CHƯƠNG X
CHẠY NHƯ GIÓ
Bà Chúa không được đi với chúng tôi. Tôi biết là bà
thích đi tìm Khiết lắm. Nhưng tình thế bắt buộc, không thể được. Ông
Bình-Be "âu yếm" ra lệnh cho bà phải ở nhà. Lý do: còn phải nuôi ăn con
voi Chum-Bô và chú cẩu khôn ngoan tên Lát-Si chứ. Con bồ tượng Chum-Bô
cũng ranh lắm. Ngày nào cũng như ngày nào, cứ đúng năm giờ chiều là phải
dọn bữa cho nó. Trước năm giờ, nó chưa thèm ăn, mà sau năm giờ là mệt
với nó. Mệt đây là "mệt" thực sự ấy chớ chẳng phải chuyện đùa đâu. Bị
"kiến bò bụng" là nó quần cho người mệt ngay, nghĩa là cả gian vựa lúa
sẽ sụp xuống trong nháy mắt.
Xe của ông Bình-Be ra tới xa lộ, chạy được một quãng thì dừng lại đổ xăng. Chúng tôi lên tiếng hỏi người bán xăng đường vào khu hồ Thanh-Thủy ở ấp Đống-Đa. Ông ta chỉ tay về phía bên phải :
- Đây, con đường này! Từ đây vào đó khoảng mười cây số.
Đường trải đất đỏ nhưng khô ráo, mặt đường tốt lắm. Ông Bình-Be phóng xe vun vút. Chưa đầy mười phút sau, cả bọn đã tới bờ nước. Đến đây, ông hề phải giảm bớt tốc lực vì đường đã bắt đầu quanh co khó đi, lại nhỏ hẹp nữa.
Khoảng năm giờ chiều, xe dừng trước một căn nhà khá lớn trong ấp Đống-Đa. Trên khuôn cửa cao, một biển gỗ lớn nằm ngang, Và chúng tôi đọc: "Hãng Sao Mai. Tiểu công nghệ và chăn nuôi trồng trọt".
Trí đưa mắt ngó đồng hồ tay :
- Quên bẵng đi, không viết mấy chữ xin phép ở nhà! Lỡ chưa về được ở nhà lại lo lắng!
Nghe Trí nói, tôi bất giác thấy trong lòng nhột nhạt. Cái gì lại: "nếu chưa về được!..." Vậy là thế nào? "Sếp" tôi hay có cái lối phát ngôn khiến người nghe cứ phải lạnh buốt xương sống.
Tiếng ông Bình-Be :
- Hai chú em cứ ngồi đây nghe! Để tôi đi dò xem lão Tể thuê lều câu ở chỗ nào!
Dứt lời, ông xuống xe tiến lại gần cánh cửa lớn. Giơ tay gõ cửa, ông hề ngay người đứng đợi. Hơn phút sau, ông nắm núm cửa xoay xoay và đẩy mạnh: Cánh cửa cứng ngắc. Vua hề quay ra nhìn chúng tôi :
- Nhà đi vắng cả!... À, kia! Có cái quán cà phê kia! Hai chú em vào đi! Cố hỏi tin tức xem sao. Tôi, người lớn, vào e có điều bất tiện.
Hai anh em bước vào bên trong quán. Người chủ đứng tại quầy thu tiền, miệng ngậm ống vố, hút thuốc nhả khói tùm lum. Nơi cuối gian hàng, dăm ông thợ câu đang ngồi tại bàn đánh xì phé.
Trí tiến lại quầy thu tiền hỏi thăm. Ông chủ quán trả lời chẳng biết ai là Đỗ-văn-Tể hết.
- Sao các chú không hỏi ông chủ hãng Sao Mai thử coi?
Trí đáp :
- Đã! Chúng tôi cũng có gọi cửa rồi nhưng không ai có mặt tại đó cả. Muốn gặp ông chủ Sao Mai thì kiếm ở đâu, thưa ông?
Chẳng hiểu tại sao, ông chủ quán cà phê, sau khi nghe Trí hỏi như thế lại phá lên cười sằng sặc. Rồi cả mấy ông khách hàng đang ngồi đánh bài phía kia nữa cũng thế. Ai nấy cùng cười rộ lên, có người bò cả ra bàn mà cười. Thật lạ!
Thấy chúng tôi ngơ ngác. Ông chủ quán liền lên tiếng. Tôi có cảm tưởng ông ta phải cố gắng lắm để nín cười mới có thể phát ngôn được :
- Thôi này! Các chú muốn kiếm ông Sao Mai hả? Đây, tôi bầy cho các chú cách này là tìm được ngay này... Các chú lấy một chiếc thuyền con, nghe! Xong nhẩy lên, chèo thuyền dạo khắp mặt hồ Thanh-Thủy này này! Không bao nhiêu! Chừng một trăm cây số vuông thôi hà! Riết rồi thế nào các chú cũng gặp được một ông già mũi đỏ như trái cà chua, tay cầm có tới năm, sáu chiếc cần câu ấy. Sao Mai là lão đó đó!... Cứ tìm lão trên mặt hồ là thấy hà! Đừng vào trụ sở hãng của lão. Vô ích! Không bao giờ lão ở đó đâu. Dân "ghiền câu" mà!
Có lẽ nét mặt thiểu não của chúng tôi đã khiến ông ta cảm động thực sự. Người chủ quầy quay nhìn vào nhà trong :
- Ê, tụi bây ơi! Có đứa nào biết ai là Đỗ-văn-Tể hay về câu cá tại đây không, hả?
Chẳng có ai trả lời. Cả đám ngư ông ngồi đánh bài cũng thản nhiên, đưa mắt nhìn lơ đãng.
Trí vẫn dai như đỉa đói :
- Ông Đỗ-văn-Tể, giám đốc đoàn xiếc Tâm-Lan hiện đang hạ trại trình diễn tại Thủ Đức đó, thưa ông!
Cả cái chi tiết khá rõ rệt đó cũng không có một tác dụng gì lên tia mắt lãnh đạm của những người hiện diện. Trong khi đó, thời gian cứ lặng lẽ trôi theo tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ cũ rích treo trên tường. Tiếng tích tắc từ nơi quả lắc đen sì như rút ngắn lại cái thời gian mỏng manh hy vọng. Liếc mắt nhìn quanh, tôi thấy rõ đôi vai của Trí nhẹ rung rung và như sắp xuội xuống.
Không hiểu tại sao, tự nhiên tôi buột miệng :
- Ông Đỗ-văn-Tể có cái xe hơi mui trần, sơn màu xanh da trời đó, ông à!
- A! Vậy hả? A, Đỗ-văn-Tể là người có cái xe hơi màu xanh mui trần?
Tiếng hỏi to làm tôi quay ngoắt người nhìn lại: một ông già có hàm râu thật rậm, miệng phì phà ống điếu, đưa đôi mắt đục ngầu ngó tôi lom lom.
Trí sáp tới gần, giọng anh chứa chan hy vọng :
- Thưa cụ, cụ biết ông Tể?
Ông cụ già ho sù sụ :
- Không... biết thì không biết! Có điều tôi đã gặp một người lái chiếc xe hơi màu xanh chạy ngang đây. Ông ta hút, úi chao! Một loại xì gà chẳng hiểu mua ở đâu mà quý thế, bự lắm mà thơm vô kể. À, mà, không hiểu sao trên quần áo, đồ đạc của ông ta, chỗ nào cũng thấy có những hình mặt hề bằng đồng bóng loáng hà.
Tôi đưa mắt nhìn Trí. Anh khẽ gật. Chúng tôi đã đi đúng đường săn đuổi.
Trí hỏi ông cụ :
- Cụ có biết ông Tể thuê lều câu ở chỗ nào không cụ ?
- Thuê lều câu ?... À, có, có đấy ! Ông già chủ hãng Sao Mai cũng có nói chuyện với tôi. Lão mới cho thuê căn lều Xuân-Sơn thì phải. Phía đầu đường đằng kia kìa. Mà chẳng hiểu người thuê là ai chứ !
Trí nhìn theo hướng cánh tay chỉ :
- Đi lối nào thì tới nơi hả cụ ?
- Khó gì đâu ! Chú em cứ đi tới mút đầu con lộ này, nơi đó rẽ ra hai lối. Đi theo lối bên trái.
Tiếng một người khác :
- Đâu phải ! Quẹo tay mặt chớ !
Cụ già nổi giận :
- Tay trái ! Ngày nào lão cũng đi về nẻo đó mà. Nói ẩu hoài !
Lời qua tiếng lại. Cụ già nói tay trái, một ông khách nói tay phải rồi cứ phải phải trái trái hoài tưởng chừng chẳng bao giờ chấm dứt cái cuộc tranh luận gay go không đâu ấy. Tôi bấm tay Trí. Hai anh em cúi chào ông cụ chỉ đường rồi rút lui thật nhanh.
Ra tới cửa, tiếng cãi cọ vẫn còn om sòm phía sau lưng.
Trí chạy ra nói với ông Bình-Be mọi tin tức hai anh em thâu lượm được. Biết được Đỗ-văn-Tể hiện đã thuê một căn lều để câu cá tại đây. Thế là đủ. Lại biết cả tên lều Xuân-Sơn nữa. Rõ rệt lắm rồi.
Ông Bình-Be cho xe quẹo tay trái. Ngồi chót vót lên mỏm cái dựa lưng, tôi cảm thấy trống ngực đập thình thịch. Trong lúc mải mê đi hỏi thăm tin tức, tôi quên hẳn sợ hãi. Giờ đây, trên đường ruồng xét kẻ địch, tôi mới thấy nổi da gà.
Con đường, xuyên qua nhiều bãi sậy rậm, chạy song song với bờ hồ. Mặt nước trắng xóa, in hình qua những kẽ lá cây, sáng lấp lánh. Càng tiến tới, không khí bên ngoài và ngay cả ở trong xe càng có một vẻ gì nặng nề đe dọa.
Ông Bình-Be thận trọng cầm lái, mắt chăm chú nhìn mặt đường. Cứ tới gần một căn lều nào đó, xe lại chạy chậm lại để hai anh em có thể đọc được hàng chữ ghi trên bảng cây. Thì giờ vẫn vun vút trôi nhanh. Cả ba chúng tôi ai nấy đều nóng ruột như có lửa đốt. Một phút trôi qua là một phần hy vọng tiêu tan như mây khói.
Kia rồi, một chiếc bảng gỗ kẻ sơn trắng. Xe tiến lại gần, Trí và tôi cùng đọc : Lý-Ngư ! Không phải ! Xe lại tiếp tục lăn bánh. Một căn lều nữa xuất hiện. Trí khẽ kêu :
- Ồ ! Mai-Lan ! Bỏ đi !
Ông Bình-Be lại lao xe vun vút. Rừng cây thưa dần, đột nhiên, tiếng Trí :
- Kia rồi !
Nhìn theo tay anh chỉ, tôi nhận ra một tấm biển gỗ đã cũ mọt, tróc cả sơn. Phải khó khăn lắm mới đọc nổi hai chữ "Xuân-Sơn". Tấm biển được đóng trên đầu một chiếc cọc gỗ lớn có vẽ kèm mũi tên chỉ con đường mòn dẫn vào một căn nhà bằng gỗ nhỏ lợp mái tôn sơn đỏ thấp thoáng sau tàng cây lá rậm xanh um.
Ông Bình-Be hạ thấp giọng :
- Tôi tìm chỗ quay xe, nghe ! Hai chú em ! Trường hợp cần rút lui khẩn cấp mới sẵn sàng "dọt" ngay được chứ !
Dứt lời, ông nhẹ tay cho xe trở đầu, tắt máy, đậu lại cách vệ đường mòn chừng 20 thước.
Rồi ông vua hề ghé tai hai anh em, đôi mắt ông sáng lên, vẻ mặt quyết liệt :
- Bây giờ đến phiên tôi ra tay nghe, hai chú em ! Các chú còn bé, nguy hiểm lắm. Cứ đợi tôi ở đây nhé !
Trí nói ngay :
- Không ! Ông Bình-Be để chúng cháu đi với !
Vua hề ngập ngừng, do dự. Cho tới bây giờ, lúc nào Trí cũng là vị chỉ huy mọi cuộc "hành quân". Chính ông Bình-Be cùng đã nhiều lần gật đầu nhìn nhận cái tài hiếm có của anh. Nhưng lần này thì... không thể được. Gần một phút sau ông mới trầm giọng nói :
- Hai chú em phải nghe tôi mới được ! Lẽ ra tôi không nên để hai chú em dính dáng vào vụ rắc rối này mới phải. Hai anh em hãy còn ít tuổi, non nớt quá, lỡ một cái... có thể nguy hại ghê lắm chớ không vừa đâu.
Trí gật đầu cương quyết :
- Ông Bình-Be cứ yên tâm mà ! Chúng cháu lanh lắm. Không lo gì đâu !
Ông hề khẽ gật đầu, hàm răng cắn viền môi dưới :
- Thôi được ! Nếu vậy thì hai chú có thể theo tôi đi một quãng ngắn thôi. Nhưng phải hứa với tôi là sẽ lập tức chạy nhanh về tìm chỗ trốn trong xe hơi của tôi, nếu có cái gì nguy hiểm nghe !
Trí gật đầu lia lịa :
- Vâng ! Vâng ! Cháu xin hứa với ông Bình-Be đúng như vậy !
Tôi cũng vội hùa theo :
- Vâng ! Đúng như vậy ! Đúng như vậy !
Xe của ông Bình-Be ra tới xa lộ, chạy được một quãng thì dừng lại đổ xăng. Chúng tôi lên tiếng hỏi người bán xăng đường vào khu hồ Thanh-Thủy ở ấp Đống-Đa. Ông ta chỉ tay về phía bên phải :
- Đây, con đường này! Từ đây vào đó khoảng mười cây số.
Đường trải đất đỏ nhưng khô ráo, mặt đường tốt lắm. Ông Bình-Be phóng xe vun vút. Chưa đầy mười phút sau, cả bọn đã tới bờ nước. Đến đây, ông hề phải giảm bớt tốc lực vì đường đã bắt đầu quanh co khó đi, lại nhỏ hẹp nữa.
Khoảng năm giờ chiều, xe dừng trước một căn nhà khá lớn trong ấp Đống-Đa. Trên khuôn cửa cao, một biển gỗ lớn nằm ngang, Và chúng tôi đọc: "Hãng Sao Mai. Tiểu công nghệ và chăn nuôi trồng trọt".
Trí đưa mắt ngó đồng hồ tay :
- Quên bẵng đi, không viết mấy chữ xin phép ở nhà! Lỡ chưa về được ở nhà lại lo lắng!
Nghe Trí nói, tôi bất giác thấy trong lòng nhột nhạt. Cái gì lại: "nếu chưa về được!..." Vậy là thế nào? "Sếp" tôi hay có cái lối phát ngôn khiến người nghe cứ phải lạnh buốt xương sống.
Tiếng ông Bình-Be :
- Hai chú em cứ ngồi đây nghe! Để tôi đi dò xem lão Tể thuê lều câu ở chỗ nào!
Dứt lời, ông xuống xe tiến lại gần cánh cửa lớn. Giơ tay gõ cửa, ông hề ngay người đứng đợi. Hơn phút sau, ông nắm núm cửa xoay xoay và đẩy mạnh: Cánh cửa cứng ngắc. Vua hề quay ra nhìn chúng tôi :
- Nhà đi vắng cả!... À, kia! Có cái quán cà phê kia! Hai chú em vào đi! Cố hỏi tin tức xem sao. Tôi, người lớn, vào e có điều bất tiện.
Hai anh em bước vào bên trong quán. Người chủ đứng tại quầy thu tiền, miệng ngậm ống vố, hút thuốc nhả khói tùm lum. Nơi cuối gian hàng, dăm ông thợ câu đang ngồi tại bàn đánh xì phé.
Trí tiến lại quầy thu tiền hỏi thăm. Ông chủ quán trả lời chẳng biết ai là Đỗ-văn-Tể hết.
- Sao các chú không hỏi ông chủ hãng Sao Mai thử coi?
Trí đáp :
- Đã! Chúng tôi cũng có gọi cửa rồi nhưng không ai có mặt tại đó cả. Muốn gặp ông chủ Sao Mai thì kiếm ở đâu, thưa ông?
Chẳng hiểu tại sao, ông chủ quán cà phê, sau khi nghe Trí hỏi như thế lại phá lên cười sằng sặc. Rồi cả mấy ông khách hàng đang ngồi đánh bài phía kia nữa cũng thế. Ai nấy cùng cười rộ lên, có người bò cả ra bàn mà cười. Thật lạ!
Thấy chúng tôi ngơ ngác. Ông chủ quán liền lên tiếng. Tôi có cảm tưởng ông ta phải cố gắng lắm để nín cười mới có thể phát ngôn được :
- Thôi này! Các chú muốn kiếm ông Sao Mai hả? Đây, tôi bầy cho các chú cách này là tìm được ngay này... Các chú lấy một chiếc thuyền con, nghe! Xong nhẩy lên, chèo thuyền dạo khắp mặt hồ Thanh-Thủy này này! Không bao nhiêu! Chừng một trăm cây số vuông thôi hà! Riết rồi thế nào các chú cũng gặp được một ông già mũi đỏ như trái cà chua, tay cầm có tới năm, sáu chiếc cần câu ấy. Sao Mai là lão đó đó!... Cứ tìm lão trên mặt hồ là thấy hà! Đừng vào trụ sở hãng của lão. Vô ích! Không bao giờ lão ở đó đâu. Dân "ghiền câu" mà!
Có lẽ nét mặt thiểu não của chúng tôi đã khiến ông ta cảm động thực sự. Người chủ quầy quay nhìn vào nhà trong :
- Ê, tụi bây ơi! Có đứa nào biết ai là Đỗ-văn-Tể hay về câu cá tại đây không, hả?
Chẳng có ai trả lời. Cả đám ngư ông ngồi đánh bài cũng thản nhiên, đưa mắt nhìn lơ đãng.
Trí vẫn dai như đỉa đói :
- Ông Đỗ-văn-Tể, giám đốc đoàn xiếc Tâm-Lan hiện đang hạ trại trình diễn tại Thủ Đức đó, thưa ông!
Cả cái chi tiết khá rõ rệt đó cũng không có một tác dụng gì lên tia mắt lãnh đạm của những người hiện diện. Trong khi đó, thời gian cứ lặng lẽ trôi theo tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ cũ rích treo trên tường. Tiếng tích tắc từ nơi quả lắc đen sì như rút ngắn lại cái thời gian mỏng manh hy vọng. Liếc mắt nhìn quanh, tôi thấy rõ đôi vai của Trí nhẹ rung rung và như sắp xuội xuống.
Không hiểu tại sao, tự nhiên tôi buột miệng :
- Ông Đỗ-văn-Tể có cái xe hơi mui trần, sơn màu xanh da trời đó, ông à!
- A! Vậy hả? A, Đỗ-văn-Tể là người có cái xe hơi màu xanh mui trần?
Tiếng hỏi to làm tôi quay ngoắt người nhìn lại: một ông già có hàm râu thật rậm, miệng phì phà ống điếu, đưa đôi mắt đục ngầu ngó tôi lom lom.
Trí sáp tới gần, giọng anh chứa chan hy vọng :
- Thưa cụ, cụ biết ông Tể?
Ông cụ già ho sù sụ :
- Không... biết thì không biết! Có điều tôi đã gặp một người lái chiếc xe hơi màu xanh chạy ngang đây. Ông ta hút, úi chao! Một loại xì gà chẳng hiểu mua ở đâu mà quý thế, bự lắm mà thơm vô kể. À, mà, không hiểu sao trên quần áo, đồ đạc của ông ta, chỗ nào cũng thấy có những hình mặt hề bằng đồng bóng loáng hà.
Tôi đưa mắt nhìn Trí. Anh khẽ gật. Chúng tôi đã đi đúng đường săn đuổi.
Trí hỏi ông cụ :
- Cụ có biết ông Tể thuê lều câu ở chỗ nào không cụ ?
- Thuê lều câu ?... À, có, có đấy ! Ông già chủ hãng Sao Mai cũng có nói chuyện với tôi. Lão mới cho thuê căn lều Xuân-Sơn thì phải. Phía đầu đường đằng kia kìa. Mà chẳng hiểu người thuê là ai chứ !
Trí nhìn theo hướng cánh tay chỉ :
- Đi lối nào thì tới nơi hả cụ ?
- Khó gì đâu ! Chú em cứ đi tới mút đầu con lộ này, nơi đó rẽ ra hai lối. Đi theo lối bên trái.
Tiếng một người khác :
- Đâu phải ! Quẹo tay mặt chớ !
Cụ già nổi giận :
- Tay trái ! Ngày nào lão cũng đi về nẻo đó mà. Nói ẩu hoài !
Lời qua tiếng lại. Cụ già nói tay trái, một ông khách nói tay phải rồi cứ phải phải trái trái hoài tưởng chừng chẳng bao giờ chấm dứt cái cuộc tranh luận gay go không đâu ấy. Tôi bấm tay Trí. Hai anh em cúi chào ông cụ chỉ đường rồi rút lui thật nhanh.
Ra tới cửa, tiếng cãi cọ vẫn còn om sòm phía sau lưng.
Trí chạy ra nói với ông Bình-Be mọi tin tức hai anh em thâu lượm được. Biết được Đỗ-văn-Tể hiện đã thuê một căn lều để câu cá tại đây. Thế là đủ. Lại biết cả tên lều Xuân-Sơn nữa. Rõ rệt lắm rồi.
Ông Bình-Be cho xe quẹo tay trái. Ngồi chót vót lên mỏm cái dựa lưng, tôi cảm thấy trống ngực đập thình thịch. Trong lúc mải mê đi hỏi thăm tin tức, tôi quên hẳn sợ hãi. Giờ đây, trên đường ruồng xét kẻ địch, tôi mới thấy nổi da gà.
Con đường, xuyên qua nhiều bãi sậy rậm, chạy song song với bờ hồ. Mặt nước trắng xóa, in hình qua những kẽ lá cây, sáng lấp lánh. Càng tiến tới, không khí bên ngoài và ngay cả ở trong xe càng có một vẻ gì nặng nề đe dọa.
Ông Bình-Be thận trọng cầm lái, mắt chăm chú nhìn mặt đường. Cứ tới gần một căn lều nào đó, xe lại chạy chậm lại để hai anh em có thể đọc được hàng chữ ghi trên bảng cây. Thì giờ vẫn vun vút trôi nhanh. Cả ba chúng tôi ai nấy đều nóng ruột như có lửa đốt. Một phút trôi qua là một phần hy vọng tiêu tan như mây khói.
Kia rồi, một chiếc bảng gỗ kẻ sơn trắng. Xe tiến lại gần, Trí và tôi cùng đọc : Lý-Ngư ! Không phải ! Xe lại tiếp tục lăn bánh. Một căn lều nữa xuất hiện. Trí khẽ kêu :
- Ồ ! Mai-Lan ! Bỏ đi !
Ông Bình-Be lại lao xe vun vút. Rừng cây thưa dần, đột nhiên, tiếng Trí :
- Kia rồi !
Nhìn theo tay anh chỉ, tôi nhận ra một tấm biển gỗ đã cũ mọt, tróc cả sơn. Phải khó khăn lắm mới đọc nổi hai chữ "Xuân-Sơn". Tấm biển được đóng trên đầu một chiếc cọc gỗ lớn có vẽ kèm mũi tên chỉ con đường mòn dẫn vào một căn nhà bằng gỗ nhỏ lợp mái tôn sơn đỏ thấp thoáng sau tàng cây lá rậm xanh um.
Ông Bình-Be hạ thấp giọng :
- Tôi tìm chỗ quay xe, nghe ! Hai chú em ! Trường hợp cần rút lui khẩn cấp mới sẵn sàng "dọt" ngay được chứ !
Dứt lời, ông nhẹ tay cho xe trở đầu, tắt máy, đậu lại cách vệ đường mòn chừng 20 thước.
Rồi ông vua hề ghé tai hai anh em, đôi mắt ông sáng lên, vẻ mặt quyết liệt :
- Bây giờ đến phiên tôi ra tay nghe, hai chú em ! Các chú còn bé, nguy hiểm lắm. Cứ đợi tôi ở đây nhé !
Trí nói ngay :
- Không ! Ông Bình-Be để chúng cháu đi với !
Vua hề ngập ngừng, do dự. Cho tới bây giờ, lúc nào Trí cũng là vị chỉ huy mọi cuộc "hành quân". Chính ông Bình-Be cùng đã nhiều lần gật đầu nhìn nhận cái tài hiếm có của anh. Nhưng lần này thì... không thể được. Gần một phút sau ông mới trầm giọng nói :
- Hai chú em phải nghe tôi mới được ! Lẽ ra tôi không nên để hai chú em dính dáng vào vụ rắc rối này mới phải. Hai anh em hãy còn ít tuổi, non nớt quá, lỡ một cái... có thể nguy hại ghê lắm chớ không vừa đâu.
Trí gật đầu cương quyết :
- Ông Bình-Be cứ yên tâm mà ! Chúng cháu lanh lắm. Không lo gì đâu !
Ông hề khẽ gật đầu, hàm răng cắn viền môi dưới :
- Thôi được ! Nếu vậy thì hai chú có thể theo tôi đi một quãng ngắn thôi. Nhưng phải hứa với tôi là sẽ lập tức chạy nhanh về tìm chỗ trốn trong xe hơi của tôi, nếu có cái gì nguy hiểm nghe !
Trí gật đầu lia lịa :
- Vâng ! Vâng ! Cháu xin hứa với ông Bình-Be đúng như vậy !
Tôi cũng vội hùa theo :
- Vâng ! Đúng như vậy ! Đúng như vậy !
_________________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG XI