Thứ Sáu, 19 tháng 8, 2016

CHƯƠNG III, IV_THẰNG BÉ THỢ RÈN


CHƯƠNG III

Vó ngựa sắt và những cái cùm...


Làng Khê đột nhiên bừng tỉnh giấc vào lúc nửa đêm. Vó ngựa sắt rồn rập bao vây quanh làng. Ngựa Mông Cổ hí vang cả một khu đồng. Ánh đuốc cùng một lúc dậy lên sáng rực một góc trời. Trẻ con sợ hãi khóc thét. Chó sủa ran trong các ngõ tre.

Từ các ngách, các đường con, từng bọn quân Nguyên, đuôi sam vắt vẻo trên lưng, hay trước ngực, giơ cao ngọn đuốc tiến vào làng.

Mã tấu của chúng giơ lên, phản chiến vào ánh đuốc lấp loáng như có toát ra những luồng hơi lạnh thấu đến xương thịt. Những mảnh thép mỏng tanh, sắc như nước ấy cứ mỗi bước chúng đi mạnh, lại rung lên những tiếng xoang xoảng.

Quân Nguyên ập vào từng nhà lục soát, nhất là những nhà có lò rèn. Nhiều nhà cất giấu không kịp, để lộ ra những chứng cớ có rèn binh khí đều bị chúng cùm ngay tay lại, sắp thành hàng ngoài đường.

Bà Bản lo sợ cuống cuồng, hết chạy ra lại chạy vào, thằng Ân lanh lẹn giúp bố khuân được ít gươm, giáo mới rèn xong, liệng cả xuống ao vừa kịp trước khi bọn giặc đến.

Ngồi trong nhà, Ân nghe rõ những tiếng đấm đá, tiếng kêu thét, tiếng hực lên của những người hàng xóm bị đánh, cùng những tiếng chửi rủa líu lo của bọn giặc.

Già Bản thở dài thườn thượt, lẩm bẩm:

- Lại không giấu kịp rồi! Rõ khổ!

Có tiếng chân nhiều người nện thình thịch bên ngoài, vỏ gươm, mã tấu va chạm vào nhau lách cách, loảng xoảng rồi dừng lại trước cửa nhà Già Bản.

Thằng Ân thốt thấy lạnh gáy.

Chúng nói líu lo một hồi rồi đạp tung cửa liếp kéo nhau bước sộc vào trong nhà.

Một tên có lẽ là tướng, ăn mặc khác hẳn những người khác, mũ có mũi thép nhọn đính một chùm lông trắng phau như tuyết chùm kín đến cổ, mặt mũi cực kỳ hung tợn cất tiếng oang oang như lệnh vỡ:

- Lão già kia, nhà mầy rèn binh khí cho giặc phải không?

Giọng của nó chọ chẹ không được rõ lắm.

Già Bản ngồi nguyên trên giường, cứng cỏi hỏi lại:

- Giặc nào? Chúng tôi làm ăn, không biết giặc nào cả!

Một tên nhỏ nhắn cũng ăn mặc như những tên khác, nhưng điệu bộ có vẻ còn ngượng nghịu, ghé vào tai tên tướng nói nhỏ.

Tướng Nguyên nhìn chằm chằm vào Già Bản khe khẽ gật đầu.

Già Bản nhớ mang máng như có gặp tên trẻ tuổi đó ở đâu rồi vậy.

Một tên giặc khác trẻ tuổi hơn, vóc người lực lưỡng, mặt đỏ nhừ, hơi men sặc sụa, gạt tên kia sang một bên. Nó tiến lên, vung chân đá vào tay Già Bản, làm cái điếu cày văng sang một bên, nước điếu thuốc đổ ra lênh láng trên mặt đất:

- Mày còn vờ gì nữa! Bọn giặc nhà Trần chứ còn giặc nào! Có rèn binh khí hay không thì bảo!

Già Bản đau nhói một bên tay, nhưng cố nín chịu:

- Vua chúng tôi mà các ông bảo là giặc thì không biết vua các ông có phải là giặc không?

Thấy Già Bản ăn nói cứng cáp, dáng mặt không chút sợ hãi, tên tướng Nguyên nãy giờ vẫn thì thầm với người trẻ tuổi, vội tiến lại đấu dịu:

- Ừ, không làm binh khí thì tốt! Này chú làm hộ ta ít cái cùm bằng sắt như cái cùm này rồi ta sẽ thả con chú về cho.

Nói xong nó cười gằn rất nham hiểm, vứt xuống đất một cái cùm có mấy vòng xích va vào nhau loảng xoảng.

Già Bản thấy nhắc đến con mình, vội ngửng lên nhìn tên giặc.

Nó gật đầu cười dụ dỗ:

- Ừ, làm đi ta thả nó về cho, trên đấy tên nó là “Tắc” (1) phải không ?

Mắt Già Bản vụt sáng lên. Già cúi xuống nhìn cái cùm nằm chênh vênh lạnh lẽo trước mắt. Môi Già mím chặt lại. Đường gân xanh trên thái dương già, nổi hẳn lên như chiếc đũa trước một con toán gay go. Bọn giặc Nguyên thản nhiên chờ đợi.

Già Bản bỗng ngửng đầu lên, lắc đầu quả quyết:

- Làm cùm để xích tay đồng bào chúng tôi đấy à? Tôi không làm! Mà từ nhỏ đến giờ, tôi cũng chưa từng làm cái này bao giờ. Các ông đưa chỗ khác!

Tên giặc trẻ say rượu tức giận, mặt tái đi, mắt long lên sòng sọc. Nó tiến lại gần Già Bản, nắm vai Già kéo dậy, nhìn vào tận mặt Già, gằn từng tiếng:

- Có thật mi không làm ư ?

Già Bản nghiến răng lại, cũng nhìn thẳng vào mặt nó cứng cỏi đáp:

- Tôi không làm!

- Hự! Hự! Không làm này!

Hai quả đấm nặng chình chịch gieo vào ngực Già Bản như hai nhát búa…

Già hoa mắt, ngã gục xuống đất. Miệng Già bật ra một đống máu tươi đỏ lòm lênh láng trên mặt đe.

Bà Bản cũng hoa mắt, ngã gục xuống sau bồ than, ngất đi.

Thằng Ân nằm trong gầm giường tối, nấp sau những bồ đựng sắt được chứng kiến tấn thảm kịch, suốt từ đầu tới cuối.

Khi thấy Già Bản bị đánh gục xuống, nó đau đớn suýt thốt lên tiếng kêu, và đã toan chạy ra ôm lấy bố.

Nghe tiếng động, một tên giặc thò thanh mã tấu vào gầm giường khua lên. Ánh thép xanh biếc lấp loáng trong bóng tối hắt lên mặt thằng Ân một luồng gió lạnh toát.

Tên giặc vừa bẩy mấy cái bồ ra, vừa nói:

- Còn một thằng bé con! Hình như nó trốn trong này!

Một tên giặc khác đứng ngoài hùn vào:

- Ừ nhỉ! Quên mất thằng bé! Có thấy cho nó một nhát cho xong chuyện!

Thằng Ân thấy nguy, lanh trí giả làm tiếng mèo. Nó khẽ chụm môi kêu mấy tiếng : "Miaooou... miao... ou..." thật giống.

Bọn giặc cười ồ. Tên giặc phủi áo đứng dậy, cắp mã tấu vào nách. Chúng kéo nhau ra cửa.

Tiếng chân nặng chịch của chúng khuất dần về phía cuối thôn...

-------------------------
(1) Tắc là Đức, đọc theo âm Tàu.


CHƯƠNG IV

Tên Mã Phu mới tuyển...


Trại quân Nguyên đóng ở phía nam, phố Phủ Bình Lộc. Nhà cửa trong Phủ đã bị chúng thiêu hủy hết sạch, nay chỉ còn trơ lại những khung nhà cháy xạm, gẫy rập xuống đống than đỏ.

Dân phố Phủ phần bị giết tróc, phần bị bắt theo làm phu tráng phục dịch trong doanh trại giặc, còn già trẻ lớn bé bồng bế nhau tản mác hết vào nương náu trong các làng mạc lân cận.

Trên một bãi đất trống rộng non sáu mẫu, giặc dùng đóng trại, nhà cửa đã cất lên như bát úp. Tre lá chúng đều đi cướp ở các làng chung quanh. Kiểu nhà thì thật đặc biệt, trông giống như những cái lồng chim gáy: lá cọ và rạ phủ kín từ nóc xuống đất, chỉ trừ có cái cửa ra vào.Có lẽ bên xứ sở chúng rét và nhiều tuyết, cũng như những miền băng tuyết chúng đã đến chinh phục, nên chúng mới có cái lối dựng nhà kín đáo như vậy. Mái và tường liền hẳn với nhau. Trên nóc mỗi căn trại đều có một cây tre cật vót nhọn, mũi nhô hàng thước trên nền trời và thân cắm sâu suốt xuống đất dùng làm cột cái.

Dưới ngọn tre vót nhọn có một nắm lá thông trông xa như cái ngù của ngọn giáo. Hình như đã có một khuôn khổ nhất định, căn trại nào cũng lớn bằng nhau ăm ắp. Duy có căn trại của tên chủ tướng là rộng rãi hơn cả và trên nóc có thêm một lá cờ vàng, mỗi khi gặp gió bay lên phần phật trông rõ hai chữ “Đại Nguyên” thêu bằng chỉ đen đã bạc phếch.

Trời hôm ấy rét thậm, gió cuốn từng cơn, quật vào mái rạ ào ào.

Giặc Nguyên ngại rét còn nằm kín cả trong trại. Chúng nằm ngả nghiêng quây quanh những bàn đèn thuốc phiện thay phiên nhau hút không dứt.

Trừ có những tên đến phiên phải đi đánh phá, cướp bóc lương thực ở những làng xa là phải lên ngựa đi từ sáng sớm tinh sương.

Mỗi lần đoàn giặc lên ngựa đi trận như vậy chỉ có bọn mã phu là khổ cực nhất. Mặc dầu trời rét như kim châm vào da thịt chúng cũng phải trở dậy từ canh hai cho đàn ngựa đi trận ăn uống no đủ.

Tuy không phải đóng ngựa, vì giặc Nguyên cưỡi ngựa không cần đến yên cương, nhưng nếu vô ý để ngựa ăn thiếu, hoặc no quá, để những tên giặc đi trận rờ nắn bụng ngựa thấy, là cũng đủ bị nhừ đòn: mấy cái đá hoặc dăm quả thôi sơn không biết chừng!

Bọn mã phu hầu hết là người Nguyên gốc Mông Cổ. Đấy là những tên kỵ mã cực kỳ thiện chiến trên lưng ngựa hồi xưa, nay đã già không còn sức đi trận nữa, nên được đặc cách chăm nom những con chiến mã. Giống ngựa Mông Cổ rất quý, nhưng cũng rất khó chăm nom.

Săn sóc cái ăn, thức uống, tắm rửa cho chúng là cả một công trình. Ngày chúng đi trăm dặm như không nhưng có thể vì thiếu ăn, hoặc ăn no quá mà sinh bệnh và có khi lăn ra chết bất thần.

Nếu không phải là những người suốt đời sống trên lưng ngựa như bọn mã phu kia, tất không thể săn sóc nổi. Giặc Nguyên quý ngựa cũng như quý tính mạng của chúng vậy. Cho nên chúng đã ra nghiêm lệnh cấm ngặt những người An Nam bị chúng bắt, không ai được bén mảng đến những tầu ngựa ấy.

Thế mà trong bọn mã phu già, mấy hôm nay lại có thêm một tên mã phu trẻ tuổi. Nhìn nét mặt nó người ta ước được nó vào độ 15, 16 tuổi. Người nó gầy và đen, nhỏ nhắn như đứa trẻ 13. Nó được bộ quần áo Tàu, mặc vào rộng thùng thình. Đầu nó cũng đội cái mũ có lông thú đã cũ, chụp xuống gần ngang mí mắt và che kín cả hai tai.

Đôi mắt nó luôn luôn long lanh sáng quắc, ẩn sau những lớp lông thú lả tả phủ xuống gần kín mặt nó.

Nó nhanh nhẹn và rất được việc nên bọn mã phu xem ý cũng hài lòng có được một đứa giúp việc như nó. Sáng nào nó cũng dậy sớm để sửa soạn sẵn sàng những thúng ngô, thúng thóc, hay những bao cỏ cho ngựa. Tên mã phu nào muốn hút điếu thuốc, uống hớp nước, còn ngại rét chưa buồn rút chân ra khỏi chăn, nó đã vui vẻ đón ý chạy lại lấy giúp. Hôm mới nhận nó vào làm, thấy nó khai cha mẹ chết hết, bơ vơ không người thân thích, bọn mã phu cũng bán tín, bán nghi.

Nhưng chỉ sau vài ngày, nó đã chiếm được lòng tin của cả mọi người. Tên mã phu trưởng cũng đã không ngần ngại đưa nó vào trình với chủ tướng. Trong những lúc rỗi rãi công việc, thằng bé lại còn được một tên mã phu già chỉ bảo cho những nết hay, tật xấu của giống ngựa Mông Cổ. Thành ra mới có ít ngày nó đã thuộc tên từng con ngựa một, và biết cả con ngựa nào của chủ tướng, con nào của phó tướng, và những con nào của những tên giặc khác.

Thằng bé hình như ham thích nghề chăn ngựa lắm, vì nó hết sức chăm chú nghe mỗi khi tên mã phu già kia giảng giải cách nuôi ngựa, và có khi cao hứng, cả cách luyện ngựa nữa.

Thằng bé chỉ còn mong có hôm nào được đặt mình lên những con chiến mã ấy phi một vài vòng quanh trại. Tên mã phu già đã hứa hẹn với nó.

Nhờ một đôi khi được phép vào quét dọn trong doanh trại riêng của chủ tướng, thằng bé cũng đã có nhiều tín nhiệm. Nó quen gần hết và cũng đã đi lại dễ dàng khắp trại. Duy chỉ có căn trại giam những người trọng phạm là nó chưa bén mảng đến được.

Điều đó đã làm cho nó không được hài lòng. Tên giặc râu quai nón giữ trại ấy rất nghiêm. Nó không hề cười với thằng bé chăn ngựa lấy một lần, mặc dầu thằng bé đã nhiều lần mon men đến làm quen.

Một lần nó bị tên giặc kia cau mặt xua đi, từ đấy nó không hề lại gần khu trại giam ấy nữa.

Sáng nay vẻ mặt thằng bé chăn ngựa bỗng đờ đẫn không vui như mọi ngày. Nó uể oải mang nước cho ngựa uống, rồi ngồi bệt xuống bao cỏ nghĩ ngợi. Nhưng thấy tên giặc nào đi ngang qua mặt, nó cũng vờ nhoẻn một nụ cười, hoặc làm ra vẻ mặt tươi tỉnh như không.

Vào khoảng giờ Thìn, bỗng có tiếng thanh la nổi lên một hồi dài dõng dạc, ngay từ phía doanh trại của chủ tướng.

Hết thẩy bọn giặc trong trại đều vội vàng kéo nhau từ trong những cái lồng chui ra. Chúng xốc lại xống áo và khoác cả mã tấu lên lưng, như sắp đi trận vậy.

Chỉ trong giây lát, chúng đã tề tựu đông đủ, sắp thành hình cánh cung trước đại bản doanh của tên tướng giặc.

Uy nghi trong bộ chiến bào dát sắt lấp lánh như những vẩy tê tê, tên chủ tướng ngồi trên một chiếc ghế vải rộng, miệng ngậm cái tẩu “thuốc bào” dài gần sát mặt đất. Khói thuốc tỏa ra trước mặt y nghi ngút từng luồng. Y khẽ đưa mắt ra lệnh. Một hồi tù và rúc lên, ghê rợn như tiếng cú kêu đêm. Từ phía trại giam, tên giặc râu quai nón dắt một tù nhân tiến lại. Đến trước mặt chủ tướng, tên giặc dúi mạnh người tù quỳ xuống. Có lẽ vì quá yếu sức, người tù ngã sấp mặt xuống đất. Gã lúi húi bò dậy và ngồi xếp khoanh trên mặt đất. Nếu có ai chú ý tất sẽ thấy sắc mặt thằng bé chăn ngựa biến hẳn đi. Nó núp sau mấy tên mã phu ghé mắt nhìn chằm chằm vào tên tù. Một tên giặc chạy đến, cúi đầu trước mặt tên chủ tướng đợi lệnh.

Tên tướng giặc lẩm bẩm nói một hồi, giọng oai vệ. Tên giặc nọ quay ra, đứng trước tên tù gằn giọng:

- Tắc (1). Mày chịu khai đã liên lạc rèn binh khí với những lò rèn nào, đem binh khí đi lối nào, và giao cho ai, chủ tướng sẽ tha cho. Nếu không mày bị chém đầu.

Tên tù, chính là Cả Đức, con trai Già Bản, anh ruột thằng Ân da mặt xanh nhợt như tầu lá chuối non, khẽ ngẩng đầu lên.

Nếu không có đôi mắt sáng quắc của gã còn đọng nhiều sinh khí, thì người ta có thể tưởng rằng y chỉ còn là một thây ma.

Cả Đức hổn hển, nhọc mệt lắm mới trả lời được một câu ngắn ngủi nhưng đầy vẻ quả quyết.

- Tôi không khai!

Tên tướng già nhích đôi môi xám xịt mỉm một nụ cười nham hiểm rồi đưa mắt ra hiệu cho một tên giặc đứng cạnh.

Lập tức một lò than hồng đã đốt sẵn được mang ra đặt trước mặt Cả Đức. Thằng bé chăn ngựa mím chặt môi lại khi nó trông thấy hai cái kìm vùi trong lớp than hồng.

Những tên giặc đứng vòng quanh hắn biết cái trò chơi ấy nên coi bộ lao xao thú vị lắm.

Cả Đức nhắm mắt lại và ngảnh đầu sang một bên để khỏi nhìn những hình cụ tra tấn kinh tởm trước mặt.

Được cái lệnh gật đầu của tên chủ tướng, tên giặc vạm vỡ có lẽ được đặc cách dùng vào các cuộc tra tấn, chạy lại rỡ mấy cái kìm lên. Cả hai cái kìm đều đã hung hung đỏ hồng. Nó cầm lấy một cái từ từ tiến lại phía Cả Đức. Vòng người im phắc, chăm chú nhìn vào bàn tay cầm kìm của tên giặc. Có lẽ không ai chú ý đến thằng bé chăn ngựa. Nó nhắm nghiền đôi mắt lại để mặc hai giòng lệ tuôn ràn rụa trên gò má. Chiếc kìm đưa vào phía đùi non Cả Đức rồi nhanh như chớp cặp lấy một miếng thịt đùi. Cả Đức kêu thét lên một tiếng ngã ngửa người ra dẫy lên đành đạch. Mặc! Chiếc kìm cứ bám chặt lấy miếng đùi, mùi thịt cháy xông lên khét lẹt.

Bọn giặc cười rộ lên một hồi tán thưởng, tên giặc vòng tay đứng cạnh chủ tướng nói lớn:

- Hôm nay hãy cho nó một miếng! Ngày mai nếu nó không chịu khai sẽ cho thêm hai miếng, kỳ đến bao giờ nó chịu khai thì thôi!

Trong khi mấy tên giặc đi lấy nước vỗ vào mặt cho Cả Đức tỉnh lại, thằng bé chăn ngựa đã biến đâu mất…

--------------------------- 
(1) Tắc : Đức, tức Cả Đức, anh cả của Ân

______________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG V, VI
oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>