Một
tuần qua, trời Huế mưa dầm. Ngày cũng như đêm, buồn da diết. Tiếng mưa rì rào
hòa lẫn với tiếng gió trong cây, tạo nên một âm thanh não nuột.
Đường
lên Kim Long thưa thớt người. Thỉnh thoảng, vài chiếc buýt lặng lẽ lướt qua.
Hai dãy nhà, suốt ngày đóng cửa kín mít. Mưa ướt, gió lạnh với cái im lặng của
ngoại ô làm cho cái thị trấn này có vẻ buồn thảm.
Nhà
tôi nằm ngay trên bờ sông Hương tả ngạn. Về mùa nắng thì gió mát nhưng đông đến
thì buốt tận xương. Những ngọn gió như quất vào da thịt.
Phòng
học của mấy chị em tôi được xây trên sông như một gian nhà nổi. Phòng này cách
nhà ở một khoảng sân rộng. Mùa mưa, sách vở học được chuyển vào trong. Phòng
này chỉ chứa truyện, tạp chí và sách vở cũ. Chỉ mình tôi thường ra đấy những
lúc nhàn. Nhất là vào những ngày mưa như hôm nay.
Tôi
thích ngồi lặng lẽ ngắm dòng sông. Những giọt mưa rơi xuống, bắn tung làm nhăn
nheo mặt nước. Từng đợt sóng trắng xóa tới tấp đuổi nhau chạy vào bờ. Giữa lòng
sông như có bọt trắng. Rồi nước xoáy mạnh. Từng lớp rều theo nước cuốn đi. Sau
đó là củi từ phía thượng lưu trôi về. Nước đục ngầu và sóng gió mỗi lúc một lớn.
Mực nước sông cao dần… cao dần, tôi thấy rõ.
Một
đàn cò trắng từ đâu bay ngang qua, hướng về phía núi. Điệu này rồi có lụt to.
Tôi định vào nhà báo tin cho mẹ tôi, nhưng vừa xây lui, người đã đứng đó từ bao
giờ.
-
Mẹ, con thấy cò bay lên và nước mau lớn quá.
Bà
gật đầu, mỉm cười:
-
Rồi sao nữa?
-
Con sợ lụt mẹ à. Mấy người làm cá ngoài sông họ bảo năm nay nhãn sai thì nước
to.
Mẹ
tôi không trả lời. Bà nhìn trời đất với nhiều nét đăm chiêu lo lắng. Một lát bà
bảo:
-
Lạnh quá… Con ở đây lâu chưa? Vào thôi kẻo đau đấy.
Tôi
nũng nịu gục đầu vào vai mẹ chưa chịu vào nhà.
Bấy
giờ trên sông có nhiều chiếc “tròng” xuất hiện. Người ta lũ lượt đi vớt củi.
Nhìn một chiếc ghe bé nhỏ, một thân hình ở trần trùng trục, ướt đẫm nước đang
loay hoay với khúc củi giữa dòng, tôi hồi hộp lo sợ. Chiếc ghe xoay như chiếc
lá. Nước tống mạnh và con người bất lực. Cứ thế, những ghe thuyền hoạt động
trên sông.
Tôi
ngồi yên một lát rồi vào nhà. Trời tối hẳn.
*
Tôi
giật mình thức dậy vì có nhiều tiếng động chung quanh: tiếng người nói, tiếng
gọi nhau ơi ới, tiếng đồ vật lịch kịch chạm nhau và cả tiếng mái chèo khuấy
nước, bì bõm đâu đây rất gần.
Trí
tôi chợt nhớ ra. Trời ơi, nước đã vào nhà sao? Tôi ngồi dậy bật đèn. Điện bị
cắt. Chân tôi đang khua khua trên sàn để tìm dép thì có tiếng mẹ tôi:
-
Dậy chưa Huê? Lụt rồi đó.
Ra
khỏi phòng thì đèn đuốc sáng trưng. Đồ đạc đâu đã vào đấy.
Tiếng
ba tôi mắng yêu:
-
Gớm, ba mẹ dọn dẹp cả giờ mà con gái vẫn ngủ kỹ.
Mẹ
tôi thêm:
-
Ai chứ con tôi “ngoan” lắm. Nước ướt lưng, không gọi cũng không biết.
Tôi
dụi mắt nhìn kỹ, mực nước đang lấp liếm vào nhà trong. Bỗng nhiên tôi hốt
hoảng:
-
Thôi, chết rồi…
-
Cái gì thế?
Không
trả lời ba, tôi xăm xăm bước ra phòng khách, phòng ăn. Ngang khoảng sân tôi
đứng sựng lại. Phòng sách bị nước ngập hết rồi.
Sợ
tôi lội xuống nước, ba tôi kềm lấy tay tôi, tưởng tôi còn mê ngủ. Nhưng tôi
tỉnh lắm rồi. Tôi lo tủ sách bé bé của tôi bị nước cuốn… Khi được biết đồ đạc
đã an toàn trên gác, tôi yên tâm. Ba mẹ thương con quá nhiều, lo lắng chu đáo
cho tôi quá.
Đồng
hồ điểm 4 giờ. Chung quanh nhà là nước hết. Tôi đi gọi lũ em dậy. Đứa nào cũng “ngủ
say như chết” nhưng nghe nước lụt vào nhà thì tỉnh ngay.
Bữa
cơm sáng được dọn ra lúc 5 giờ. Ba tôi luôn miệng nhắc:
-
Ăn cho no, đứa nào cũng thế. Nhỡ có bão kèm theo, nấu không được đâu.
Lạnh
lắm nhưng thấy chị ở lội sì sục dưới nước tôi cũng thèm.
-
Mới 10 phút mà đã lên khỏa nền nhà rồi cậu ơi.
Ba
tôi lo lắng bế từng đứa nhỏ lên gác. Tôi nằn nì ở lại dưới canh chừng để biết
nước lên bao nhiêu nhưng mẹ tôi không chịu. Ngồi trên gác cao, tôi lo sợ vẩn
vơ.
Trời
sáng dần. Tôi thấy rõ dòng sông rộng mênh mông và nước chảy ồ ạt. Từng nóc nhà
phía dưới, nước chấm mái tranh. Có nhà bị tung cả nóc. Những người đó đã đi
đâu? Tôi đang nghĩ đến họ thì có tiếng chân chạy lên gác: Tiếng chị ở bị đứt
quãng:
-
Thưa cậu mợ… có hai chiếc ghe Hướng đạo chở người đến… xin ở nhà mình.
Ba
tôi đi xuống đón họ. Tôi định chạy theo nhưng mẹ tôi giữ lại. Bà “bắt” tôi
khuấy sữa cho em bé.
Mẹ
tôi trở lên lấy quần áo xuống. Tôi biết họ đói và lạnh.
Những
người mới đến vẫn ở dưới nhà cho đến trưa, lúc nước lút bộ ván mới lên gác.
Đến
bữa cơm, thật là khổ. Bếp được nhóm giữa nhà. Khói lên ngun ngút. Mắt cay tưởng
có thể mù. Và nước mắt ứa ra.
Bên
ngoài mưa ào ào xen lẫn gió. Căn gác tưởng có thể sụp. Từng ngọn cây bị gió
đánh, quét vào tường, vôi đổ bì bõm.
Bỗng
nhiên, trên mái nhà của căn gác, một khoảng ngói bị chạy dài. Nước trút xuống
lên đầu lên cổ những người đang trú ẩn nơi đây. Nhìn qua khoảng trống, bầu trời
như có muôn ngàn đôi mắt bạo tàn đang chiếu đến từng nhà phá phách.
Thấy
cảnh “màn trời chiếu đất” đến bên mình, lòng tôi se thắt. Ý nghĩ chết chóc lảng
vảng đâu đây. Tôi nhắm mắt, ngả mình bên góc tủ. Mọi người nhốn nháo. Tiếng bàn
tán xôn xao.
Tôi
nghe tiếng mõ cấp cứu xa xa. Liệu gia đình tôi có dùng tiếng mõ ấy không? Bên
cạnh tôi, mẹ tôi buồn thở dài não nuột.
Nhờ
người đông, chỗ nhà bị bay ngói được vá víu tạm thời bằng những tấm khăn bàn
không thấm nước.
*
Qua
một đêm dài kinh hãi, cuộc sống chen chúc trên gác tù túng chật chội được giải
quyết. Nước xuống dần dần và trời không còn gió lớn. Những người tỵ nạn được
trở về mái nhà xưa để sửa sang lại.
Nhà
tôi, sau ba ngày dọn dẹp, giờ đã sạch sẽ, bùn lầy được đẩy ra xa. Tuy nhiên,
vết tích của mực nước vẫn còn để ngấn lại trên tường vôi trắng.
Mặt
nước sông Hương sau trận lụt đã trở lại bình thường. Nhìn dòng sông lặng lờ
chảy, ai có thể bảo trước đó đã càn quét nhà cửa, của cải của dân lành.
Một
cơn tai biến đã qua. Trong mùa mưa lạnh này còn bao tai biến khác. Bên ngoài
mưa… mưa mãi. Buồn cho mùa đông xứ Huế.
THƯƠNG
VIỆT PHƯƠNG
(Trích
từ tạp chí Tuổi Hoa số 34, ra ngày 25-11-1965)