CHƯƠNG
V
Cuộc
đời nhiều khi có những cái bất ngờ khó ai có thể đoán trước. Trải bẩy, tám cái
truyện ngắn được đăng rải rác trên một vài tờ báo ở Thủ Đô như Giang Sơn, Chánh
Đạo, Liên Hiệp, Hồ Gươm, Thời Tập… tôi những tưởng mình sẽ theo hoài con đường
sáng tác tiểu thuyết. Nhưng với sự lựa chọn này tôi đã bị Tắc chê bai vô số kể.
Hắn
nói là tôi dại, tôi quân tử Tầu, tôi không nắm vững bản lĩnh cần thiết để chen
chân thường xuyên vào trường văn, trận bút. Bởi nhân số trong vườn hoa văn nghệ
thì đông đảo, thiên hạ có biết bao nhiêu người muốn nhào vô các trang báo, cho
nên sáng tác gửi đi vài ba cái có khi mới "dính" một cái, còn kỳ dư
bao nhiêu công lao ngày đêm cặm cụi đều bị chui vào sọt rác của tòa soạn các
báo hết. Vì thế Tắc khuyên tôi viết được thì cứ viết lia. Làm Thơ, viết Văn,
soạn Kịch, nếu có gan thì viết cả Phê bình, Sưu khảo nữa. Bản thảo bay về tới
tấp các tòa báo, bị loại bài này đã có bài khác thay thế. Trăm bó đuốc tất phải
vớ được con ếch. Tên tuổi của mình sẽ xuất hiện thường xuyên trên trang báo,
"nổi tiếng mấy hồi" ! Đó là châm ngôn làm việc của Tắc vạch ra cho
tôi trong những bước đầu trên con đường sự nghiệp. Tắc còn nói :
-
Đành rằng cậu thích tiểu thuyết, nhưng ở những bước đầu, đừng bao giờ nói đến
chuyện thích. Hãy nhào vô bằng mọi cách cho bàn dân thiên hạ quen thuộc tên
tuổi của mình đi đã. Đến lúc mình "trứ danh" rồi, cả nước biết tiếng
mình rồi, đã có một chân trên văn đàn rồi, chừng đó cậu lựa "món" gì
mà chẳng được.
Những
lời khuyên đó, chính Tắc cũng đem ra thực hành. Hắn viết Truyện, làm Thơ và…
Phê bình văn chương. Hắn đã viết rất hăng, rất nhiều, nhưng tính sổ lại chỉ có
thơ của hắn là được đăng nhiều nhất. Bởi thế trong các cuộc hội họp văn nghệ về
sau này, anh em đều gọi hắn là Thi sĩ.
Tắc
rất hài lòng về danh hiệu này và con người của hắn bắt đầu có một sự sửa sang
để cho phù hợp, đại để như quần áo trở nên lôi thôi hơn, đôi mắt lúc nào cũng
mơ màng hơn, mái tóc biếng chải hóa thành bù xù hơn. Hắn làm cứ như thể từ thuở
mới lọt lòng ra, định mệnh đã an bài cho hắn trở thành thi sĩ rồi.
Nói
về nhân dáng thì cái bệnh “sửa sang” này không chỉ riêng có một mình Tắc là sa
đà vào. Bởi hầu hết bọn trẻ chúng tôi, ít anh nào lại không biết làm dáng cho
ra vẻ văn nghệ. Đặc biệt là cái món “để râu” cho thiên hạ thấy mình không phải
là thứ nhóc con để bị coi thường, hay bị cất lời dạy dỗ.
Khốn
nỗi, ở cái tuổi 16, 17 thì đã làm gì có râu. Ấy vậy mà không biết xuất xứ từ
đâu mà bọn chúng tôi loan truyền với nhau rằng muốn cho râu chóng mọc thì cứ
bôi Huile de Ricin lên mép là râu sẽ bị “thúc” đến phải lòi ra.
Huile
de Ricin thật ra chỉ là tinh dầu lấy từ những hạt trong quả đu đủ. Nó là thứ
thuốc “giun” rất hiệu quả mà ngày xưa còn bé, cứ vài tháng, mẹ tôi lại dẫn mấy
đứa trong nhà đi đến nhà thương Phủ Doãn để nơi đây cho mỗi đứa uống một muỗng
cái thứ dầu này. Ôi chao là khó nuốt ! Dầu vừa trôi qua miệng là muốn ọe hết
ngay ra. Nhưng do kinh nghiệm, mẹ tôi đã mang sẵn mấy miếng Oản làm bằng bột
trắng tinh, mau tan và ngọt lừ. Cái oản này chận ngay cơn buồn nôn vừa ập đến,
và chỉ đến buổi chiều thôi, thì những anh giun trong bụng chịu không thấu đã bị
tống ra có khi hàng búi.
Nay
thì chúng tôi đem cái thứ thuốc giun này ra xài để cho chóng mọc râu. Ước vọng
về râu sâu xa đến nỗi hồi đó còn có cả bài hát về râu nữa. Đó là bài hát Cung
Kèn Rạng Đông của nhạc sĩ Hùng Lân đã bị sửa lại lời.
Nguyên
văn thì :
Anh
nghe chăng cung kèn rạng đông
Đang
uy linh lừng vang trên không
Đang
thiết tha hùng hồn.
Khơi
chí gan Lạc Hồng
Cháy
lên nhuộm bao ánh hồng…
Bị
đổi thành :
Thân
nam nhi tri kỷ bộ râu
Râu
ta đây là râu quai nón
Ăn
uống tuy nhồm nhoàm
Râu
đứng lên nhịp nhàng
Cái
râu mọc quanh cái mồm…
Râu
ơi râu ơi
Râu
mọc quanh mồm… cái râu Sồm
Râu
ơi , râu ơi
Râu
mọc quanh tai… cái râu Quai
Ôi
trời ! Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò là như thế. Chắc nhạc sĩ Hùng Lân hồi đó
có nghe thấy thì cũng chỉ mỉm cười chứ chẳng nổi cơn lôi đình cho tổn hại sức
khỏe.
Kết
quả của những ngày chăm chỉ mỗi sáng bôi thuốc mọc râu, riêng tôi thì sau vài
tuần cũng thấy râu cũng lún phún mọc ra, nhưng khốn thay, lớp da bị thứ tinh
dầu thúc cho nóng quá, nên cứ đùn ra những thứ mụn đỏ, mọc còn mau hơn nữa.
Thế
là cả bọn tém giẹp cái vụ râu ria, chẳng anh nào còn dám rớ tới nữa.
***
Trở
lại cái vụ lựa chọn bộ môn sáng tác, thì tôi thấy riêng có lãnh vực soạn Kịch
là Tắc không dám bước chân vào. Không biết Tắc đọc được ở đâu một lời tuyên bố
mà hắn cho là chí lý :
-
Muốn viết kịch người ta phải ở tuổi ngoài bốn mươi. Phải đi qua đủ các đoạn
đường làm thơ, viết văn đã, rồi mới có đủ khả năng viết kịch. Kịch là chặng kỹ
thuật cuối cùng của con đường làm văn học nghệ thuật.
Thực
ra thì trong các bộ môn, quả là Kịch khó sáng tác nhất. Khó ở những nút thắt
mở, khó ở những tình tiết, ở sự điều động các nhân vật ra, vô hợp lý trên sân
khấu. Và dĩ nhiên người viết phải nắm thật vững tâm lý, cử chỉ, ngôn ngữ của
các nhân vật.
Hơn
nữa, khi viết kịch, tác giả còn phải nắm vững tính cách là “kịch đang diễn trên
sân khấu là thể hiện cái "hiện tại" đang xẩy ra”. Người viết phải sắp
xếp thế nào để qua ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật sẽ làm khán giả thấu
hiểu được "tình huống" của câu chuyện, tức là quá khứ được phục hồi,
chứa chất những tình huống có những gút mắc, những vấn đề nan giải bầy ra cho
người trong cuộc phải giải quyết (có sự tham gia suy nghĩ của khán giả) để rồi
đi tới tương lai là cái kết thúc lúc hạ màn. Giới viết kịch gọi cái phút chót
này là "Coup de Rideau". Mà cái "cú" hạ màn này lại cần
phải có tính bất ngờ, gây ngạc nhiên thích thú và cả sự đồng tình, tán thưởng
của khán giả thì kịch mới được gọi là thành công.
Viết
kịch nghe chừng khó thế nên vào thời kỳ đó, các tác phẩm văn chương xuất hiện
rất dồi dào, phong phú nhưng kịch bản thì hầu như chỉ lác đác như lá mùa thu.
Mỗi năm, ở Nhà hát Lớn thành phố chỉ có một mùa Kịch thường là vào tháng Chín
hay tháng Mười. Lúc đó tiết trời đã vào thu, không khí mát mẻ, người đi xem
diễn kịch ăn bận chỉnh tề, sang trọng như đi dự những buổi tiếp tân.
Vài
ban kịch nổi tiếng vào thời kỳ đó có thể kể như ban Tiền Phong, ban Sông Hồng
gồm nhiều diễn viên tài ba, tận tụy và đam mê với bộ môn Kịch. Tôi còn nhớ
những vở kịch nổi tiếng được trình diễn trong các mùa Kịch thời đó như Tâm Sự
Kẻ Sang Tần - kịch thơ của Vũ Hoàng Chương; Thế Chiến Quốc, Nửa Đêm Truyền Hịch
- của Trần Tử Anh; Bông Hồng dại của Tiền Phong, Thành Cát Tư Hãn - của Vũ Khắc
Khoan; Lôi Vũ của Tào Ngu…
Các
cụ ngày xưa có câu tục ngữ "Điếc không sợ Sấm". Đem áp dụng vào
trường hợp của tôi thật không còn gì đúng hơn nữa, bởi vì bộ môn Kịch khó khăn
là thế mà tôi dám cả gan ghé chân vào.
Tất
cả chỉ khởi đầu bằng một sự tình cờ. Số là vào thời kỳ đó, có một nhà thi sĩ
tạm gọi tên là Nguyễn Đông Tây. Ông này không phải xuất thân từ giới học trò,
nên khi xuất hiện trên Thi đàn, bọn chúng tôi hỏi nhau:
"Sao
cái tên nghe lạ hoắc thế nhỉ?"
Đã
thế, tuy chưa lấy gì làm "nổi" lắm mà hắn lại dám bỏ tiền ra in cả
một tập thơ đầu tay thì cũng không phải thứ vừa. Chỉ có điều là khi quảng cáo
cho tập thơ này, Nguyễn Đông Tây toàn dùng những chữ đao to búa lớn, tự đề cao
mình lên tới tận mây xanh. Điều này làm cho lũ chúng tôi càng xôn xao, kể cả
tức giận nữa.
Bài
quảng cáo đó in rất trang trọng trên vài tạp chí văn nghệ đang phát hành. Nội
dung tôi còn nhớ đại khái như sau :
MỘT
VÌ SAO SÁNG VỪA XUẤT HIỆN TRÊN
VÒM
TRỜI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
Những
người yêu Thơ không thể bỏ qua tập thơ :
MÙA
THƯƠNG NHỚ
của
Thi sĩ NGUYỄN ĐÔNG TÂY
*
Nhẹ nhàng hơn hơi thơ Nguyễn Bính
*
Say đắm hơn hồn thơ Xuân Diệu
*
Chua chát hơn giọng thơ Trần Tế Xương
*
Triền miên hơn ý thơ Nguyễn Du
*…
và man mác như bầu trời vô tận của vũ trụ vô vàn Tinh Tú.
Ối
chà chà ! Chưa bao giờ trong sinh hoạt văn nghệ lại xuất hiện một lối quảng cáo
tác phẩm một cách um sùm, cao ngạo và lớn lối đến như thế. Trách gì chẳng gây
ra trong bọn chúng tôi một sự bất bình và bàn cãi ỏm tỏi:
-
Nguyễn Đông Tây là ai thế ? Đã có ai được đọc thơ của Nguyễn Đông Tây bao giờ
chưa ?
-
Rồi ! Rồi ! Thơ của "lão" đăng trên tờ Quê Hương mấy bài.
-
Thế hả ? Bao giờ ? Số mấy? Sao tớ không thấy nhỉ ?
-
Mà thơ có hay không ?
-
Hay mấy thì cũng không thể so sánh với Nguyễn Du, Trần Tế Xương được. Phét lác
không chịu được !
-
Thì quảng cáo mà !
-
Quảng cáo thì quảng cáo chứ. Thơ đâu phải Thuốc ho bà Lang Trọc mà phịa quá như
vậy.
-
Thôi, hãy cứ chờ xem. Biết đâu lại chẳng là một thiên tài, một vì sao sáng mới
mọc trên vòm trời văn học nghệ thuật.
-
Ngộ nhỡ thơ ra xong, đọc thối ủm thì sẽ ra sao ?
-
Thì sẽ "phang" bỏ bố nó đi chứ, cho chừa cái tội bất kính với tiền
nhân !
Người
phát biểu câu lỗ mãng sau cùng đó là Trần văn Tắc. Hơn ai hết trong cả bọn, Tắc
tự cảm thấy mình có bổn phận phải làm sạch sẽ sinh hoạt thi ca, bởi Tắc là thi
sĩ. Là thi sĩ thì phải có trách nhiệm với thi ca là đúng quá rồi. Thi ca là
vùng đất thiêng liêng, không thể đem ra bôi bác được.
Thế
là cả bọn chúng tôi đều háo hức chờ đợi một biến cố văn nghệ. Trước hết là tập
thơ Mùa Thương Nhớ của Nguyễn Đông Tây sắp phát hành. Thứ đến là bài phê bình
nẩy lửa mà Nguyễn văn Tắc đã hứa hẹn viết.
Hai
tuần lễ sau, tập thơ đã phát hành, thấy bầy bán khắp thị trường chữ nghĩa. Tắc
giữ đúng lời hứa, cẩn trọng viết một bài phê bình dài 12 trang giấy kín mít.
Tôi đòi xem trước nhưng Tắc xua tay :
-
Chờ đăng đã ! Chờ đăng đã ! Phải đăng rồi đọc mới khoái.
Bọn
chúng tôi đành phải nén lòng chờ đợi. Nhưng rồi một tuần, hai tuần trôi qua,
bài của Tắc chẳng thấy xuất hiện. Tắc ức quá, chép lại một bản khác, có sửa
chữa thêm chút đỉnh, rồi gửi cho tờ báo khác. Nhưng rồi tờ này cũng không đăng.
Tắc phân bua với anh em:
-
Nó có "thế lực văn nghệ", các cậu ạ. Bài tớ viết nẩy lửa như thế đời
nào tòa soạn họ dám đăng.
Tuy
Tắc viện cớ như vậy để biện minh cho mình nhưng bọn chúng tôi ai cũng nghĩ là
khả năng phê bình của Tắc chưa đủ sắc bén để được các tòa soạn tiếp đón một cách
nồng nhiệt. Nạn bè phái trong văn nghệ thì thời nào cũng có, nhưng nói thực ra,
cây bút Nguyễn Đông Tây không phải là một cây bút quen thuộc, hay đã thành danh
để có thể tạo nên thế lực. Theo sự "điều tra" của chúng tôi, thì anh
mới nhẩy vào làng văn không đầy bốn tháng. Lại nghe một nguồn dư luận xì xào là
anh ta rất ít quen thuộc với giới văn chương. Ở ngoài đời, anh sống bằng nghề
đạp xích lô. Đạp xích lô rồi để dành tiền in thơ, đó là một hiện tượng đặc
biệt, hiếm có.
Nhân
vật Nguyễn Đông Tây chính vì thế lại càng gây cho bọn chúng tôi sự tò mò, khích
động, xôn xao bàn tán. Phải thành thực mà nói, thơ của Nguyễn Đông Tây không
dở. Anh ta có nhiều kinh nghiệm sống. Anh ta lại có đầu óc xã hội. Những bài
thơ in trong tác phẩm của anh tuy có nhiều nét vụng về nhưng lại dồi dào sinh
lực của đời sống. Vào giữa lúc mà văn chương phần đông chỉ hướng vào những
chuyện tình than mây khóc gió (giới độc giả phụ nữ thì đua nhau tìm đọc cuốn
Đồi Thông Hai Mộ để khóc sướt mướt) thì sự xuất hiện tác phẩm của anh là một
tia nắng mới. Chỉ tiếc là anh ta đã quá lớn lối khi so sánh mình với hầu hết
những tinh hoa, những Bắc Đẩu của làng thơ đi trước. Đó là một điều không mấy
ai hài lòng và tập thơ của anh vô tình đã phải gánh lấy cái vạ lây, mà nói theo
kiểu ngôn ngữ bọn trẻ chúng tôi thì là "không thể tha thứ được" !
Sứ
mạng quất ngọn roi đầu tiên vào tờ quảng cáo ấy đã giao cho Tắc thì Tắc đã
không làm được trọn vẹn. Thế là, trong một phút nổi hứng bất tử, tôi đã nhẩy vô
vòng chiến, mà cũng là do cái tính háo thắng mà ra đó thôi.
Lần
này tôi khôn hơn Tắc, ở chỗ là tôi không nhắm vào việc phân tích từng câu thơ,
từng ý thơ để hạch Nguyễn Đông Tây về tội dám so sánh với Nguyễn Du, Trần Tế
Xương ( vả lại thơ không phải lãnh vực của tôi, kiến thức về thơ, tôi được mấy
nả mà đòi đi phân tích thơ của người khác). Chiến thuật của tôi là chỉ nhắm
triệt để vào mỗi có tờ quảng cáo mà Nguyễn Đông Tây đã quảng bá rộng rãi trên
báo chí. Tôi tin rằng cứ đánh đối phương ở khe hở đó chắc chắn sẽ được nhiều
người đồng tình, vì nó có… chính nghĩa !
Trọn
một đêm hôm ấy tôi đã viết xong vở hài kịch lấy tên là "Tờ Quảng
cáo".
Như
ở trên tôi đã nói, kịch là bộ môn khó viết nhất, ít ai muốn bước chân vào. Tôi
biết như vậy, và thực tâm tôi cũng chẳng mong muốn mình đi theo cái ngành khó
khăn ấy. Vậy nếu có viết kịch lần này thì cũng chỉ là để giỡn chơi cho thỏa cái
sự ấm ức của tôi trong đôi lúc, mỗi khi nghĩ đến tờ quảng cáo của Nguyễn Đông
Tây mà thôi. Vả lại, nhìn tờ quảng cáo ấy dưới khía cạnh hài kịch thì không còn
thể văn nào thích hợp hơn.
Ngày
hôm sau tôi tức tốc đem lại tòa soạn báo Cải Tạo do ông Phạm văn Thụ làm Chủ
Nhiệm để gửi đăng.
Vào
thời kỳ ấy, cụ Đào Trinh Nhất đã thôi cộng tác với tờ Cải Tạo là tờ tuần báo có
trụ sở ở đường Mongrand sau đổi là Nguyễn Thượng Hiền, gần hồ Halais tức hồ
Thuyền Quang Hà Nội. Bộ biên tập sau đó nằm trong tay các cây bút trẻ hơn như
Nhị Lang (bút hiệu của Thái Lân, một nhà chí sĩ cách mạng sau này), Văn Bình,
Kim Sinh và Phạm văn Thụ. Tôi không rõ lắm về sự phân công trong tòa soạn nhưng
hình như công việc chọn lựa bài vở nằm trong tay ông Kim Sinh và ông Văn Bình
tức Chàng Thứ Mười Lăm (in trên báo là Chàng thứ XV).
Hai
ông này chắc có máu tếu cùng mình nên bản thảo của tôi vừa gửi đi tuần trước
thì ở số báo tuần sau nó đã được chọn đăng, chiếm nguyên vẹn một trang báo khổ
lớn, nom rất trịnh trọng và xôm trò.
Vở
kịch tung ra gây một trận cười vỡ bụng trong làng văn chương choai choai mới
lớn. Tôi còn nhớ Toàn (bây giờ là nhà văn Nguyễn Đình Toàn), hồi đó nhà ở bên
Gia Lâm, cách Hà Nội khoảng vài cây số. Nhà Toàn ở rất đơn sơ, mái tôn, vách
gỗ, nhiều chỗ phô ra nhiều khe hở nên bà cụ mẹ Toàn lấy giấy báo trám vô những lỗ
thủng. Chính trang báo Cải Tạo có đăng vở kịch của tôi lại cũng được đóng cái
vai che chắn đó. Nó lại nằm ngay ở trước bàn nước, nơi xếp ly tách, chai lọ nên
một hôm Toàn đứng rót nước uống, vô tình để mắt lên trang báo. Tuy đã đọc từ
trước rồi, thế mà chợt nhìn lại, Toàn cũng không nhịn được nên cười phá lên làm
nước bắn tung tóe ra mọi người chung quanh. Giai thoại ấy, Toàn đem kể lại cho
bạn bè. Thế là nghiễm nhiên tôi đâm ra "nổi tiếng" trong đám văn nghệ
choai choai về ngành viết kịch và đám văn nghệ trẻ phong cho tôi là … kịch sĩ !
Thừa
thắng xông lên (chữ dùng bây giờ), tôi đình chỉ viết truyện ngắn và chỉ miệt
mài sáng tác kịch vui.
Cứ
khoảng hai, ba tuần tôi lại cho ra lò một vở hải kịch và vở nào thì tuần báo
Cải Tạo cũng dành chỗ trịnh trọng để đăng lên. Điều mà tôi và Tắc vẫn hằng mơ
ước bây giờ đối với tôi đã thành sự thật. Nghĩa là cứ gửi bài đến đi, gửi thật
nhiều, thật bền bỉ, gửi vô điều kiện thì sẽ có lúc mình giành được một mục
thường xuyên trên tờ báo. Thế là mình… nổi tiếng, mình đã trở thành "văn
nghệ sĩ" và trong ngăn bóp có quyền mang theo một cái các vi-dít đề tên
mình với hàng chữ in nghiêng ở dưới : Thi sĩ, Tiểu thuyết gia, Kịch tác gia
hoặc muốn cho nó có vẻ khiêm tốn thời thượng hơn thì đổi lại là làm thơ, viết
văn, soạn kịch...
Riêng
tôi thì chưa có dịp làm cái công việc này, lý do vì in một cái các vi-dít cũng
tốn kém lắm, ngót trăm bạc như chơi. Nhưng ngoài "các" ra, chúng tôi
còn ưa chuộng một thứ khác gọi là triện son. Triện son có công dụng nhiều hơn
là các vi-dít nên hầu như bọn trẻ chúng tôi, anh nào cũng chịu chi cái khoản đi
thuê khắc triện có tên của mình ở trên gỗ. Mà giá cả lại rẻ hơn, khoảng bẩy
đồng một cái triện hình vuông, mười đồng một cái hình tròn hay bầu dục. Chưa kể
hộp mực dấu, phải bỏ thêm tiền nhưng chúng tôi tự xoay xỏa lấy bằng cách lấy
cái hộp đựng viên thuốc nhện, tức viên thuốc nhức đầu hồi đó có tên hiệu là
Kalmine, nhét đầy bông và đổ mực đỏ vào. Thế là đầy đủ đồ nghề cho một cái
triện son.
Nói
cho đúng ra, triện son là thú chơi tao nhã của những nhà văn nghệ đã nổi danh,
vốn đã có nhiều tác phẩm xuất bản rồi. Mỗi khi in một tác phẩm mới, lúc ký tặng
bạn bè thì bên cạnh chữ ký, tác giả còn áp thêm một cái triện son mang bút hiệu
của mình (thường là khắc theo kiểu chữ Hán) ở ngay bên cạnh. Những trang sách
mà có lời đề tặng cùng chữ ký và triện son của tác giả thì nom rất hấp dẫn,
trang trọng và… "văn nghệ" vô cùng !
Dĩ
nhiên bọn chúng tôi thì chưa đứa nào có tác phẩm ra đời để viết lời đề tặng và
ký tên có triện son bên cạnh cả. Nhưng cần gì phải theo đúng nguyên tắc của các
bậc đàn anh. Nghĩa là khi có triện rồi thì chúng tôi đem "ịn" lung
tung lên đủ mọi chỗ. Từ tập vở cho đến sách học, từ tờ nháp cho đến sổ tay.
Nhất là khi viết thư cho ai thì khỏi nói, cuối thư thế nào cũng áp một con dấu
đỏ chói bên cạnh cái chữ ký loằng ngoằng. Nom cũng oách ra phết !
Hồi
đó Vũ Mai Anh mới chỉ là một cậu học sinh lớp đệ Ngũ của trường Chu văn An, nhà
ở phố Hàng Đồng, gần Cửa Bắc Hà Nội. Mai Anh say mê văn nghệ có thể nói còn hơn
bất cứ một người nào khác. Cặp táp của anh lúc nào cũng dầy cộm từng xấp bản
thảo. Có bản đã viết xong, có bản đang cho in giở giang trên báo. Đã thế lại có
bản vừa khởi sự viết được vài chục trang. Tổng số tác phẩm của Mai Anh vào lúc
đó đã lên tới 4, 5 cuốn. Toàn là truyện dài chữ li ti như con kiến, nội dung
cũng toàn là những chuyện tình với tựa đề thật ướt át như Duyên Kiếp, như Phũ
Phàng...v.v...
Quyển
Duyên Kiếp đang được đăng từng kỳ trên báo Hồ Gươm của bác sĩ Bùi Cẩm Chương.
Quyển Phũ Phàng chưa in trên báo nhưng lại được nhà Chính Ký in ra thành sách.
Cuốn sách dầy hơn 200 trang, bìa in Litho đủ mầu tuyệt đẹp không thua gì in
Ốp-sét bây giờ. Hình bìa vẽ một thanh niên thật bảnh trai đang ngồi ôm mặt bên
một nấm mồ. Trên nấm mồ có hương bay nghi ngút, có bia đá đề tên thiếu nữ, xa
xa có những giải mây bay lờ lững thấp thoáng qua mấy nhánh thông gầy. Mộ xanh,
cỏ úa, vẻ mặt người bi ai, rầu rĩ, cảnh trí nom thật… phũ phàng !
Cuốn
sách bán rất chạy. Có lẽ là chạy nhất trong những cuốn của các tác giả mới ra
lò. Mai Anh vụt nổi như sóng cồn trong đám văn nghệ trẻ như chúng tôi. Và chúng
tôi cũng đọc Mai Anh với tất cả say mê vì văn của anh vững chãi, già dặn, có
dáng dấp, kiểu cách rất hợp với không khí văn chương bình thản hồi bấy giờ.
Đối
với tôi, những người như Mai Anh, Hùng Phong, Hiệp Nhân, Lê Ninh (nổi tiếng
khắp giới học sinh Hà Nội chỉ vì một bài tùy bút rất hay đăng trong giai phẩm
Lửa Lựu xuất bản trong một dịp Hè)...v.v... đều là những thần tượng mà tôi mơ
ước. Những thần tượng ấy không quá cao xa như Nhất Linh, Khái Hưng, Trần Tiêu,
Nguyên Hồng… mà lại gần gụi như tôi vì thấp thoáng cũng có bóng dáng của tôi
trong đó. Họ cũng như tôi đều còn là những cậu học sinh còn đang cắp sách đến
trường nhưng đã ôm trong lòng tất cả nỗi say mê, và mang trong tim một hoài bão
thiết tha, một ước mơ cố đạt thành. Đó là Mơ Làm Văn Sĩ !
Vào
thuở còn cắp sách đến trường, số người mơ ước trở thành văn nghệ sĩ rất đông.
Hà Nội ngày xưa, với tâm trạng bình thản, khung cảnh nên thơ thay đổi bốn mùa,
khi vào hạ có hoa Sấu lấm tấm giải trắng mặt đường, buổi sơ Thu lá úa bắt đầu
trải vàng trên lối đi để lại những cành trơ trụi in khẳng khiu trên nền trời
đầy mây xám. Từng giải mưa Xuân, từng tiếng ve Hạ, từng vạt nắng Thu hay những
luồng gió Đông rì rào đập trên cánh cửa le lói ánh sáng của những căn phòng ấm
áp, tất cả đã gợi lên trong lòng mọi người biết bao cảm hứng.
Chúng
tôi đã làm văn nghệ một cách say mê trong những khung cảnh đó. Chúng tôi đã tạo
dựng cho thế giới học trò một bầu không khí của thơ, của văn, của nhạc đầy tính
chất học trò. Ồn ào rộn rã thật đấy nhưng không khỏi có những vấp váp, vụng về
thật dễ thương. Một trong những kỷ niệm đáng ghi nhớ về sự vụng về ấy là tờ
giai phẩm Hồng Hà do Mai Anh và Trần Đỗ chủ trương (anh Trần Đỗ tên thật là
Trần Xuân Mỹ, bây giờ là giáo sư Sử Địa ở các trường tư lớn ở Sài Gòn).
Giai
phẩm Hồng Hà là một ước mơ đã thể hiện của những cây bút học trò. Chúng tôi mơ
ước thực hiện những công trình như những bậc đàn anh đi trước : ra báo, in tác
phẩm, lập Văn Đoàn và ấn hành Giai Phẩm. Có lẽ việc ấn hành giai phẩm là một
công việc tương đối dễ làm nhất. Vì giai phẩm có tính cách tổ hợp, lại không
phải là một công việc trường kỳ. Nó chỉ là một công trình gom góp tác phẩm của
nhiều người rồi in ra trong một dịp đặc biệt nào đó.
Riêng
giai phẩm Hồng Hà còn là nơi qui tụ những tác phẩm của các cây bút học trò,
không phải là chuyên nghiệp, tất cả đã tự viết lấy, thực hiện lấy, lo lắng lấy
như một nụ hoa đầu mùa trổ lên giữa khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ của những bậc
đàn anh đi trước.
Tòa
soạn của giai phẩm Hồng Hà đặt ở nhà anh Trần Đỗ, phố Hàng Bát Sứ Hà Nội. Ròng
rã hơn hai tháng trời đôn đáo bằng tất cả lòng hăng hái của những tín đồ, ước
mơ đã thể hiện. Tờ giai phẩm đã hình thành với những bài vở thu thập được từ
hầu hết của các cây bút học trò. Một ngàn tờ bích chương to bằng trang nhật báo
được đem dán khắp các đường phố.
Hồng
Hà ! Hồng Hà ! Hồng Hà ! Đi đâu cũng thấy hai chữ Hồng Hà đập vào mắt, ở cột
đèn, ở gốc cây, ở tường phố. Hàng Bông, hàng Gai, hàng Đào, Hồ Hoàn Kiếm, đền
Ngọc Sơn. Và dĩ nhiên là còn ở khắp các trường trung học.
Nhưng
như đã trình bầy ở trên, chúng tôi chỉ là những tay mơ mới chập chững bước vào
nghề. Chúng tôi đã để lại trên đường đi đầy rẫy những sơ sót. Từ cách tổ chức
đến kỹ thuật trình bầy, ấn loát, phát hành và ngay đến cả vấn đề luật lệ nữa.
Khổ
sở nhất là về tấm bích chương quảng cáo. Thay vì xài giấy mầu, chúng tôi đã cho
in trên giấy báo thông thường. Thay vì có in chêm mầu xanh, đỏ thì chúng tôi
chỉ cho chạy toàn mầu mực đen (tiết kiệm mà !). Thành ra những tờ quảng cáo của
chúng tôi đã vi phạm luật lệ hiện hành. Vâng, theo luật lệ về bích chương của
tư nhân muốn phổ biến công khai thì phải in có mầu thay vì chỉ toàn đen với
trắng. Hai mầu đen với trắng thuần túy thì chỉ để dành cho những thông tư,
thông cáo dán nơi công cộng của nhà nước.
Thế
là những tờ quảng cáo còn thơm mùi giấy, còn lấp lánh ánh mực mà chúng tôi đã
khổ công chia nhau đi dán ở mọi nơi, chưa qua được 24 giờ thì đã có lệnh phải
cấp tốc triệt hạ vì nó không phải là Thông Tư, Thông Cáo của nhà Nước ! Thật
không còn gì cay cú cho bằng khi chúng tôi lại phải chia nhau đi xé xoàn xoạt
những sản phẩm tinh thần mà chúng tôi đã từng ấp trong lòng từ bao nhiêu ngày
qua, từ lúc cái ý định ra Giai Phẩm nẩy sinh ở trong đầu.
Các
cụ ngày xưa thường nói "chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng Tổng", câu đó
thật đúng. Hôm mới lấy tấm bích chương ở nhà in về, cả nhóm đã kéo nhau đi ăn
mừng, bàn tán ỏm tỏi về niềm sung sướng, hãnh diện khi nghĩ đến tấm bích chương
hẳn sẽ gây xôn xao trong giới văn nghệ và người dân Hà Thành khi nó được dán
lên. Thế mà bây giờ chúng tôi phải cắn răng mà xé đi. Xé và xé ! Thật không còn
gì cay đắng cho bằng, vì cứ thà xé ngay tim, gan, phèo phổi gì đó của chúng tôi
đi có lẽ cũng còn đỡ đau hơn nhiều. Hóa ra làm văn nghệ tay mơ là như thế đó.
Nói
đến tay mơ thì phải nói là tôi cũng đã "mơ" nhiều. Ở đời có nhiều cái
dại nhưng chẳng cái dại nào giống cái dại nào. Nhân đây, tôi lại kể thêm về một
kỷ niệm đáng nhớ về "cái dại" mà tôi cũng đã từng trải qua. Đó là
thời gian tôi hợp tác với anh Đặng văn Ngữ (anh Ngữ bây giờ hiện ở trong Nam
nhưng hơn mười lăm năm nay tôi chưa gặp lại) để tổ chức một chương trình gọi là
"Chiếu bóng chiều thứ Bẩy" cho học sinh cùng trường (trường Nguyễn
Trãi, trước có tên là Chu văn An - Hà Nội), và cả các trường khác.
Hồi
đó, đối với những học sinh nghèo, đi coi ciné là một chuyện xa xỉ mặc dầu giá
vé hạng Ba (hạng chót) có đắt nhất cũng chỉ 15 đồng một vé. Đó là kể những rạp
hạng sang như rạp Philharmonique ở Bờ Hồ, Ciné Club hay Eden ở phố Tràng Tiền,
Majestic ở phố Đồng Khánh, hay Ciro’s hình như ở gần đầu Phố Huế. Còn những rạp
bình dân hơn như rạp Moderne ở phố hàng Quạt, rạp Olympia ở chợ hàng Da thì giá
vé hạng ba chỉ có 8 đồng.
Thành
ra suốt mấy năm còn học ở tiểu học, rất ít khi chúng tôi được vô rạp chớp bóng
để coi "nguyên một phim". Thông thường thì chúng tôi chỉ là khán giả
thường trực của phòng Thông Tin Pháp ở phố Tràng Tiền. Cứ tới giờ chiếu phim là
chúng tôi đứng chầu ở cầu thang lối dẫn lên lầu để khi sợi dây thừng ngăn lối
lên được mở ra là chúng tôi ùa lên coi. Hôm nào chen chúc đông quá thì nhân
viên trực, thường là một ông Tây, đứng trên cầu thang chỉ mặt từng người để cho
vào. Ai không được “chỉ” thì coi như bị loại, mặt mũi tiu nghỉu ra về. Mà nào
có phải chen chúc để coi những phim gì hay ho cho cam. Tất cả chỉ toàn phim
thời sự của hãng Pathé hay tài liệu nói tiếng Tây thôi. Tụi tôi nghe cũng hiểu
lõm bõm đấy, nhưng chủ yếu là coi… hình !!
Ngoài
ciné coi "chùa" ra, chúng tôi cũng hay lui tới các rạp hát như rạp
Đan Thanh ở phố Hàng Quạt, rạp Kim Phụng ở phố Hàng Bạc hay Nhà Hát Lớn ở gần
Nhà Bác Cổ. Đi coi rạp Kim Phụng thì chỉ mất có 3 đồng, đó là tiền dúi cho
người soát vé sau khi buổi hát đã trình diễn gần hết… hai màn đầu! Thường
thường mỗi buổi diễn bao gồm 3 màn, nếu vô rạp vào lúc màn hai sắp hạ thì kể
như đã tàn cuộc. Nhưng nghèo mà vẫn ham, vả lại cần chi cốt chuyện, miễn cứ vô
để được coi phông cảnh, cung cách trang trí sân khấu, y phục diễn viên và nhất
là được nhìn tận mắt các tài danh như Kim Chung, Kim Liên, Ái Liên, Ái Loan,
Bích Hợp, Huỳnh Thái, hề Tư Vững… Ôi chà ! Như thế cũng là quá đủ !
Riêng
Nhà Hát Lớn thì chỉ sinh hoạt nhộn nhịp vào mùa Kịch khởi sự từ mùa Thu trong
năm. Xem kịch Nhà Hát Lớn, bọn học sinh tiểu học chúng tôi cũng không mất tiền,
vì không hiểu sao, cứ mỗi khi màn Ba bắt đầu khởi sự thì người soát vé biến đi
đâu, cửa cứ mở tự do cho ai muốn vào thì vào.
Còn
ai vào đấy nữa ngoài lũ nhóc tì chúng tôi ! Thôi thì cả lũ tự do như gió trời,
vượt qua được hai cánh cửa sắt là chúng tôi leo tuốt lên lầu ba, ngồi bảnh chọe
trên những hàng ghế gỗ thường được mệnh danh là "chuồng gà" để coi
cọp. Gặp những hôm khán giả đông quá, chuồng gà cũng hết chỗ thì chúng tôi tìm
các hàng cột để dựa lưng coi "đứng". Hoặc giả bầu không khí có ngột
ngạt quá, mồ hôi mồ kê đổ ra nhễ nhại (hồi đó đã làm gì có máy lạnh) thì chúng
tôi kéo nhau đi khắp các vòng hành lang của ba tầng lầu để sục sạo vô các phòng
để phông cảnh, phòng hóa trang, phòng chứa các dụng cụ gần như phế thải. Cứ đi
đến đâu là chúng tôi lại đập cửa rầm rầm, la hét, gọi nhau í ới tới đó.
Chính
trong bầu không khí "vui vẻ quá" đó, tôi đã được xem những vở kịch
nổi tiếng như Tâm Sự Kẻ Sang Tần, Bông Hồng Dại, Tiếng Trống Hà Hồi… và đặc
biệt là vở Lôi Vũ của Tào Ngu dài tới 5 màn, kéo buổi diễn từ 3 giờ chiều đến
11 giờ khuya mới chấm dứt. Khán giả đi coi phải mang theo bánh mì để ăn trong
giờ giải lao gọi là Entr'acte.
Những
năm lên trung học, vì đứng đắn con người ra nên rất ít khi tôi lui tới rạp hát
nếu trong túi không có tiền. Cảm thông với rất đông học sinh cùng cảnh ngộ, tôi
đã bàn với anh Đặng văn Ngữ tổ chức chương trình "Chiếu bóng chiều thứ
Bẩy", nghĩa là hằng tuần, cứ đến chiều thứ Bẩy là chúng tôi dự tính sẽ tổ
chức chiếu một phim ở một rạp đàng hoàng, giá vé bán đồng hạng có 5 đồng, ai
đến sớm thì ngồi ghế đệm gọi là hạng "phô tơi" (Fauteuil), ai đến trễ
thì ngồi ghế gỗ.
Buổi
tổ chức đầu tiên chúng tôi chọn một phim Ấn Độ có tên là Saudaagar, fille des
Indes (cô gái Ấn, tên Saudaagar) bởi vì trước đó cả Hà Nội đã xôn xao rủ nhau
nô nức đi coi một phim Ấn độ khác có tên là Mangala, fille des Indes. Chúng tôi
nghĩ, Mangala đã được tiếp đón nồng hậu thì Saudaagar chắc cũng được cái âm
hưởng dư thừa.
Trong
vòng 2 tuần lễ, anh Ngữ và tôi đã đôn đáo chạy đi thuê phim, mướn rạp, in vé,
vẽ áp phích quảng cáo và đi đến đâu chúng tôi cũng được ủng hộ nồng nhiệt tới
đó. Chúng tôi dự tính mỗi kỳ bán ít lắm cũng được 600 vé để thu về 3.000 đồng.
Chi ra 2.500 đồng thuê phim, thuê rạp, 500 đồng in vé, in chương trình và chi
phí linh tinh. Coi như huề vốn, hoặc giả có lời hay có lỗ thì tuần nọ bù tuần
kia, chúng tôi vẫn có khả năng duy trì chương trình "chiếu bóng chiều thứ
Bẩy" cho anh em học sinh các trường đi coi giải trí với giá bình dân.
Nhưng
chúng tôi đã không lường trước một trở ngại lớn lao mà sau này, hai đứa suýt bị
khốn đốn. Đó là cái vụ phải đóng Thuế Hí Cuộc !
Vốn
là những tay mơ, lại tưởng mình chỉ làm việc xã hội chớ có buôn bán gì đâu mà
phải tính tới chuyện thuế má. Nào ngờ khi làm đơn xin phép trình chiếu ở rạp
Đại Đồng phố hàng Cót thì Tòa Thị Chính cho biết các vé trước khi bán ra phải
đem lại cho Sở Thuế "đục lỗ kiểm soát" để sau này căn cứ vào số vé
bán ra, ban tổ chức phải nạp Thuế Hí Cuộc.
Thế
là tôi và Ngữ ngã ngửa người ra vì cái tin động trời này ! Nhưng chương trình
đã công bố rồi, nếu cứ tiếp tục tổ chức thì sẽ phải lỗ đứt đuôi vài trăm bạc
Thuế. Mà rút lại không tổ chức nữa thì tiền in vé, in chương trình, tiền đặt
cọc cho chủ rạp mà Ngữ đã xin ông bà cụ thân sinh ứng trước, tất cả cũng đều sẽ
tiêu tùng ra mây khói. Thật đúng là chúng tôi đã bị du vào cái thế tiến thoái
lưỡng nan, chót ngồi lên lưng cọp !
Cuối
cùng, tôi và Ngữ bàn nhau chỉ còn có nước đi gặp ông Chánh Sự Vụ Sở Thuế để năn
nỉ xin "đại xá" cho một lần.
Ối
chà ! Đấy là lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi phải ra trước “cửa công”. Tuổi
sấp sỉ 16, thân hình lại gầy nhom gầy nhóc, trông tôi chỉ như cậu bé mười ba,
mười bốn. Còn Ngữ tuy mập và to con hơn, nhưng cũng chẳng già dặn được bao
nhiêu. Nhìn chung, "phái đoàn" của chúng tôi thật chẳng có một kí lô
gì so với tòa nhà to sừng sững ở ngay phố Bờ Hồ có những phòng ốc chật ních
những nhân viên. Nhất là có ông Chánh Sự Vụ bệ vệ mà tôi còn nhớ hình ảnh của
ông như in trong đầu.
Thân
hình ông mập mạp, nước da trắng bóc điểm những nốt chấm hồng hồng, trán hơi hói
đã điểm thưa những sợi tóc bạc, còn những ngón tay của ông thì vừa ngắn vừa to
múp míp. Ông ta thuộc loại người vừa khó tính vừa hách dịch, lại xui cho chúng
tôi hơn nữa là đã đi gặp ông vào cái hôm mà ông ta đang bị nhức đầu xổ mũi.
Trong suốt buổi gặp hôm ấy ông hắt hơi luôn luôn, ống thuốc long não để ngửi
không ngớt được ông đưa lên hít hà khiến cho hai cánh mũi của ông như phồng to
lên và đỏ ửng như quả cà chua.
Thời
tiết ấy, bệnh trạng ấy, lại phải lằng nhằng với mấy tên con nít không biết
"luật pháp" dưới quyền ông là gì, thì hỏi làm sao mà ông không cau
có, gắt gỏng, một đôi khi ông còn quát to khiến tôi xanh cả mặt lên nữa.
Kết
quả lần "du thuyết" đó, chúng tôi thất bại hoàn toàn. Chúng tôi không
xin được miễn Thuế Hí Cuộc. Chúng tôi phải đem vé đến đục lỗ trước khi bán ra
trong khi ngày trình chiếu cuốn phim ca vũ nhạc Ấn Độ Saudaagar, Fille des
Indes đã gần kề.
Cuối
cùng, chúng tôi phải đem đầu đến nạp thầy Hiệu Trưởng Nguyễn văn Mùi để biện
bạch và xin cầu cứu. Thầy Mùi nhận lời cứu vớt chúng tôi một nửa, nghĩa là xin
giảm cho 50%. Đó là mức tối đa thầy có thể làm được. Nhưng chúng tôi đành phải
chấp nhận và xúc tiến tổ chức để khỏi lỡ hẹn với bà con, cô bác. Nhưng sau lần
đó, chúng tôi thề "cạch" tới già không tổ chức chiếu bóng, chiếu bung
gì nữa hết. Thế là chương trình "Ciné các chiều thứ Bẩy" của chúng
tôi tan theo mây khói.
_____________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG VI