Thứ Hai, 6 tháng 10, 2025

Con Tê Giác


Với dáng vẻ lờ đờ, chậm chạp, thân hình to lớn nặng nề, cục mịch và cặp sừng kỳ lạ tựa quái vật thời tiền sử, tê giác là con vật hiền lành được coi như không có kẻ thù - trừ loài người - trong chốn rừng xanh.
 
Theo các nhà cổ sinh vật học, tê giác đã xuất hiện trên trái đất ngay từ đầu nguyên đại đệ tam và đệ tứ (cách đây chừng 60 triệu năm) tại Mỹ, Âu, Phi và Á Châu, cùng thời với Khổng Tượng và Trụ Nha. Nửa thế kỷ trước, tê giác còn sống rất đông đảo, nhưng hiện nay chúng trở nên hiếm hoi chỉ còn thấy rất ít ở một số quốc gia Phi và Á Châu mà thôi.
 
Trung bình tê giác cao khoảng thước rưỡi, dài hơn ba thước, to như trâu mộng, nặng trên 1 tấn, đầu nhỏ, mắt bé, hai tai ngắn. Đặc biệt, tê giác có một hay hai sừng nhọn hoắt mọc ngay trên sống mũi - do lớp lông dính chặt vào nhau cứng ngắc nhô lên khỏi lớp da tạo thành - sừng này dài cỡ nửa thước giúp nó húc vào bụi cây để tìm đường xuống suối uống nước và để tự vệ chống lại kẻ thù khi cần. Riêng bốn chân tê giác vừa ngắn lại vừa tròn với móng tầy như loài voi nên so với thân mình đồ sộ của nó thực chẳng cân đối chút nào. Đã vậy, đuôi tê giác bé quá và cụt lủn như đuôi lợn trông càng thêm kỳ dị.
 
Món ăn chính của tê giác gồm cỏ, mầm non, lá thân cùng rễ các loại cây mềm. Chúng thường xuất hiện trong những vùng rừng núi yên tĩnh, bên bờ suối, đôi khi tại những đồi trọc khô khan người ta cũng thấy bóng dáng tê giác, mặc dù chúng rất ưa thích nước, nhưng vẫn có thể nhịn uống cả tháng.
 
Thời gian tê giác ưa thích nhất để đi kiếm ăn là lúc mặt trời lặn trở đi cho tới sáng. Nếu gặp con suối, đềm lầy, vũng bùn là tê giác dầm mình xuống, lăn lộn một hồi cho đã rồi leo lên bờ cọ mình vào thân cây hay vách đá như thể ta gãi gãi chỗ ngứa vậy. Bình minh trở lại, tê giác tìm các nơi có bóng cây rậm rạp, hay bụi bờ chui vào nằm ngủ. Điểm tức cười là đôi lúc nó đứng yên lặng, đầu cúi gằm xuống rồi ngủ gà ngủ gật suốt ngày như anh chàng say rượu vậy.
 
Tê giác sống rất cô độc: một mình hoặc từng cặp với một vài đứa con. Sau mười tám tháng cưu mang, tê giác cái mới đẻ và chỉ sinh một con mà thôi. Ngay khi lọt lòng mẹ, tê giác con đã cân nặng tới hai mươi bẩy, hai mươi tám kilô và được mẹ săn sóc liên tiếp trong hai năm, sau đó bắt đầu theo cha mẹ đi kiếm ăn. Tới lúc đủ bẩy, tám tuổi, nó tự ý tách khỏi "đại gia đình" để tự lập như hồi cha mẹ nó còn nhỏ vậy.
 
Tùy theo vùng chúng ở và từng loại, tê giác có mầu sắc khác nhau: đen sậm, nâu, xám hay trắng xám, nhưng tựu chung, lớp da của chúng rất dầy, dầy tới hai ba phân lận và có khi kết thành từng mảng chẳng khác gì các chiến sĩ mặc áo giáp vậy.
 
Bề ngoài tê giác có vẻ dữ tợn, nhưng thật ra nó rất hiền lành, nhút nhát nên hay hốt hoảng vì nó không nhìn xa được, mặc dù thính tai, tinh mũi. Do đó, nhiều khi thợ săn len lỏi vào gấn sát tê giác mới nhận ra. Lúc đó nếu thiếu kinh nghiệm lại không lanh lợi, thợ săn chưa kịp ra tay đã bị nó hạ ngay bằng cách lao thẳng cặp sừng nhọn hoắt vào đối thủ lẹ như chớp. Chúng ta cũng cần biết thêm dù thân xác to lớn, đồ sộ, tê giác vẫn thừa khả năng chạy nhanh tới 30 dặm 1 giờ và leo trèo lên các đồi dốc, bờ đá thật dễ dàng chẳng khác gí sư tử, hổ, báo, gấu v.v... Vốn kèm thông minh, tê giác thường "kết thân" với một vài loại chim như giống cò trắng nhỏ xíu, chim sâu v.v   để nhờ những con vật bé bỏng này vừa thanh toán hộ các chú bọ bám trên đốt cổ, lưng vẫn làm nó ngứa ngáy khó chịu, vừa là "tổ báo động" mỗi khi chúng thấy dấu hiệu hiểm nguy - nhất là bóng dáng thợ săn xuất hiện đâu đó - là kêu ầm ĩ rồi vội vã bay đi, nhờ vậy tê giác đủ thì giờ lẩn trốn.
 
Người ta phân ra nhiều loại tê giác:
 
a) - Tê giác Phi Châu: Gồm hai thứ:
 
- Tê giác đen.
 
- Tê giác trắng.
 
Loại tê giác Phi châu có hai sừng, da nó liền chứ không chia từng mảng. Riêng tê giác trắng (gọi là trắng chứ thực ra da nó trắng xám) gần như tuyệt chủng. Hiện tại sở thú Luân Đôn có nuôi một con tê giác trắng, sứng của nó rất dài (mỗi cái ngót hai thước).
 
b) - Tê giác Á Châu: Gồm 2 thứ:
 
- Tê giác xám.
 
- Tê giác nâu.
 
Loại tê giác Á Châu chỉ có sừng duy nhất (tuy cũng có con mang hai sừng, nhưng sừng thứ nhì này rất nhỏ) và lớp da chia từng mảng như áo giáp.
 
Nói chung, tê giác càng ngày càng trở nên khan hiếm vì bị giết hại quá nhiều. Thổ dân Phi Châu thường dùng tên và lao tẩm thuốc độc bắn vào những yếu điểm trên mình con vật, để lấy thịt. Riêng tại Á Châu, người ta lấy da và nhất là cặp sừng tê giác làm các vị thuốc chữa bệnh.
 
Hiện nay loài này đang được bảo vệ rất gắt trong những khu tập trung để tránh bị diệt chủng.
 
 
ĐẶNG HOÀNG (sưu tầm)     
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 59, ra ngày 8-10-1972)
 

Không có nhận xét nào:

oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>