan niệm mỗi người một khác. Cha tôi có quan niệm là đã sống trên
đất Việt Nam thì học chữ Việt là một điều cần thiết. Tìm hiểu văn hóa
Việt tức là bắc nhịp cầu thông cảm giữa đời sống của hai dân tộc, ông ạ !
-
Vâng, tôi hiểu giáo sư ở điểm này. Thế còn cô, dù sao cô thuộc vào
thành phần lớp trẻ, quan niệm của cô có lẽ khác hơn bậc tiền bối như
giáo sư phần nào ?
-
Thú thật với ông, từ bé đến giờ tôi chưa có một quan niệm cụ thể nào
cả. Đối với quan niệm của kẻ khác nếu tôi thấy đúng thì tôi thích và
học.
- Thế cô có thích quan niệm của giáo sư ở nhà không ?
- Dĩ nhiên là có, thưa ông !
Bình xoa tay nói một cách thoải mái :
- Tôi rất lấy làm hân hạnh được sự cảm thông của cô.
Trúc trố mắt :
- Ông nói sao ?
- Tôi là người Việt, cô nhỉ ?
Trúc
chợt hiểu, nàng mỉm cười cúi đầu im lặng. Hai người im lặng đi song
song trên đường Hồng Bàng, hình như cả hai bắt đầu đi chậm hơn trước.
Trúc có cảm tưởng mặt trời đang trốn trên mây ngủ gật nên ánh nắng không
còn gay gắt và Trúc nghe thoải mái lạ. Lát lâu sau, Bình lên tiếng :
- Cô Trúc này !
Trúc đáp lời Bình bằng cách ngẩng lên nhìn anh.
- Sao cô không hỏi tôi “tại sao ông học chữ Trung Hoa” ?
- Ừ nhỉ, tại sao ông học chữ Trung Hoa ?
- Tại vì tôi thích nên tôi học.
- Tôi hỏi thật mà, ông trêu tôi chi ?
Bình hơi bối rối, có lẽ vì Trúc nói một cách trịnh trọng, không cười.
- Xin lỗi cô, tôi không có ý ấy. bây giờ tôi thành thật trả lời cô nhé.
Thấy Trúc vẫn im lặng, Bình băn khoăn hỏi :
- Cô giận tôi ư ?
Trúc phì cười :
- Đâu nào ? Tôi đang lắng tai nghe ông “thành thật trả lời” đấy chứ !
Bình thở ra nhẹ nhõm :
-
Lúc đầu tôi học chữ Trung Hoa để tìm hiểu và thích ứng cho việc dạy các
học sinh Việt Hoa. Dần dà, tôi thấy văn hóa Trung Hoa rất có ý nghĩa cô
ạ.
- “Ý nghĩa” trong trường hợp nào thưa ông ?
-
Rất nhiều, nhưng tôi chỉ xin kể một trường hợp cụ thể cho cô nghe.
Chẳng hạn, giáo sư ở nhà từng nói với tôi một câu thật khiêm nhường
nhưng cũng thật ý nghĩa, đó là câu “giáo học tương trưởng”.
Rồi như sợ Trúc nghe không hiểu, Bình nói lại câu trên bằng tiếng quan thoại với lối phát âm rõ rệt và tiếp :
-
Người tây phương cũng có câu thành ngữ trên, nhưng họ đề cập đến câu
này với lối hành văn và phát âm rườm rà nghe không được hàm súc. Chẳng
hạn tiếng Anh nói câu giáo dục tương trưởng thật là dễ hiểu “The man
learning when – whom teaching”, trong khi ấy tiếng Việt Nam có thể dùng
bốn chữ giáo dục tương trưởng để biểu đạt cả lời lẫn ý của câu thành ngữ
Trung Hoa mà không cần phải viết trắng ra rằng “người dạy học đã học
trong lúc dạy”. Đấy cô xem có ý nghĩa hay không ?
Trúc gật gù :
- Tôi phục ông Bình quá !
Và Trúc chuyển sang tiếng quan thoại :
- Tôi có thể nói chuyện với ông bằng tiếng quan thoại không ?
Bình cười ngại ngùng :
- Vâng, có thể… nhưng tôi kém lắm mong cô chỉ giáo cho.
Bình đáp lời Trúc cũng bằng tiếng quan thoại, nhưng anh nói chậm và vấp đôi chữ. Trúc dí dỏm :
- Tôi đâu dám, “giáo học tương trưởng” mà ông.
Bình cười dòn tan nhưng không đáp lời Trúc.
- Sao ông không nói chi cả ?
- Thật… thật khó nói.
- Có chi khó nói đâu nào ?
- Tôi muốn nói… tiếng quan thoại… thật khó nói.
Trúc chợt hiểu là nàng nói tiếng quan thoại với Bình như nói với một người Trung Hoa, thảo nào anh thấy khó tiếp lời.
- Hay ta nói lại tiếng Việt vậy ?
Bình xua tay :
- Tôi thích nghe cô nói tiếng quan thoại hơn.
- Nhưng ông không nói chi cả.
- Thì tôi nghe cô nói.
- Tôi không biết nói gì cho ông nghe bây giờ…
- Cô không biết nói gì thì thôi, tới nơi rồi.
Bình vừa nói vừa đưa tay ra hiệu cho Trúc quẹo vào đường Tổng Đốc Phương.
Cả hai im lặng đi về đến nhà Trúc. Trúc xem đồng hồ, vừa đúng 3 giờ 5 phút. Bình nói :
- Trễ mất 5 phút phải không cô ?
- Sao ông biết ?
Trúc ngạc nhiên hỏi, vì không thấy Bình xem đồng hồ. Bình đáp :
- Tôi đoán mò cô ạ.
Trúc
chợt nhớ ra là Bình thường đúng giờ như một cái máy. Nàng chỉ mỉm cười
lấy chìa khóa ra mở cửa. Giáo sư Chi đang rửa mặt ở nhà sau. Trúc chạy a
vào nói như phân bua :
- Cha ! Con gặp ông Bình ở ngoài đường !
- Thế à ! Bao giờ thì Diễm Minh đi Hồng Kông ?
- Ngày mai, thưa cha. Con có mời Diễm Minh lại nhà mình ăn cơm tối nay. Cha bảo, ta làm món ăn gì thết Diễm Minh đây ?
- Dĩ nhiên là làm một món ăn Việt để kỷ niệm Diễm Minh đã từng sống ở Việt Nam .
Giáo sư Chi vừa nói vừa đi ra phòng khách để dạy Bình học.
Biết
chắc chắn rằng thế nào ông cũng mời Bình ở lại dùng cơm, mặc dù chưa
biết Bình có nhận lời không, Trúc cũng thêm một nhúm gạo lúc nấu cơm.
Quả vậy, chỉ một lát sau, giáo sư Chi đi vào bảo Trúc nấu luôn phần cơm
cho Bình. Không hiểu sao, Trúc có ý nghĩ, lần này Bình vì nàng mà nhận
lời ăn cơm nhà nàng.
*
- Thư Trúc à, Thư Trúc, Thư Trúc !
Nghe
tiếng gọi, Trúc biết ngay là Quốc Trinh đến. Cô bạn này nổi tiếng là
thông minh, lanh lợi, tính tình cương trực, mau mắn, làm việc hay nói
năng đều linh hoạt đến gần như rối rít. Hiện Quốc Trinh là ký giả của
vài tờ báo Hoa ngữ ở Chợ Lớn. Trong một nhóm bạn bè chỉ có Quốc Trinh là
ra đời sớm nhất. Thấy Thư Trúc đang ở phòng khách thế mà Quốc Trinh
cũng gọi một thôi dài, đó là cố tật của cô. Trúc vừa mở cửa cho Quốc
Trinh vừa nói :
- Chi mà rối lên thế, làm người ta cứ ngỡ là hoàng hậu giá lâm.
- Công chúa giá lâm chứ !
Quốc Trinh khôi hài. Thư Trúc đưa tay lên má làm động tác lêu lêu :
- Có biết xấu hổ không đấy ? Thưa công chúa !
Quốc Trinh định trổ tài ồn ào của cô như mọi khi, nhưng chợt trông thấy Bình ngồi ở bàn ăn vội thè lưỡi hỏi khẽ :
- Có khách à ? Ai thế ?
- Công chúa mãi bận việc triều đình có thèm hạ giá đến tệ xá đâu mà biết những việc xảy ra từ bấy những nay. Vào trong này đã.
Quốc Trinh ngơ ngác :
- Việc gì đã xảy ra ? Sao tớ không nghe bọn Diễm Minh nói gì cả ?
Trúc phì cười :
-
Đùa với cậu đấy ! Đây là ông Bình. Ông ấy là người Việt, đến học Quốc
ngữ (quan thoại) với cha mình 5, 6 tháng nay rồi. Cậu có thèm đến đây
đâu mà biết. À, cậu vừa gặp Diễm Minh đấy à ?
- Ừ, hắn phái mình đến nói cho cậu biết, hắn không đến được, và đại diện cho hắn ăn cơm nhà cậu tối nay.
- Thảo nào ! Nếu không, thánh chỉ cũng không dời gót ngọc đến đây.
- Thôi đừng cay cú nữa, đói bụng lắm rồi, có cho ăn cơm không thì nói.
- Quốc Trinh đấy à ? Cháu vừa đến đúng lúc, ở lại dùng cơm nhé !
Giáo sư Chi từ trong đi ra nói.
- Thưa bác ạ ! Cháu đại diện cho Diễm Minh thì nhất định phải xơi của bác một bữa cơm mới được.
- Diễm Minh không tới à ? Ừ, ngày mai đã đi rồi thì đến thế nào được.
Quay sang Bình ông tiếp :
- Cô Trinh giỏi chữ Việt lắm, cậu Bình ạ ! Cô ấy đang làm ký giả cơ !
-
Cháu van bác đừng “tuyên truyền miễn phí” cho cháu nữa, cháu ngượng đến
chết đi được. Ai cũng tưởng làm ký giả phải giỏi lắm. Tình thật… cháu
không bằng một nửa Thư Trúc.
- Cho tôi xin, tôi không dám có một tí liên hệ nào với đại ký giả cả. Nào, chúng ta bắt đầu xơi cơm.
Trong
bữa cơm, Quốc Trinh nói chuyện huyên thuyên. Để giúp Bình mau tiến bộ
trong việc học quan thoại, giáo sư Chi đề nghị nói chuyện bằng quan
thoại. Quốc Trinh nói quan thoại thì phải biết, trôi chảy và đúng giọng y
như Bắc Bình. Phải công nhận là Quốc Trinh quá thông minh, học tiếng gì
là phải giống tiếng ấy. Lúc chưa làm ký giả, Trinh giao thiệp với vài
cô bạn ký giả người miền Bắc, thế là Trinh nói tiếng Việt y như người
miền Bắc.
- Thư Trúc, có một việc này định bàn với cậu…
Không nghe Quốc Trinh nói tiếp, Trúc hỏi :
- Việc chi mà quan trọng thế ?
- Về kế hoạch mỗi năm của bọn mình.
- Việc cuối năm ủy lạo Viện Dưỡng Lão ấy à ?
- Ừ, nhưng năm nay tôi đề nghị, mình bỏ Viện Dưỡng Lão để ủy lạo Viện Mồ Côi.
- Tại sao ?
Trúc
hỏi cụt lủn. Tự Trúc cũng nhận thấy ngữ khí của nàng đầy vẻ bất tán
đồng. Vì Trúc không muốn đương nhiên bỏ ngang việc ủy lạo Viện Dưỡng Lão
do bà giáo sư Hiền đề xướng và bọn Trúc đã làm trong mấy năm qua. Trúc
đã quen thuộc với những mối cảm xúc trong những lần trao từng gói quà bé
nhỏ qua những bàn tay các cụ già run rẩy, dăn deo. Mỗi lần như thế y
như là Trúc bị cảm xúc mãnh liệt bởi những tiếng xôn xao vui mừng của
các cụ.
Dĩ
nhiên, ủy lạo Viện Mồ Côi đồng thời vẫn có thể ủy lạo Viện Dưỡng Lão.
Có điều mỗi lần ủy lạo, mỗi người phải bỏ ra một số tiền kha khá. Trừ
Quốc Trinh ra, bọn Trúc chưa ai đi làm cả. Ngửa tay xin tiền cha mẹ dù
rằng làm việc thiện thì cũng phải ở một giới hạn nào thôi. Vả lại làm
việc thiện bằng đồng tiền không phải do mình đem mồ hôi sức lực tạo ra,
nó không đầy đủ ý nghĩa một việc thiện.
-
Hôm qua mình đi theo một phái đoàn báo chí Việt Nam lên thăm một Viện
Mồ Côi ở Biên Hòa. Nói là Viện Mồ Côi chứ thực ra chỉ là một nhà chùa,
chấp nhận nuôi dưỡng những đứa trẻ côi cút. Nếu cậu trông thấy nhất định
phải rơi nước mắt.
- Thế à ?
Trúc hơi mềm lòng, nhưng không mấy tích cực :
- Biết mình có đủ phương tiện không ?
Đối
với Trúc, hai chữ phương tiện là ám chỉ tiền bạc. Phải chi Trúc có một
việc làm, “ừ nhỉ, tại sao lâu nay mình không nghĩ đến tìm một việc làm” ?
Bây giờ Trúc cảm thấy cần thiết nghĩ xa một chút có lẽ đời sống sẽ đỡ
bớt những hoang mang. Nếu Diễm Minh đang hiện diện, Trúc sẽ trả lời Minh
ngay rằng “Tôi sẽ đi làm, không cứ phải đợi học hết trung học, có thể
ngay bây giờ”.
- Bởi thế nên tôi mới bàn ngay với cậu…
Quốc Trinh hơi ngần ngại nói :
-
Tôi có quen với mấy ông Dân Biểu… Tôi có nói qua việc ủy lạo Viện Mồ
Côi này và họ có hứa giúp về mặt tài chánh, tôi định nói với cậu đi thu
góp với tôi…
- Tôi không đi !
- Tại sao ?
- Tôi không thích làm việc thiện bằng tiền của kẻ khác.
- Thư Trúc, cậu đừng hiểu lầm, người ta bằng lòng bỏ tiền ra để làm việc thiện.
- Dĩ nhiên, họ bằng lòng cậu mới rủ tôi đi góp tiền được. Nhưng cậu hiểu không, họ bằng lòng chứ không phải tự ý hưởng ứng.
- Cậu đừng cố chấp như vậy, mình không đề xướng thì họ biết đâu mà tự ý bỏ tiền ra ?
- Ai bảo cậu ? Nếu họ tự nguyện làm một việc thiện, tự họ có thể đề xướng lấy cơ mà ?
- Thư Trúc ! Sao mà cậu lôi thôi thế ?
-
Tôi lôi thôi hay cậu lôi thôi đấy ? Khi không đề xướng bỏ Viện dưỡng
Lão, chuyển sang Viện Mồ Côi, không đủ phương tiện phải đi cầu cạnh
người ta. Mình làm việc thiện chứ có phải đi buôn lãi lời đâu mà cậu
phải chạy đôn chạy đáo cho nó mệt xác.
Cả hai càng nói tình hình càng trở nên căng thẳng. Giáo sư Chi nói :
-
Thôi, cháu Quốc Trinh cũng đừng nhận tiền của mấy ông Dân Biểu làm chi.
Các cháu tự thấy có nhiều thì giúp nhiều, có ít thì giúp ít. Bác sẽ dự
một phần vào việc này với các cháu.
- Thưa bác, bác không hiểu chứ đây lên Biên Hòa rất xa, chỉ tiền bao xe thôi cũng là một chi phí đáng kể.
- Nếu các cô không từ chối, tôi có thể dự một phần trong việc chuyên chở.
- Ông có xe ? Quốc Trinh hỏi.
- Vâng, xe động cơ ba bánh được không cô ?
- Sao lại không ? Nếu chúng tôi thuê xe thì cũng thuê loại xe này thôi.
- Nếu tôi tham gia một số tiền, có tiện không các cô ?
Bình
hỏi xong nhìn Trúc như dọ hỏi. Quốc Trinh không dám nhận tiền nên cũng
nhìn Trúc. Nhất thời Trúc bị bốn làn nhãn quang của hai người soi đến
bối rối. Trúc chửi thầm Quốc Trinh : “Con này ngốc quá, người ta tự ý
góp phần thì lại làm bộ làm tịch”. Cuối cùng Trúc đành nói :
- Thế ông có cùng đi với chúng tôi không ?
- Dĩ nhiên, tôi giữ chân tài xế mà lại.
- Không dám ạ !
Trúc nói thật khẽ. Quốc Trinh chợt reo lên mừng rỡ :
- A, thật là may ! Ông Bình tốt quá, có thiện chí quá ! Chúng tôi cảm ơn ông nhiều lắm.
- Rõ là tài ký giả. Trúc nói.
- Thư Trúc, tuần sau mình tiến hành nhé ! Viện Mồ Côi cơ, nhé ?
- Ừ thì Viện Mồ Côi, có ai bảo sao đâu ?
Quốc
Trinh không bao giờ giấu được sự hớn hở, cô vừa dọn bát hộ Trúc vừa
ngân nga một điệu nhạc vui tươi cổ điển. Quốc Trinh rất cởi mở và dạn dĩ
gợi chuyện với ai mới quen, nên Bình cũng trở nên hoạt bát luôn trong
buổi tối hôm ấy. Họ bàn rất nhiều về đề tài ủy lạo Viện Mồ Côi. Sau khi
Bình và Quốc Trinh ra về, họ đã vạch sẵn một chương trình chuẩn bị cho
cuộc ủy lạo vào chủ nhật tuần sau. Tuy nhiên, Trúc vẫn dự định báo cho
bà giáo sư Hiền biết để bà góp thêm ý kiến, dĩ nhiên là cũng góp thêm
một “cổ phần” cho việc ủy lạo.
_______________________________________________________________________________
_______________________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG VI