CHƯƠNG
CUỐI
Cũng
như sinh hoạt văn nghệ bây giờ, hồi trước hằng năm cứ vào dịp gần Tết là bọn
chúng tôi nô nức với bầu không khí sửa soạn viết bài cho các báo Xuân. Đối với
các cây bút có tên tuổi thì viết xong bài nào là có chỗ tiêu thụ ngay bài ấy.
Đó là chưa kể một số cây bút đã được tòa soạn giành xin bài từ trước, có khi
lại đưa trước cả tiền nhuận bút.
Được
các tác giả nổi tiếng đóng góp bài vở, tờ báo sẽ thêm uy tín khiến cho số báo
có thể bán chạy hơn, đặc biệt là những số báo Xuân. Mà khi nhận được lời mời,
nhiều tác giả còn cân nhắc xem uy tín của tờ báo đến đâu, có là loại báo đứng
đắn, chuyên nghiệp không, hay chỉ làng nhàng, thậm chí còn bị mang tiếng là báo
lá cải. Câu tục ngữ "chọn mặt gửi vàng" xem ra cũng đúng trong những
trường hợp này, mặc dù dưới mắt bọn lau nhau chúng tôi thì một sáng tác giá trị
của một tác giả đã thành danh xét ra còn quí hơn… vàng !
Bọn
chúng tôi thì chưa đạt được tới mức thượng thừa như vậy, nên muốn chen chân tìm
được đất đứng trong một tờ báo Xuân sẽ buộc lòng phải viết tưới hột sen, và dòm
chừng tờ nào tương đối dễ chen vô là gửi bài về tới tấp. Hoàn cảnh của chúng
tôi cũng chẳng khác gì những kẻ đi săn tài tử chỉ xài toàn đạn ghém. Cứ bắn đại
đi, khỏi cần nhắm kỹ, chắc chắn trong cả trăm viên chì phóng ra cũng sẽ có viên
dính được con mồi.
Được
cái ở Hà Nội vào dịp giáp Tết, bầu không khí tuy lạnh lẽo nhưng lại là cái lạnh
lẽo dễ tìm chỗ ấm cúng để tụ tập và gây cảm hứng sáng tác. Mỗi buổi tối sau khi
cơm nước xong, cả lũ đều bận áo ấm để tìm tới nhà nhau. Hôm nào
"suông" (hết tiền) thì ngồi nhà tán chuyện gẫu, còn hôm nào
"rích kê" (có tiền) thì kéo nhau đi cà phê Nhân hay cà phê Giảng ở
đầu phố Cầu Gỗ gần Bờ Hồ để thưởng thức hương vị cà phê tuyệt hảo với khói
thuốc bay thơm lừng trong bầu không khí mùa đông, gió thổi lạnh lẽo trên mặt
hồ.
Cà
phê, một phin hết bốn đồng. Thuốc lá lẻ cứ hai đồng thì ba điếu. Ngồi trong
tiệm, mỗi đứa ngậm một điếu (cho khỏi mất mặt bầu cua), nhưng trên đường về thì
chỉ truyền nhau hút chung một điếu cho đỡ hao hụt. Đến lúc chia tay, trong túi
mỗi đứa cũng còn được đôi ba điếu để lận lưng chờ đêm đem ra đốt lúc ngồi sáng
tác. Sáng tác vào ban đêm hầu như là thói quen của nhiều người, vì đó là lúc
yên tĩnh nhất. Công việc thường xuyên trong ngày cũng đã chấm dứt, chỉ còn một
mình đối diện với trang giấy trắng muốt sẵn sàng đón chờ nguồn cảm hứng sắp
tuôn trào.
Tôi đã cài kỹ cửa lớn, cửa nhỏ lại cho gió đông khỏi ùa vào phòng. Rồi bật đèn sáng, ngọn đèn đã được bao che bằng một xấp giấy báo để khỏi làm sáng choang cả nhà. Rồi chùm chăn bông lên tận cổ, vừa ngồi xổm trên giường hút thuốc phì phèo vừa kê tờ giấy lên mép bàn đã kê sát để cắm cổ viết. Trời thì mùa đông đấy nhưng ý Xuân lại tuôn ra ào ào ngậu sị cả lên : nào khai bút, nào xuất hành, nào Chúa Xuân, hoa Xuân, bướm Xuân, vườn Xuân… cái gì cũng cố gài tiếng "Xuân" vào cho hợp tình, hợp cảnh. Lại vì lâu lâu mới đi tiệm một lần nên bị cà phê nó hành cho trắng mắt, thức đến bốn, năm giờ sáng mà vẫn còn tỉnh như sáo sậu.
Tôi đã cài kỹ cửa lớn, cửa nhỏ lại cho gió đông khỏi ùa vào phòng. Rồi bật đèn sáng, ngọn đèn đã được bao che bằng một xấp giấy báo để khỏi làm sáng choang cả nhà. Rồi chùm chăn bông lên tận cổ, vừa ngồi xổm trên giường hút thuốc phì phèo vừa kê tờ giấy lên mép bàn đã kê sát để cắm cổ viết. Trời thì mùa đông đấy nhưng ý Xuân lại tuôn ra ào ào ngậu sị cả lên : nào khai bút, nào xuất hành, nào Chúa Xuân, hoa Xuân, bướm Xuân, vườn Xuân… cái gì cũng cố gài tiếng "Xuân" vào cho hợp tình, hợp cảnh. Lại vì lâu lâu mới đi tiệm một lần nên bị cà phê nó hành cho trắng mắt, thức đến bốn, năm giờ sáng mà vẫn còn tỉnh như sáo sậu.
Sau
một đêm như thế, tôi có thể đã hoàn tất một bài tùy bút, một bài thơ, hay có
khi là một truyện ngắn hay một vở hài kịch. Thật bây giờ nghĩ lại cái khả năng
viết mau, viết mạnh của hồi xưa mà bắt thèm.
Mỗi
lần viết xong, hôm sau thế nào chúng tôi cũng chạy đi tìm nhau để khoe sáng tác
của mình. Nhiều khi móc túi chẳng ai còn đồng cắc nào, đành lại đốt chung một
điếu thuốc tới khi "rít" đến tận cùng, mẩu thuốc vứt đi chỉ còn chưa
quá nửa phân.
Lại
cũng có nhiều hôm "vốn liếng" bết bát quá, mà mua chịu của quầy thuốc
lá lẻ cũng không xong vì sổ nợ cũng khá cao rồi (đến nỗi khi đi qua, phải lảng
tuốt qua bên kia hè phố để tránh mặt, chờ khi có tiền thanh toán). Những hôm đó
bọn tôi chỉ còn cách chui xuống gầm bàn kiếm những đầu thừa vương vãi đâu đó
đem đốt lại. Ấy vậy mà cũng có lần có đứa phải phàn nàn:
-
Các cậu khai thác kỹ quá, chẳng còn mẩu nào "ra hồn" cả !
Mặt
ai nấy đều buồn hiu ! Tuy nhiên, nhớ lại cái thời như thế tôi lại thấy sao mà
quý thế. Nó quá tươi đẹp, nó in dấu cả một thời đã sống hồn nhiên, trong sáng,
đầy ắp những kỷ niệm đáng nhớ của cái tuổi hoa niên đã qua đi, không bao giờ
còn trở lại.
Chắc
tới đây hẳn có bạn đọc thắc mắc là viết bài như thế, báo đăng như thế, thì tiền
nhuận bút để đâu, không lấy mà xài ?
Tôi
xin thưa ngay rằng trong suốt quãng đời "mơ làm văn sĩ" của tôi¸bài
đăng cũng đã nhiều, ra vô các tòa báo cũng đã lắm, giấy bản thảo đã xé từ không
biết cơ man nào là tập vở, vậy mà tôi không được tòa báo nào chi trả cho một
đồng bạc cắc.
Thật
ra, vấn đề này cũng đã được bọn chúng tôi đem ra bàn cãi om sòm. Một phe chủ
trương bài đã đăng thì phải là bài có giá trị. Mà có giá trị thì phải trả tiền
là đúng đứt đuôi đi rồi. Nhưng phe khác lại chủ trương "văn nghệ là cao
quý", xía vô vấn đề tiền bạc nó làm cho mất vẻ thanh tao của con nhà văn
nghệ đi. Thật ra đây chỉ là lập luận để che giấu một sự thật phũ phàng mà không
ai dám đương đầu, đó là sự nếu cứ nằng nặc đòi tiền nhuận bút, tòa báo sẽ lẳng
lặng xếp tác phẩm của mình vào hồ sơ: "Bài Loại".
Bài
mà bị loại thì mất cả chì lẫn chài !!
Thế
rồi cuộc tranh luận rút cục chẳng đi đến đâu. Phe hăng hái thì cũng chẳng anh
nào có gan ghi ở góc bản thảo mấy chữ "Có lấy tiền nhuận bút". Mà thế
vẫn còn "oách" hơn cái thời còn phải ghi mấy chữ "Bài gửi đăng
không lấy nhuận bút" nữa kìa.
Tình
trạng đó kéo dài tới một dịp Tết. Tết năm đó tôi được chọn đăng vở kịch vui một
màn trên báo Cải Tạo. Vở kịch nằm trịnh trọng ở ngay trang mười của tờ giai
phẩm. Trịnh trọng hơn nữa là bài của tôi lại có cả họa sĩ minh họa kèm theo
tiêu đề chạy suốt bề ngang của trang báo nữa. Và mặc dù bài xếp chữ cỡ 8, vở
kịch của tôi cũng cũng đã chiếm trọn tới 2 trang. Một bạn xúi tôi:
-
Tới đòi nhuận bút đi ! Báo ra ngày thường thì được chớ báo Xuân số đặc biệt mà
không có xu nào thì vô lý quá.
Tôi
nghĩ đến những điếu thuốc lá, đến những chầu cà phê buổi tối ở cà phê Giảng ở
đường Cầu Gỗ, xen vào đó là tự ái cũng nổi lên rầm rầm, nên bùi tai bèn quyết
định làm một việc mà tôi cho là khó khăn nặng nề hơn gấp bội việc sáng tác. Đó
là đi đòi tiền nhuận bút.
Nhuận
bút ! Nhuận bút ! Hai tiếng đó thực tình chưa bao giờ tôi nghĩ tới nó trong
suốt mấy năm khởi sự đi vào làng văn nghệ, nhưng sao Tết năm đó nó lại trở
thành những tiếng ám ảnh tôi mãi không nguôi.
Một
phần là vì những nhu cầu ùa đến trong mấy ngày tết. Một phần khác nữa là vì
lòng tự ái bỗng nhiên nổi dậy thôi thúc ầm ĩ. Không có lý do gì một tờ báo do
công lao của mình góp phần, khi bán ra là thu được tiền về mà mình lại không
được chia sẻ tí ti nào trong đó. Vả lại chẳng thà tất cả mọi bài đã đăng đều
chịu chung nhau một số phận. Đằng này tờ báo đã phân chia tác giả ra làm hai
loại, một loại phải trả tiền và một loại "viết chùa" muôn năm. Tôi
thì chưa phải loại muôn năm nhưng ít ra thì cũng đã hai năm rồi. Hai năm chăm chỉ
cộng tác, đều đặn, có lẽ còn hơn là người được giao phó trách nhiệm một cách
chính thức có trả lương. Mà bài của tôi cũng đâu có thua kém gì ai. Nó cũng
chiếm cả mấy trang báo. Nó cũng được họa sĩ minh họa tức có hình vẽ đi kèm. Nếu
có thua thì chỉ thua có mỗi cái khoản là tác giả của nó chưa hề được lãnh một
xu nhuận bút nào thôi.
Tự
ái của tôi cứ cái đà suy luận đó mà vùng dậy. Bạn bè lại thúc đẩy thêm vào
khiến tôi càng hùng dũng hơn lên. Vả lại cái gì mình muốn thì mình phải nói ra,
không nói ai biết mình "ngứa" đâu mà gãi ! Vấn đề giản dị có thế mà
từ bao lâu nay tôi cứ lúng túng mãi.
Nhưng
chuyện chính yếu là tôi sẽ phải nói ra thế nào cho có hiệu quả đây ? Quả thực,
tôi đã đưa ra không biết bao nhiêu là câu ướm thử, nhưng câu nào tôi cũng thấy
là chưa được trơn tru, ngon trớn:
-
Thưa ông chủ nhiệm, tôi đến xin tiền nhuận bút (Không được, nghe chữ xin có vẻ
mất tư cách văn nghệ sĩ quá).
-
Thưa ông chủ nhiệm, tôi đến đòi tiền nhuận bút (Ối chà, tiếng đòi nghe có vẻ
chối tai, không ổn).
-
Thưa ông chủ nhiệm, tôi đến lấy tiền nhuận bút (Lấy thì ổn đứt đi rồi, nhưng đã
tới lấy thì phải có hẹn trước. Đằng này tôi có được hẹn hò gì đâu. Vậy cũng là
không ổn nốt).
Sau
cùng tôi nghĩ ra được một câu nghe tạm được. Đó là :
-
Hì ..hì…Thưa ông thế còn cái vụ nhuận bút…
Tôi đã chọn câu này làm câu "tủ" để nhập đề. Còn sau đó đến đâu sẽ hạ hồi phân giải. Tôi tưởng tượng đủ hết mọi chi tiết trong cuộc gặp gỡ sắp xẩy ra. Trước hết là tôi sẽ tới tòa soạn vào buổi sáng. Không sớm quá để ông chủ nhiệm chưa dậy. Cũng không trễ quá để đụng phải đám đông đảo các văn nghệ sĩ đàn anh như Nhị Lang, Văn Bình, Kim Sinh… sẽ khó ăn nói.
Tôi đã chọn câu này làm câu "tủ" để nhập đề. Còn sau đó đến đâu sẽ hạ hồi phân giải. Tôi tưởng tượng đủ hết mọi chi tiết trong cuộc gặp gỡ sắp xẩy ra. Trước hết là tôi sẽ tới tòa soạn vào buổi sáng. Không sớm quá để ông chủ nhiệm chưa dậy. Cũng không trễ quá để đụng phải đám đông đảo các văn nghệ sĩ đàn anh như Nhị Lang, Văn Bình, Kim Sinh… sẽ khó ăn nói.
Đẹp
nhất là vào được lúc tòa soạn không có ai, trước bàn giấy chỉ có mỗi một mình
ông chủ nhiệm (ông cư ngụ ngay tại đây, vừa là nhà, vừa là tòa báo). Tôi sẽ hỏi
thăm ông trước. Rồi khen đến số Tết năm nay in đẹp, bài vở độc đáo, phong phú.
Và tôi sẽ tiếp :
-
Hì... hì… Thưa ông thế còn cái vụ nhuận bút…
Ối chà ! Tính toán công việc mà "suya" (sûr = chắc chắn) như thế thì kết quả không còn chệch đi đâu một ly ông cụ nào. Hẳn ông chủ nhiệm sẽ toe toét cười:
Ối chà ! Tính toán công việc mà "suya" (sûr = chắc chắn) như thế thì kết quả không còn chệch đi đâu một ly ông cụ nào. Hẳn ông chủ nhiệm sẽ toe toét cười:
-
A ! Nhuận bút của "toa" hả. Có chứ ! Đáng lẽ "moa" phải cho
vô phong bì đàng hoàng, nhưng thôi tiện đây cầm giùm "moa" vậy nhé…
Và
hẳn là ông sẽ móc bóp phơi lấy ra những tờ giấy bạc mới tinh đem xòe to như
đuôi công đang múa. Năm chục ? Một trăm ? Hai trăm ? Ồ, cái đó thì chịu không
thể đoán được. Nhưng dù bao nhiêu thì tôi cũng thấy ông ta là một bậc đàn anh
văn nghệ rất điệu nghệ và dĩ nhiên là vô cùng hào phóng.
Kịch
bản nói trên do tôi đạo diễn đã đem lại cho tôi biết bao hăm hở. Tôi đã thao
thức suốt đêm hôm trước, y như sự thao thức ngày nào năm xưa tôi sửa soạn đem
gửi cái truyện ngắn đầu tiên tới tòa báo Giang Sơn ở Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Lần này
tôi không tới Hồ Hoàn Kiếm nữa mà phải xuống tận hồ Halais, tức hồ Thuyền Cuông
hay còn gọi là Thuyền Quang cách nhà tôi ở khá xa.
Tuần
báo Cải Tạo nằm ở giữa phố Mongrand (sau đổi tên là Nguyễn Thượng Hiền), cách
bờ hồ Thuyền Quang cũng vài ba trăm thước. Hôm ấy tôi bận một cái quần soóc
bằng vải kaki, chiếc áo sơ mi trắng sọc xanh bỏ vào thắt lưng đàng hoàng chứ
không lè phè phủ ra ngoài như mọi khi. Chỉ còn thiếu đôi giầy tây đi lộp cộp
nữa là tôi ra vẻ một công tử con quan, nhà giầu.
Nhưng
cho đến năm đó, dù lớn rồi tôi vẫn không nghĩ đến chuyện xin nhà mua cho đôi
giầy tây. Đi giầy tây nom trịnh trọng quá. Tôi lại không ưa cái tiếng lộp cộp
váng cả hè phố như mời gọi tất cả bàn dân thiên hạ chú ý tới mình. Thế cho nên
tứ thời tôi chỉ kéo một đôi dép da của phụ nữ, mà hình như đã lỗi thời nên bà
chị của tôi liệt vào đồ phế thải. Thấy còn tốt chán nên tôi "thầu"
lại để đi một cách ngon lành.
Tôi cũng còn một đôi giầy bata nữa, nhưng chỉ để dành khi đi họp Hướng Đạo vào mỗi sáng chủ nhật. Chẳng phải tôi tiết kiệm gì, nhưng đi giầy bata thường phải kèm theo đôi vớ. Mà vớ thì tôi chỉ có mỗi một đôi. Mỗi lần đi họp, tôi thúc chân vào, khi trở về tháo ra, nhét đại vào trong giầy chờ tuần sau mới lấy ra xài nữa. Có lẽ kể từ ngày mua vớ đến giờ, đã gần 9 tháng, tôi chưa đem giặt nó lần nào. Ngó phần trên thì rất tươm, nhưng ở hai bàn chân thì nó đóng keo lại, cứng như hồ bột (càng cứng càng sinh ra ngại đem giặt). Đi vớ kiểu đó thì chẳng mấy hồi những ngón chân sẽ xuyên qua vớ mà bục ra ngoài, nhất là hai ngón chân cái.
Tôi cũng còn một đôi giầy bata nữa, nhưng chỉ để dành khi đi họp Hướng Đạo vào mỗi sáng chủ nhật. Chẳng phải tôi tiết kiệm gì, nhưng đi giầy bata thường phải kèm theo đôi vớ. Mà vớ thì tôi chỉ có mỗi một đôi. Mỗi lần đi họp, tôi thúc chân vào, khi trở về tháo ra, nhét đại vào trong giầy chờ tuần sau mới lấy ra xài nữa. Có lẽ kể từ ngày mua vớ đến giờ, đã gần 9 tháng, tôi chưa đem giặt nó lần nào. Ngó phần trên thì rất tươm, nhưng ở hai bàn chân thì nó đóng keo lại, cứng như hồ bột (càng cứng càng sinh ra ngại đem giặt). Đi vớ kiểu đó thì chẳng mấy hồi những ngón chân sẽ xuyên qua vớ mà bục ra ngoài, nhất là hai ngón chân cái.
Có
một đôi vớ quý hóa như rứa, không đời nào tôi dám chiềng ra ở giá để giầy, bởi
nếu bị khám phá ra thì tôi sẽ bị chị tôi la rầy, ngay đến cả chuyện sẽ đem mách
với Ba tôi. Cho nên mỗi lần đi họp về là tôi đùn nó sâu tuốt vô tận mé trong
gậm giường, để khi nào cần đến thì lấy cây gậy khều ra. Ôi ! Cái thời niên
thiếu nhởn nhơ ấy sao mà sướng thế !
Trong
những tòa soạn của các báo ở Hà Nội hồi đó mà tôi được biết thì tòa soạn báo
Cải Tạo nom có vẻ bề thế nhất. Nó nằm trong một khu yên tĩnh của thành phố với
con đường hai bên có những hàng cây cao phủ đầy bóng mát. Căn nhà kiến trúc
theo kiểu Tây, có cổng vào rộng rãi, có tường chung quanh cẩn đá, cả tầng dưới
chỉ là nhà phụ thuộc như hầm rượu, bể nước… Hẳn là thứ kiến trúc mà trước đây
chắc người Pháp ở nên mới có.
Khách
khứa tới thăm phải bước lên một cầu thang bề thế, xây bằng gạch, lối lên có bầy
chậu cảnh đang nở hoa. Lên hết các bậc gạch thì khách đặt chân vào một khoảnh
có lát đá hoa khá rộng, có lan can nhìn xuống đường phố, trên thành lan can cũng
xếp đặt những giò hoa đựng trong những chậu sứ tráng men nom rất sang trọng,
quý phái.
Tới
đây, khách sẽ đối diện với một cánh cửa bằng kính rất lớn mà khi bước vào sẽ
gặp ngay một căn phòng rộng mông mênh. Đấy là tòa soạn, có một cái bàn dài chắc
là để hội họp nhiều người. Bàn giấy của ông chủ nhiệm kê tuốt ở phía cuối
phòng. Trên mặt bàn, ngoài những đống hồ sơ cao nghệu tôi còn thấy cả chồng báo
Xuân vừa in xong, chắc là đang chờ phân phối cho nhân viên tòa soạn.
Tôi
hơi tiếc là mình đã tới quá sớm vì lúc này căn phòng vắng ngắt chẳng có ai, kể
cả nhân vật chính duy nhất mà tôi cần gặp. Nhưng dẫu sao, tới sớm có phải ngồi
chờ lâu lắc thì cũng còn hơn là phải trực diện với mấy ông nhà văn, nhà báo vốn
đã từng lui tới nơi này hằng ngày như cơm bữa.
Chị
người làm sau khi bảo tôi hãy ngồi chờ rồi rút êm vào hậu trường để mặc tôi
ngồi lại với cảm giác rụt rè, bỡ ngỡ giữa căn phòng rộng thênh thang, gây gây
lạnh. Tôi chợt nhận ra rằng thực tế đã đi ra ngoài mọi điều mà tôi đã từng dự
liệu. Câu nói làm như bất chợt : "À… thế còn cái vụ nhuận bút…" xem
chừng khó áp dụng ở đây. Vì trước đó phải diễn ra một cuộc chuyện trò rôm rả.
Sau khi rôm rả rồi thì mới…"À"… được chứ ? Còn bây giờ, tôi đã phải
ngồi chờ ở đây. Chờ đợi tức là cố tình mong gặp. Vậy khi gặp rồi thì biết nói
cái gì trước đây ? Ôi chà, nếu lại vồn vã "Thưa ông chủ nhiệm, ông có mạnh
khỏe không ? " thì nghe vô lý quá !
Thế
là đầu óc của tôi lại phải vận dụng để tìm ra một câu chuyện làm quà nào đó
nghe cho xuông xẻ. Nhưng khổ nỗi giữa ông và tôi chẳng có đôi chút giao tế nào
trước đó. Kể từ ngày có bài đăng trên tờ Cải Tạo, tôi chưa bao giờ nói chuyện
với ông một câu. Tôi đến tòa soạn, bỏ bài vô thùng thư đặt ở dưới lầu rồi lẳng
lặng ra về. Một đôi lần gặp ông Văn Bình, trò chuyện vài câu hay cũng có khi
ông kéo tôi lên lầu nhưng ở đó vốn đang đông người ồn ào quá nên tôi chỉ là một
cái bóng mờ, một tay mơ loắt choắt đeo dính lấy cái bóng dáng cao lênh khênh
của ông.
Rồi
thời gian trôi qua được chừng hơn 15 phút thì ông chủ nhiệm xuất hiện ở cánh
cửa thông với phòng bên trong. Trái hẳn với điều mà tôi vẫn lo lắng là sợ ông
ta không biết tôi là ai, đến làm gì, nhưng ông đã vồn vã khiến tôi vừa ngạc
nhiên, vừa cảm kích :
-
A ! Nhật Tiến hả ? Vào đây… vào đây…
Tôi
líu ríu đi băng qua bề dọc của căn phòng, vốn đã dài mà tôi lại có cảm giác như
nó dài hơn ra. Khi đối diện với ông, ông xòe ngay bàn tay ra theo thói quen để
bắt tay.
Ô,
cái vụ "bắt tay" này hoàn toàn bất ngờ đối với tôi vì tôi chưa bao
giờ quen thuộc với cái lề lối xã giao của người lớn này. Bọn trẻ khi gặp nhau
thì chỉ là vỗ vai, huých khuỷu, hay thậm chí còn đá nhẹ vào nhau nữa kìa. Vì
thế tôi đâm ra lúng túng và cảm thấy ân hận rằng mình đã để bàn tay của ông giơ
ra ngỡ ngàng mất đến vài giây. Rồi tôi lại hấp tấp sửa sai ngay bằng cách giơ
cả hai bàn tay ra chộp vội lấy bàn tay của ông lắc đấy lắc để. Và mặc dù lúng
túng thế nào, tôi vẫn nẩy ra một nhận xét là bàn tay người lớn mang vẻ khô khan
và sần sùi. Cảm giác khô khan sần sùi ấy như còn đeo dính ở lòng bàn tay của
tôi, ngay cả lúc ông đã buông ra và chỉ lên mặt bàn ngổn ngang những tờ báo mới
:
-
Bài của cậu khá lắm… mấy người khen rồi… Ờ, bài gì ấy nhỉ ?
Tôi
nhắc :
-
Dạ… vở kịch vui !
-
A ! Phải rồi. Cậu có khiếu lắm về kịch vui đấy nhé. Ráng lên !
Tôi
sướng phổng cả mũi, miệng quíu lại, định mở lời cám ơn về sự khen tặng của ông
mà không kiếm ra được lời, vì vậy tôi chỉ biết diễn tả bằng mắt. Tôi nhìn ông
bằng ánh mắt hoan hỉ, biết ơn và dĩ nhiên đầy cảm tình. Ông lại nói :
-
Báo mới đấy. Cậu lấy đi mấy tờ đem về biếu bạn bè…
Vừa
nói ông vừa rút ở chồng báo ra… hai tờ dúi vào tay tôi.
Ối
chà ! Tôi đã chắc mẩm ở nhà là ít ra thì tôi cũng có được 5 số báo biếu. Năm số
này tôi đã chia phần rõ ràng: Tôi giữ riêng một số, tặng chị tôi và anh Trường
Giang mỗi người một số, phòng khách trong nhà để một số trưng bầy mấy ngày
Xuân, còn một số tôi sẽ xịt nước hoa, đem gói giấy dầu gửi tặng một người quen.
Bây giờ số lượng đó rút xuống chỉ còn có hai theo sự diễn dịch tiếng
"mấy" của ông. Thành ra bao nhiêu tình cảm nồng hậu vừa mới dâng tràn
thốt nhiên nguội băng đi và sự bực tức bắt đầu nhen nhúm trong tôi.
Tôi
không còn nghĩ gì đến vụ nhuận bút nữa mà chỉ tranh thủ với chính mình là có
nên cầm hai số báo mỏng teo hay là trả lại luôn cho ông ta. Sự suy tính này làm
cho phản ứng của tôi bị chậm chạp đi (và sau này, rất nhiều lần khác tôi cũng
vẫn bị cái phản ứng chậm chạp này gây ra cho tôi những chuyện áy náy hay bực
mình). Hai tờ báo đã dúi vào tay tôi. Tôi đã cầm lấy như một cái máy vô tri
cùng với những ý nghĩ đảo lộn lung tung trong đầu. Ngay khi đó, ông chủ nhiệm
vẫn với giọng thân mật, ròn rã nói với tôi:
-
Thôi ô-voa nhé. Hôm nay moa bận quá… Lo tờ báo Xuân, còn bao nhiêu là việc…
Thế
là ông lại giơ tay ra để bắt tay tôi. Tay tôi bận cầm hai tờ báo vả nếu không
bận bịu về công việc đó thì tôi cũng chẳng giơ ra. Lần này ông chộp lấy bàn tay
kia của tôi rồi lắc lắc (vậy là huề). Sau đó ông khoác vai đưa tôi đi ngược trở
lại căn phòng mà tôi vừa đi qua trước đấy không đầy 5 phút.
Tôi bước xuống cầu thang xây bằng gạch với tất cả sự chua cay của kẻ chiến bại. Bao nhiêu dự tính, bao nhiêu lời cổ vũ thúc giục của bạn bè về cái vụ nhuận bút đã tan đi như bong bóng xà phòng trong một khoảnh khắc.
Tôi bước xuống cầu thang xây bằng gạch với tất cả sự chua cay của kẻ chiến bại. Bao nhiêu dự tính, bao nhiêu lời cổ vũ thúc giục của bạn bè về cái vụ nhuận bút đã tan đi như bong bóng xà phòng trong một khoảnh khắc.
Tôi
kẹp hai tờ bào vào nách và đi lủi thủi về phía bờ hồ Thuyền Quang. Gió trên hồ
ùa đến, dù rất lạnh nhưng lại gây cho tôi cảm giác mát mẻ. Chứng đó tôi mới
khám phá ra rằng chỉ trong mấy phút ngắn ngủi tiếp xúc vừa qua, mồ hôi của tôi
đã mướt ra ướt đẫm cả lưng áo.
Tôi ngồi xuống một ghế đá ở ven hồ. Tôi nghĩ đến cái tỷ lệ 2/5 về những số báo tôi cần có. Cơn bực tức lại ùa lên làm tôi toan ném luôn 2 số báo xuống mặt hồ. Nhưng suy đi tính lại, hành động đó thật phi lý. Phải chi tôi làm công việc ấy ngay từ lúc còn ở tòa báo. Chứ bây giờ đem vứt xuống hồ thì chỉ có cái ghế xi măng nó biết mà thôi. Thế là phí phạm, thế là quân tử Tầu, là anh hùng rơm. Không chấp nhận được.
Tôi ngồi xuống một ghế đá ở ven hồ. Tôi nghĩ đến cái tỷ lệ 2/5 về những số báo tôi cần có. Cơn bực tức lại ùa lên làm tôi toan ném luôn 2 số báo xuống mặt hồ. Nhưng suy đi tính lại, hành động đó thật phi lý. Phải chi tôi làm công việc ấy ngay từ lúc còn ở tòa báo. Chứ bây giờ đem vứt xuống hồ thì chỉ có cái ghế xi măng nó biết mà thôi. Thế là phí phạm, thế là quân tử Tầu, là anh hùng rơm. Không chấp nhận được.
Tôi
bình tĩnh trở lại và thư thả ngồi mở rộng tờ báo ra, ngắm nghía lại công trình
sáng tác của mọi người trong đó. Tờ báo với đầy vẻ quyến rũ đã hiện ra với mùi
giấy thơm, mầu mực mới, những nét chữ tươi tắn, những bức họa tài hoa, tất cả
đều như cùng toát ra một vẻ mê hoặc, đầy quyến rũ của một thế giới mà bao nhiêu
ngày tháng qua tôi đã khổ công tìm cách đặt chân vào. Đó là thế giới của văn
nghệ, của báo chí, của những tấm lòng dào dạt tình cảm và những khối óc đầy
sáng tạo. Dẫu giận dỗi cách nào thì tôi cũng không thể vì một chuyện cỏn con,
nhỏ mọn vừa qua để mà rũ bỏ hết đi một cách phũ phàng.
Tôi
mở trang báo có in bài của tôi. Tôi đọc lại từng dòng, đọc một cách thoải mái,
tự do chứ không phải theo cái kiểu he hé coi cọp ở sạp bán báo mà người bán cứ
đuổi quầy quậy. Tôi sung sướng thấy tên của mình ở đó. Cái tên ấy nằm một cách
trịnh trọng, trang nhã và dĩ nhiên hẳn là mang một ý nghĩa vinh dự, niềm vinh
dự của một nhà… nghệ sĩ có tài sáng tác và tác phẩm của hắn ta được đăng trên trang
báo để gửi tới độc giả bốn phương.
Niềm
vui xen lẫn sự hân hoan hãnh diện bỗng xua tan đi mọi nỗi bực dọc vừa qua. Tôi
không thấy còn lý do nào có đủ vững chắc để khiến cho tôi bẻ bút, quăng báo
xuống hồ, không chơi với văn nghệ nữa. Văn nghệ vẫn là lẽ sống của tôi. Văn
nghệ vẫn là niềm vui của tôi. Văn nghệ vẫn là nhu cầu, là lý tưởng mà tôi sẽ
còn phải theo đuổi.
Tôi
nhìn ra mặt hồ. Mặt nước trong xanh chứa cả một bầu trời có nhiều mây xám ảm
đạm. Gió thoảng nhẹ từ xa thổi vào mang theo cái giá lạnh của một ngày cuối
đông đang bắt đầu hừng nắng. Tôi bỗng chợt thấy lòng dâng lên những cảm hứng
dạt dào. Tôi nẩy ra được một đề tài mới hay ho cho một sáng tác mới. Tôi nghĩ
ngay tới ánh đèn vàng úa của ngọn đèn chong suốt đêm khuya chỉ có một mình tôi
cặm cụi với trang giấy trắng muốt.
Tôi
sẽ viết…viết hoài…viết mãi…
Sài
Gòn ngày 18-5-1973