năm
Kết quả kỳ thi đệ nhị lục cá nguyệt thật khả quan. Tôi được xếp hạng nhất. Về Việt văn tôi cũng dẫn đầu lớp, chỉ kém về toán. Khi trao phiếu điểm và bảng danh dự cho tôi, thầy Việt văn khen: "Huyền học tấn tới lắm. Cứ tiếp tục như vậy cuối năm thi thế nào cũng đậu" – Tôi cảm thấy trong lòng một niềm vui dịu dàng lan rộng, nhưng đồng thời trong niềm vui này vẫn thoáng ngấm một nỗi lo lắng mơ hồ. Tôi nghĩ kỳ thi đệ nhị lục cá nguyệt vừa qua dù tốt đẹp cũng chưa thể là một quyết định cuối cùng. Đó mới chỉ là một bài làm nháp cho một cuộc thử thách dẫy đầy khó khăn sắp đến. Chỉ còn hơn hai tháng nữa tôi sẽ có mặt giữa hàng trăm, hàng ngàn thí sinh, những người xa lạ, chưa từng một lần gặp trong đời, trong một căn phòng hoàn toàn xa lạ của một ngôi trường cũng hoàn toàn xa lạ, để đem cái vốn học vấn nhỏ bé đã vun trồng trong suốt sáu năm trung học để đánh đổi lấy một khúc quanh mới cho cuộc đời, một khúc quanh vĩnh viễn, bỏ lại sau lưng những ngày tháng đèn khuya, những tiếng guốc khua mạnh trên mặt đường giữa đêm vắng, bỏ lại mầu áo trắng trinh nguyên, những người bạn, những con "vạc ăn đêm", một khúc quanh sung mãn những nuối tiếc... thế mà, chua xót thay, tôi sẽ phải, với tất cả cố gắng, chịu khó, đạt cho bằng được. Như một người rời bỏ bóng mát để dấn mình vào đám cháy. Nhưng dù sao tôi cũng chấp nhận nó. Nuối tiếc, nhưng tôi sẽ không oán trách, than vãn. Đền bù cho tôi sẽ là niềm hân hoan của ba, của mẹ, của các em. Tôi thầm xin cho được kết quả mỹ mãn, như đêm nay, trong kỳ thi tới.
Tấm bảng danh dự của tôi được mấy bàn ngồi cạnh truyền nhau xem và khi trở về tôi lại kèm theo một mảnh giấy con con với những hàng chữ do nhiều người viết tiếp nối nhau:
"Nhỏ Huyền! Đừng quên khao tụi tao. Tối mai một chầu bò viên – Vịt lộn – Bò bía – Chả giò. nghe mày".
Tôi cười, viết thêm vào ở dưới: "Chịu gấp, nhưng chúng mày ăn gì mà ăn lắm thế. Bố thí cho mỗi đứa một ly nước đá lạnh là... phúc lắm rồi" rồi đưa nhỏ Phượng, ra dấu bảo truyền đi. Tiếng khúc khích nổi lên sau lưng tôi. Nhỏ Thắm ngồi sau giựt mấy sợi tóc làm tôi suýt kêu lớn tiếng. Con nhỏ chơi thật ác!
Tôi mong chóng tan học để chạy ra khoe ba, về nhà khoe mẹ. Chắc ba mẹ sẽ mừng lắm.
Đêm nay thầy Việt văn cũng nói về thi cử. Và tôi ham nghe. Những ngày tháng đầu niên học, tôi thường khó chịu với những giáo sư nào lấy thi cử ra làm con ma dọa chúng tôi phải chăm học, phải làm mọt sách. Chỉ bởi tôi hoảng sợ trước một viễn ảnh: đoạn tuyệt cuộc sống học-trò-đèn-khuya để vào đời. Nhưng nay, đối diện với thực tế, tôi bình tĩnh hơn.
Lớp học bỗng reo vui khi thầy Việt văn bất ngờ hứa, sau những lời khuyên chân tình:
- Chương trình học, chúng ta đã thanh toán xong. Về kết quả thi của môn Việt văn tôi rất hài lòng. Để thưởng lớp, tôi có ý định mỗi tuần lễ, kể từ thứ hai tuần tới cho đến hè, sẽ mời một nhà văn mà tôi quen biết đến lớp nói chuyện với chúng ta, vừa để chúng ta có dịp nhìn tận mắt những người mà chúng ta hâm mộ qua tác phẩm, vừa để chúng ta thâu nhận một vài kinh nghiệm do chính các nhà văn đó nói trực tiếp với chúng ta...
Thầy chưa nói hết câu, nhỏ Thanh đã hét lên:
- Mời Mai Thảo, thầy!
Rồi cả lớp nhao nhao theo:
- Duyên Anh, thầy!
- Nhật Tiến!
- Quyên Di!
- Nguyễn Đình Toàn, thầy!
- Nhã Ca!
- ... ...
Thầy mỉm cười, giơ tay ra hiệu cho lớp lấy lại thinh lặng:
- Rất tiếc tôi chưa được hân hạnh quen biết những nhà văn lớn, nhưng tôi nghĩ nếu mời, họ cũng không từ chối, vì thực ra những người cầm bút họ rất cởi mở, không kiêu kỳ, thích được gặp gỡ độc giả. Tuy nhiên khởi đầu tôi sẽ mời những người bạn của tôi trước, những nhà văn này chuyên viết về lứa tuổi mới lớn, rồi tiếp theo là những người viết về lứa tuổi... đã lớn, đã già... Như vậy được không?
- Được, thầy!
- Hoan hô thầy!
Lại vẫn nhỏ Thanh lí lắc đứng lên:
- Thưa thầy, mời cả những nhà văn viết về tuổi... đã chết, thầy!
Lớp cười ồ lên. Thầy vẫn vui vẻ:
- Chấp thuận! Để tôi xuống... âm phủ mời nhé.
- Mời ai thầy?
- ... Tôi!
Lớp lại cười. Bầu không khí trở nên thân mật. Như một gia đình. Trong những giáo sư phụ trách năm nay, tôi biết, không phải mình tôi, nhiều nhỏ khác trong lớp đã dành thiện cảm cho thầy Việt văn. Chỉ tại thầy hiểu, sống gần tuổi trẻ, cảm thông với hoàn cảnh của học trò đèn khuya. Nhớ lại đêm đầu thầy bước vào lớp, tôi như còn sống trong một cảm giác dịu dàng. Tôi những tưởng bộ mặt nghiêm nghiêm của thầy sẽ là dấu hiệu của một khắt khe gò bó, đóng kín, nhưng chỉ sau hai giờ đầu, những cảm nghĩ trên nhẹ tan, nhường chỗ cho những hy vọng, cho gần gũi, kính mến. Thầy nói rằng thầy đến lớp thích với tính cách là một người bạn hơn là một giáo sư vì chỉ với bạn chúng ta mới dễ cảm thông, dễ chân thật. Và xin mọi người đừng coi lớp học như một nhà tù với những kỷ luật nghiêm khắc, nhưng hãy quan niệm như một gia đình, trong đó có những vui, buồn, nhưng cũng có tình thương và cởi mở, có đối thoại giữa những người thân với nhau... Thầy còn nói thêm rằng:
- Tôi rất cảm thông hoàn cảnh của những học sinh lớp đêm. Cứ kể như đó là một sự thiệt thòi đi, vì trong lúc thiên hạ sửa soạn dùng cơm chiều thì học sinh lớp đêm nhịn đói đến trường, trong khi mọi người, sau một ngày hoạt động được nghỉ ngơi thì học sinh lớp đêm lại vẫn phải tiếp tục làm việc bằng trí óc, phải chống trả với mệt mỏi, với những cơn buồn ngủ... dưới ánh đèn khuya, tuy nhiên khi ghi tên dự thi vào lớp đêm, mặc nhiên chúng ta đã chấp nhận một sự chiến đấu, một ý muốn khuất phục hoàn cảnh, một hoài bão vươn lên... thì chúng ta sẽ cùng nhau cố gắng đi hết đoạn đường trung học còn lại. Chúng ta tin tưởng vì không có sự cố gắng nào lại không được đền bù.
Tinh thần gia đình, cởi mở và đối thoại trên đây thầy đem ra áp dụng trong suốt niên học. Thành thử những giờ Việt văn thường đem lại nhiều vui thích, nhiều thoải mái. Những bài cổ văn khô như củi vẫn được kèm theo những nụ cười, những tươi mát. Thỉnh thoảng thầy vẫn dành mươi, mười lăm phút cuối giờ học để "đi ra ngoài đời một chút". Thầy bầy tỏ quan niệm "học đường là nơi chúng ta đến để thu nhận, dự trữ một số vốn để áp dụng sau này cho cuộc đời thì tại sao chúng ta lại tránh né không dám nói tới những gì liên quan đến cuộc đời? Miễn là đứng đắn và thẳng thắn. Tôi sẽ trả lời hết những câu hỏi do lớp nêu ra...". Nhỏ Phượng giơ tay, xin nói:
- Thưa thầy, cả về tình yêu?
- Cả về tình yêu. Đó là vấn đề mật thiết nhất với con người chúng ta.
Và thầy đã chiếm được sự cảm kính của học trò.
Hai giờ học sau qua chóng. Chuông reo. Như những con ong vỡ tổ, các bàn đầu ùa ra một lượt. Tôi và một vài đứa chạy lên vây quanh thầy Việt văn hỏi tiếp về câu chuyện mời văn sĩ đến lớp. Nhỏ nào cũng muốn biết tên của nhà văn sẽ được mời đầu tiên. Nhưng thầy vẫn trả lời tôi chưa dự định mời ai. Còn để xem ai rảnh vào tối thứ hai tới tôi mới "xách" đến được chứ. Nói trước rồi không mời được lớp lại "kiện" tôi thì sao?
Lúc sau tôi ra khỏi lớp, vội vã xuống cầu thang. Tôi muốn đi nhanh ra với ba để khoe kết quả kỳ thi. Mấy nhỏ bạn thấy tôi, gọi ê, cô tú tương lai. Tôi quay lại, mỉm cười, giơ tay vẫy rồi chen vào đám đông. Vừa thoát ra khỏi những hàng xe, lớp người, chân tôi bỗng khựng lại khi tôi nhìn thấy ba đang đứng nói chuyện với anh Long. Nhỏ Dung cũng đứng gần đó, hướng mắt về phía cổng trường như muốn tìm ai. Vẫn chưa quên câu chuyện bỏ học rồi bị đuổi nhưng sau được anh Long cứu, tôi muốn lùi gót. lánh mặt nhưng đã muộn ; nhỏ Dung nhận ra tôi, gọi lớn:
- Huyền! Huyền!
Ba và anh Long quay lại cùng một lượt. Tim tôi đập mạnh ; đôi chân luống cuống. Tôi lo lo. Anh Long lên tiếng trước:
- Huyền giỏi quá, anh vừa nghe Dung nói Huyền đứng nhất kỳ thi đệ nhị lục cá nguyệt.
Tôi không biết trả lời sao, chỉ thoáng nghĩ nhỏ Dung thiệt tệ, cái gì cũng đem nói với "người ta". Mà sao nó biết nhanh thế. Chắc có nhỏ nào trong lớp đi phao tin đây mà - Nhỏ Dung nắm lấy tay tôi, nói chờ bồ mãi. Nó tự nhiên, như đã không có tin gì xảy ra. Ba vẫn đứng yên, khoanh tay trước ngực. Tuy nhiên trên khuôn mặt của ba, tôi đọc được những nét vui mừng, hãnh diện. Sau những phút đầu bối rối, ngượng nghịu tôi cũng đã lấy lại được vẻ tự nhiên. Tôi hỏi ba một câu bâng quơ:
- Ba tới lâu chưa ba?
- Cũng mới thôi. Tới đây gặp cậu Long, nói chuyện được một lát thì con ra.
Câu chuyện giữa chúng tôi xoay quanh việc học và thi cử. Thỉnh thoảng tôi phải cúi xuống hay nhìn đi chỗ khác để tránh ánh mắt của anh Long. Một điều làm tôi chú ý là trong những câu nói với tôi, anh Long đã dùng tiếng "Huyền" để thay thế tiếng "cô bé" thường dùng. Điều này làm dạt dào thêm niềm vui trong tôi. Bây giờ thì ba và anh Long nói chuyện riêng. Một hình ảnh thân mật hiện ra trong đầu làm tôi cảm thấy thèn thẹn. Tiếng nhỏ Dung vẫn liến thoắng bên tai tôi. Nó kể thật nhiều chuyện. Như để đền bù những ngày hai đứa giận nhau. Tôi hỏi nhỏ Dung kết quả kỳ thi lục cá nguyệt, nó trả lời lớp nó chưa phát phiếu điểm và các giáo sư chưa phê xong. Tôi cũng thuật lại cho Dung nghe việc thầy Việt văn dự tính mời một số nhà văn bạn của thầy tới lớp nói chuyện. Nhỏ Dung nói lớn vậy sao, thích quá há, đến tối đó, mày nhớ nhắc tao, tao lên dự với. Trao đổi những mẩu đối thoại vụn vặt, nhưng tuyệt nhiên hai đứa không nói với nhau một điều gì liên quan đến chuyện cũ.
Con đường trước mặt trường học đã vắng người. Bên trong, trừ vùng ngọn đèn gắn trên tấm vảng thông cáo, còn các tầng nhà đều chìm trong bóng tối mờ nhạt, im lìm, buồn bã. Trước cổng còn vài con "vạc ăn đêm" đứng chờ người nhà tới đón. Tôi bắt tội nghiệp mấy nhỏ đó. Tôi nhớ lại cũng đã có lần ba tới muộn vì xe hư dọc đường ; tôi phải đứng chờ cả tiếng đồng hồ trong bồn chồn, lo sợ, rồi khóc. Sợ nhất là lâu lâu lại một thằng đàn ông dừng xe lại, chọc ghẹo thật nham nhở. Không người con gái nào ra đường ban đêm lại không cảm thấy những đe dọa, huống gì những học trò đèn khuya chúng tôi lạc lõng, đơn côi bên vệ đường. Những bất trắc, hiểm nguy chỉ chờ lúc thuận tiện là ập tới. Chính những giây phút này người ta mới thấy rõ thân phận của những học trò đèn khuya.
Tiếng ba gọi cắt đứt ý nghĩ của tôi:
- Huyền, thôi về con.
Tôi nhắc nhỏ Dung thêm một lần nữa điều tôi đã nói với nó lúc nãy:
- Chiều mai nhớ đi sớm đó.
- Yên chí. À mày tính rủ những nhỏ nào?
- Mấy đứa ngồi cạnh tao thôi.
- Được rồi, tao cho mày cháy túi luôn.
Chúng tôi cười. Xe của ba đã nổ máy. Khi chào anh Long, tôi đánh bạo nhìn sâu vào mắt anh. Như để cảm ơn anh đã đưa tôi ra khỏi cảnh ngộ đan rối. Như để truyền đến anh niềm lâng lâng hiện hữu trong tâm hồn. Như để nói với anh những gì tôi không bày tỏ được. Anh cũng nhìn lại tôi ; ánh mắt thật dịu ; giọng anh thật nhẹ:
- Huyền về nghe. Đêm ngủ ngon.
Tôi ấp úng trong cổ họng:
- Dạ... Cám ơn anh.
Ba bắt tay anh Long rồi rồ máy. Tôi ngoái cổ lại, giơ tay làm như vẫy nhỏ Dung, nhưng thật ra trong thâm tâm tôi muốn dành cử chỉ chân tình này cho riêng anh Long. Anh Long mà thôi.
Trên bầu trời, đêm nay, đầy sao lấp lánh.
Có thể nói từ khi học lớp đêm, chưa bao giờ tôi dùng cơm ngon như đêm nay. Chỉ tại trong tôi đang ngập tràn một niềm vui khó tả. Tôi không còn thấy như những đêm trước vị nguội lạnh của thức ăn, vị khô cứng của những hạt cơm, sự khuya khoắt của giờ giấc cũng như sự mệt mỏi của thân xác và trí não. Hình ảnh anh Long và giọng nói của nhỏ Dung hiện đến, rõ rệt khiến tôi có cảm tưởng như có thực. Tôi không ngờ cơn biển động lại trở lại bình yên dễ dàng đến thế. Tôi những tưởng sẽ không bao giờ còn dám gặp lại anh Long và nhỏ Dung. Cuộc gặp gỡ hồi nẫy cho tôi thấy rằng sự khắc khoải của tôi chỉ như tấm màn nhện trên cành cây, chỉ cần một cơn gió cũng đủ làm đứt hết. Điều này cũng cho phép tôi nghĩ rằng mọi việc trên đời đều có một kết thúc của nó, rồi đều sẽ êm xuôi, bằng cách này hay cách khác. Miễn là tới lúc thích hợp. Mấy ngày trước có lẽ tôi đã quá quan trọng hóa vấn đề. Nhưng biết sao, ở tuổi mới lớn ai chả vậy, cứ hay nhìn cuộc đời qua ngõ những khó khăn ; nhưng rồi chính những hoàn cảnh lại tạo sự hăm hở sống cho tuổi trẻ.
Tôi không nghĩ ngợi gì nữa. Tiếng ba mẹ nói chuyện rì rầm trên nhà. Tôi ngừng nhai cơm, lắng nghe. Tại sao lại có tên tôi, tên anh Long trong câu chuyện? Tôi bỏ dở bữa ăn ra bàn rót nước. Chất nóng của ly nước chè làm tôi tỉnh táo hơn. Tôi ngạc nhiên vẫn thấy ba mẹ nhắc đến tên tôi và anh Long. Khoảng cách từ nhà xuống bếp khá dài khiến tôi không hiểu rõ đầu đuôi. Chừng tôi chợt đoán ra câu chuyện, tôi cảm thấy mặt mũi nóng ran. Tôi đưa ly nước lên miệng uống cạn để trấn tĩnh sự bối rối. Tôi có cảm tưởng như có một cái gì mới lạ lắm sắp đến với đời tôi. Tôi không dám đi lên nhà, sợ nhìn thấy ba mẹ. Thu dọn xong, tôi lén vào giường. Cơn thèn thẹn vẫn bám trên da thịt. Tôi quơ chiếc chăn ôm vào lòng. Cho đỡ trống trải. Mãi lâu lắm tôi mới trở lại trạng thái bình thường.
Tôi duỗi tay chân cho thoải mái. Đã hơn một tháng, đêm nay tôi mới được rảnh rang như thế này. Kỳ thi đệ nhị lục cá nguyệt làm tôi tối tăm mặt mũi. Bài vở dồn dập. Sáng nào tôi cũng phải dậy sớm để ôn bài, sau đó sửa soạn hàng cho mẹ. Thấy tôi gần thi, mẹ cũng bảo hay mày ở nhà ít bữa đi, nhưng tôi trả lời không sao đâu mẹ ạ. Nói vậy nhưng tôi lo lắng vô cùng. Tôi dự định lợi dụng kỳ thi cuối năm này học thật kỹ các môn để sửa soạn luôn cho kỳ thi thực sự. Sợ rằng nếu đổ dồn vào thời gian cuối có thể tôi sẽ luống cuống, vội vã mà không đạt được ý muốn. Thành thử cứ ngưng tay được phút giây nào tôi lại cầm đến sách. Ngay ở ngoài chợ, khi hàng vắng khách, tôi lại học. Đêm ở trường về, mặc dầu cũng đã mỏi mệt, tôi vẫn thắp đèn ngồi học đến quá nửa khuya. Tôi nghĩ đến những nhỏ bạn cùng lớp và thấy nhiều đứa may mắn hơn tôi. Ban ngày, nếu không đi học thêm sinh ngữ hay một môn học còn kém nào đó, chúng ở nhà làm những gì mình thích hoặc kéo tới nhà bạn nói chuyện phiếm hay cùng lắm phụ giúp mẹ trong những công việc vặt như giặt giũ nấu nướng. Chúng thừa thời giờ để học. Nghĩ vậy nhưng tôi không ghen tị. Những đêm đèn khuya hay đúng hơn cả dĩ vãng đã dạy cho tôi biết mỗi người có một định mệnh, một hoàn cảnh. Không ai giống ai. Tuy nhiên ai cũng phải đi trọn con đường của mình, phải sống cuộc đời của mình. Có điều người ta băn khoăn chỉ vì không biết trên đường đi, trong cuộc đời và ở đoạn cuối có sẵn những gì. Chính tôi cũng đã gặp vấn nạn này, hình như nhiều nhất kể từ khi tôi bước vào một giai đoạn mới của cuộc đời, giai đoạn tuổi mới lớn. Nhưng giờ thì tôi bình thản lắm. Và tôi cầu mong được như vậy mãi mãi.
- Chiều nay ba khỏi cần đưa con đi học. Con đi xe Lam.
- Sao mà con đi sớm vậy? Mới hơn bốn giờ.
- Con có hẹn với nhỏ Dung.
- Thế còn lúc về?
- Ba đón con, nghe ba.
- Ừ.
Tôi cầm cặp táp chạy vòng xuống nhà dưới tới bên mẹ đang ngồi nhặt rau, nói thầm vào tai:
- Mẹ cho con... ít chục.
Mẹ ngừng tay, lấy trong túi ra tờ giấy năm mươi đồng. Tôi phụng phịu:
- Ít vậy mẹ?
- Thì mày vừa nói ít chục là gì. Với lại đi xe Lam thì cần gì nhiều.
- Không phải. Con có chuyện cần.
- Chuyện gì?
Tôi không muốn giấu mẹ ý định khao mấy nhỏ bạn trong lớp như đã hứa đêm qua, nhưng tôi ngập ngừng mãi không biết phải nói sao cho gọn, cuối cùng đành nói vòng vo:
- Chuyện này cần ghê lắm.
Mẹ đưa thêm năm chục nữa. Tính nhẩm trong đầu con số bạn hữu, tôi thấy số tiền này cũng chưa đủ. Tôi lập lại câu nói hồi nãy:
- Ít vậy mẹ?
Mẹ nhăn mặt:
- Con này hay chưa? Mày tiêu cái gì thì phải nói rõ tao mới biết đường mà mò chứ.
- Tụi bạn đòi con... khao.
- Khao gì?
- Thì cái vụ con được bảng danh dự hồi tối qua đó.
- Úi giào, vẽ vời! Mai mốt thi mà không đỗ thì chết với tôi.
Vừa nói mẹ vừa lấy thêm tờ giấy một trăm. Tôi cười khúc khích, đỡ lấy tiền. Tôi cũng dặn mẹ tối mẹ đừng để phần cơm con. Trước khi quay đi, không hiểu sao lúc đó tôi lại ngồi xuống cạnh mẹ, gọi thầm:
- Mẹ!
Mẹ ngước mắt nhìn tôi, vẻ bỡ ngỡ:
- Gì nữa cô?
- ... Con thương mẹ!
Mẹ bật cười, mắng yêu:
- Bố mày a, tưởng gì. Lấy chồng được rồi đó cô ạ. Trẻ con mãi!
Tôi kêu ư, mẹ nói kỳ quá, con hổng chịu đâu, rồi chạy nhanh ra ngoài. Ba hạ tờ báo xuống, nói vọng theo:
- Phải cẩn thận xe pháo đấy.
- Dạ!
Tôi cười thầm. Gớm ba làm như con còn bé lắm mà phải dặn. Nhiều lúc nghĩ "giận" ba mẹ ghê vậy đó. Những chuyện thật nhỏ nhặt ba mẹ cũng nhắc chừng – Ra đường phải nhìn trước nhìn sau, không có xe hãy băng qua – Tối đi học, con Huyền nhớ đem theo cái áo len, đêm về lạnh lại đau – Con gái thì phải ăn nói cho nhỏ nhẹ – Mày ăn uống như vậy à... Tôi nghĩ những lời chỉ dẫn đó không cần thiết nữa. Bởi vì tôi không còn nhỏ dại gì. Dĩ nhiên tôi không muốn ai tham dự vào thế giới riêng của tôi. Tôi thích được tự mình tổ chức nếp sống, làm chủ những ý nghĩ và việc làm của tôi. Tôi thấy tôi đã lớn. Trái tim tôi đã biết rung động. Tâm tư cũng đã có những vương mắc. Trí óc đã biết thắp sáng một hình ảnh. Ước vọng đã phong phú dự tính mỹ miều của tương lai. Tôi cảm thấy mình đứng đắn và quan trọng hẳn lên. Thế mà ba mẹ cứ lo cho "con bé Huyền này".
Ra tới đầu ngõ, tôi gặp con Thảo đang đứng khóc. Dừng lại, tôi hỏi nó tại sao. Thảo chỉ tay ra đường, mếu máo:
- Anh Toàn không cho em đi theo.
- Thế anh toàn đâu rồi?
- Ở bùng binh ý.
Tôi cho Thảo năm đồng bạc kẽm rồi dỗ nó đi về kẻo mẹ la. Nó nín ngay. Tôi lấy khăn tay lau nước mắt còn ướt sũng trên khuôn mặt xạm nắng của nó. Tí xót xa trong lòng. Mỗi lần nghĩ đến các em còn nhỏ, tôi như chẳng còn thiết tha gì nữa, ngoài ước nguyện đi làm cho các em ăn học đến khôn lớn.
- Thôi cưng đi về nghe. Tối về chị mua bánh cho.
- Chị đừng cho anh Toàn cơ.
- Ừa.
Tôi đứng nhìn cho Thảo tung tăng chạy đến khuất bóng mới quay ra. Nhưng khi vừa ngẩng mặt lên tôi bỗng bắt gặp một người đứng nhìn tôi từ bao giờ. Tôi đỏ bừng mặt và thấy chân tay mình thừa thãi. Tôi đã biết người đó là ai rồi. Chiều nào cũng vậy anh chàng này như đứng đón tôi đi học ngang là nhìn theo và đêm nào trở về tôi cũng thấy anh chàng đã đứng tựa trước cửa. Tôi bực mình vì cái nhìn đến sỗ sàng của anh chàng. So với anh Long, chàng này thua xa. Người đâu mà có vẻ lì lợm, mặt lúc nào cũng như đăm chiêu, đầu tóc bù xù như chẳng bao giờ được chải lấy một lần. Tôi nghe mấy đứa bạn cùng xóm nói anh chàng đó là một sinh viên văn khoa. Tôi không tin, nhưng tôi cũng không tìm biết sự thật về anh chàng. Không cần thiết. Ngay sự có mặt của anh chàng trên bước đi ngang của tôi cũng không tạo được sự lưu tâm nơi tôi. Tôi biết có ít nhất hai, ba đứa trong xóm khoái anh chàng và chiều chiều thường kéo nhau ra đầu ngõ, nói cười thật lớn tiếng cốt để lôi sự chú ý của anh chàng. Tôi cười cười cho rằng mấy đứa bạn vô duyên. Riêng tôi, mỗi lần thấy anh chàng tôi lại... ghét cay ghét đắng. Tôi nhớ tới anh Long để xóa diệt hình ảnh của anh chàng này.
Tôi giận tôi đã bối rối vì một chuyện không đâu. Thôi không nghĩ nữa, tôi bước nhanh hơn ra đường phố.
Trường học vắng tanh. Các lớp ngày còn học. Tôi đi ra nơi hẹn với mấy nhỏ bạn. Đó là một quán hàng nằm phía trái ngôi trường. Gọi là "quán hàng" cho có tên vậy thôi. Thật ra chỉ là một mảnh vườn mà gia đình ông cai chùa "biến chế" ra để "câu" các nữ sinh bằng những trái cây, gói ô mai, những ly nước chanh, xí muội và một vài thức ăn thường được con gái ưa thích. Nhưng nơi đây thơ mộng. Những chiếc bàn, chiếc ghế nho nhỏ, xinh xinh được xếp rải rác trong vườn. Ngoài ra chủ nhân còn mắc hai, ba chiếc võng vào các thân cây để "khách hàng" ngồi hay nằm. Về đêm lại có ánh đèn mầu tạo cho khu vực một không khí thi vị. Ban ngày, nơi này là thế giới của học sinh ngày, nhưng chiều đến chúng tôi lại chiếm độc quyền. Khởi đầu thỉnh thoảng một vài bọn con trai các trường khác cũng kéo tới, nhưng sau có lẽ cảm thấy lạc lõng, trơ trẽn giữa những tà áo trắng, giữa những cái nguýt, những lời nói bóng nói gió... của chúng tôi, chúng không còn bén mảng tới nữa. Khi nào đông, chúng tôi trở nên mạnh bạo lắm.
Nhỏ Dung đến trước tôi. Thấy tôi, nó chạy ra. Tôi hỏi Dung:
- Tụi nó tới chưa?
- Mới có hai đứa.
- Nhỏ nào vậy?
- Con Phượng, con Hoa.
- Tụi mình cứ vào trước đi.
Chúng tôi gọi mỗi đứa một ly chanh muối. Một lúc sau mấy nhỏ bạn đến đông đủ. Bây giờ cả khu vườn vang đầy những tiếng nói cười của chúng tôi. Đứa đòi tôi cho ăn bò bía, đứa thích bì cuốn. Bà chủ quán nhìn chúng tôi cười. Cảnh này không lạ gì với bà, diễn ra hàng ngày. Bà thường tủm tỉm bảo các cháu vui như vậy bác thích lắm. Thấy bà dễ dãi, nhiều đứa đòi ăn chịu. Bà cũng bằng lòng. Học trò đèn khuya trường tôi vẫn gọi bà bằng má. Nhỏ Loan thường nói đùa tiếc rằng bà í không có con trai, nếu có thì nhất định tao sẽ làm đơn xin làm con dâu vô điều kiện.
Câu chuyện của chúng tôi lúc đầu quay quanh việc thi cử sắp đến. Nhưng sau nhỏ Hoa nói thôi tụi bay ơi đừng bàn tới nữa nghe nhức đầu và tổn thọ lắm, nói cái gì khác đi, lại được chuyển về các thầy, các cô, trong đó có việc giáo sư Việt văn hứa mời văn sĩ tới lớp nói chuyện. Đề tài nay gây nhiều thích thú cho những lời bàn tán. Đứa đoán nhà văn này, đứa quả quyết nhà văn kia. Ở lứa tuổi mới lớn này, chúng tôi hay mơ mộng, mà những cuốn tiểu thuyết, những bài thơ trữ tình là những chất xúc tác cho tâm hồn. Các văn thi sĩ đã trở thành thứ thần tượng. Thường đứa nào cũng chọn một tác giả làm "của riêng" mình. Chúng tôi thuộc thơ hơn thuộc bài. Những cuốn sổ dầy cộm, những chồng giấy pơ luya xanh, hồng đầy những bài thơ về tình yêu. Trong lớp nhiều khi chúng tôi như chăm chỉ chép bài do giáo sư đọc, nhưng thật ra đang nắn nót từng hàng chữ của một bài thơ. Những kỷ niệm này, tôi nghĩ, mãi mãi là chất xanh tươi cho cuộc đời. Bây giờ và sau này nữa.
Chúng tôi ngồi tán chuyện cho đến giờ vào học. Đứng lên, nhỏ Hoa vỗ tay vào bụng:
- No quá tụi bây ơi. Răng học được chừ? Bắt đền nhỏ Huyền đấy.
- Sướng chưa!
Dung xen vào:
- Cho mày chết Hoa ạ, ai bảo tham ăn.
Như không để ý đến lời của Dung, Hoa nói với một giọng sốt sắng, như vừa chợt tìm ra một điều gì mới lạ:
- Tao đề nghị với tụi bây: theo "ban C" tối nay đi.
Ý kiến của nhỏ Hoa bị phản đối ngay. Chuyện cũ vẫn chưa phai mờ trong ký ức.
- Thôi mày ơi, bộ lần trước chưa tởn sao?
- Mày có điên không đấy hả Hoa?
- Nó ăn no rồi đâm lú mề đấy mày!
- Sức mấy!
Tôi bất chợt gặp ánh nhìn của nhỏ Dung. Như hiểu ý nhau, cả hai đứa chúng tôi đều cười. Tôi vẫn còn cảm thấy thèn thẹn mỗi lần nghĩ tới chuyện đã qua.
Hai giờ học đầu trôi thật chậm, chán ngắt. Tôi thấy nằng nặng trong bụng. Buồn ngủ ghê. Mùi nhang đốt muỗi của nhỏ Tuyền càng làm cay mắt. Tôi mong nhỏ Kim Hoàng mở chương trình Dạ Lan. May ra tiếng nhạc làm thức tỉnh giác quan. Nhưng không hiểu sao đêm nay nó không đem theo chiếc radio xinh xinh của nó. Tuy nhiên đến giờ ra chơi lớp học như nổ tung vì một khám phá mới của nhỏ Ánh: Con Thanh có bồ tụi bây ơi! Lúc đầu tôi giật mình. Không phải vì không biết chuyện này (nhỏ Thanh đã kể cho tôi nghe trong đêm hai đứa bỏ học đi chơi), nhưng lo nhỏ Thanh nghi ngờ tôi không giữ kín chuyện như đã hứa. Tuy nhiên sau đó tôi an tâm và hòa mình ngay vào niềm vui của các bạn khi biết nhỏ Thanh đã vô ý để quên trong tập toán lá thư và tấm ảnh mầu của anh chàng phi công bên Mỹ gửi về cho nó bị nhỏ Ánh vớ được. Thanh đuổi theo nhỏ Ánh giằng lại nhưng lá thư và tấm ảnh được truyền lẹ sang nhỏ khác. Mỗi đưa lớn tiếng đọc một đoạn. Tới tôi, mặc dầu đã nghe tiếng hét của Thanh: "Huyền đưa tao mày", tôi vẫn đọc tiếp theo:
"... Không khí lạnh buốt và cảnh tuyết rơi California càng làm anh nhớ quê nhà, nhất là nhớ đến kỷ niệm của chúng mình, những lần chúng mình dìu nhau đi trong nắng lửa của bầu trời Sàigòn, nhưng những lúc đó anh không còn cảm thấy cái nóng bức, bởi vì nắng như chừa ra những bóng mát cho riêng chúng mình. Em biết tại sao không? Để anh mượn lời của một thi sĩ để trả lời nhé:
"Nắng Sàigòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông.
Anh vẫn yêu mầu áo ấy vô cùng"
... Ở nhà, em nhớ anh nhiều không? Trong khi chờ ngày anh hồi hương, nghe anh dặn điều này, một điều mà hằng đêm anh cầu khẩn Thượng Đế chấp thuận và thực hiện cho anh, cho em, cho chúng mình:
"Giữ hộ anh mầu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu mầu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng".
Tôi đọc đến đây thì nhỏ Hồng trưởng lớp đập bàn đến thình một cái, nói lớn:
- Nói đại là đừng cho anh bị cắm sừng cho rồi còn bầy đặt thơ với thẩn!
Cả bọn phá lên cười. Thế là hai giờ sau không đứa nào học được gì. Tiếng thì thầm lan lan giữa các dẫy bàn. Những mảnh giấy ghi các câu đối thoại được truyền đi truyền lại. Mà chủ đề vẫn là chuyện của nhỏ Thanh và anh chàng phi công. Mấy lần cô giáo vạn vật dọa sẽ đuổi hết ra khỏi lớp nếu không chăm chỉ nghe giảng. Nhưng im lặng chỉ kéo dài trong ít phút rồi đâu lại vào đấy.
Tan học, tôi tìm nhỏ Dung kể cho nghe chuyện của Thanh. Sau chuỗi cười ròn tan, Dung nói một cách rất tự nhiên:
- Còn mày đấy, coi chừng tụi nó biết.
Tôi không hiểu, mở tròn mắt nhìn nhỏ Dung:
- Biết gì?
- Ngây thơ nữa! Thì biết mày... yêu đó.
Thoáng nghĩ ra, tôi hơi choáng váng như vừa bước hụt chân. Đã từ lâu, nhỏ Dung nghi ngờ tôi... yêu anh Long. Thỉnh thoảng trong các câu chuyện, Dung hay nói bóng gió, gán ghép khiến nhiều lần tôi ngượng đến sượng sùng. Đêm nay nhân câu chuyện "nhỏ Thanh có bồ", Dung lại khơi dậy những đoán biết của nó. Có điều Dung coi "chuyện đó" như đã chắc chắn và... tự nhiên. Mà không hiểu sao nó lại biết được những tình cảm tôi dành cho anh Long? Tuy là rất thân nhưng chưa bao giờ tôi thổ lộ cho nhỏ Dung nghe những rung động nội tâm. Chỉ bởi tôi cảm thấy... khó nói và vu vơ quá. Không biết từ khi bước vào tuổi 17, lứa tuổi mới lớn, tôi có những thay đổi nào trong ánh mắt, cử chỉ... đến nỗi người ngoài có thể nhận diện? Thấy tôi im lặng, nhỏ Dung tưởng tôi xác nhận, nói thêm:
- Tụi nó mà "hội thảo" về mày, chắc... vui lắm.
Tôi cố gắng chống đỡ:
- Mà tao có... gì đâu.
- Đừng giấu tao nữa. Kể ra tao cũng trách mày đấy, Huyền ạ. Chuyện gì mày cũng nói cho tao nghe, trừ "chuyện đó".
- Nhưng... tao...
- Mày có biết một văn sĩ đã nói khi yêu mắt người ta làm sao không?
- Không.
- Ban C mà mày không biết thì quả thực dở ẹc. Văn sĩ đó nói rằng ở con mắt của những người đang yêu thường có khói!
Tôi phì cười trước hình ảnh ví von này:
- Khói chỉ tổ làm cay mắt chứ hay ho gì.
- Đúng! Khói tình yêu làm cay mắt, chính vì vậy con mắt mới "mơ huyền" đi. Thế thì đừng chối nữa nghe Huyền.
Tôi không biết nói gì nữa. Nhỏ Dung đã dồn tôi vào chân tường. Thì ra vậy. Có những đóm khói trong mắt người đang yêu. Tôi nghĩ thầm giá bây giờ tôi đang ở một mình, trong chỗ vắng tôi sẽ lấy chiếc gương tròn trong cặp táp ra xem mắt của tôi có những mới lạ nào. Hèn chi dạo này tôi thấy nhỏ Thanh hay ngồi chống tay vào cằm, nhìn mông lung ra khung trời. Ánh mắt của nó như lạc thần, nhưng đẹp tuyệt vời. Đêm mai mình phải... quan sát kỹ lại mắt của nhỏ Thanh xem có nhiều... đóm khói không để còn... đề phòng "chuyện của mình" nữa chứ. Tôi chúm chím cười với dự tính này.
- Mày cười gì thế Huyền?
Tôi trả lời nhỏ Dung bằng một câu nói không đúng với ý nghĩ đang có trong đầu:
- Cười vì mày nói khói vương trong mắt!
- Tao thấy không lạ.
- Cái gì lạ?
- Tình yêu! Đó là luật của Thượng Đế. Một thứ luật êm ái nhất. Theo tao nghĩ, nếu không có tình yêu cuộc sống sẽ cằn cỗi vô cùng và mất hết ý nghĩa. Mà tình yêu đẹp nhất, mày biết ở lứa tuổi nào không? Mới lớn! Trinh trong tuyệt đối!
- Mày làm như mày đã yêu rồi không bằng.
- Sẽ yêu! Chắc chắn như vậy, chứ tao không chối như mày.
- Tao... chối gì đâu?
- Lại thêm tội mâu thuẫn nữa. Thôi tao không cãi với mày chuyện yêu anh tao. Có được một bà chị dâu như mày thì nhất trên đời rồi. Duyên dáng này, hiền lành này, học giỏi này, tháo vát này...
Tôi như đứng cạnh lò lửa. Toàn thân nóng ran. Tiếng nói của nhỏ Dung như những viên than hồng bắn vào da thịt. Tôi ôm chặt chiếc cặp vào ngực, nói trong hơi thở:
- Thôi mày, anh Long mà biết được, la tao thì chết.
- Sao lại la? Mặc dầu anh ấy không bao giờ nói với tao (sao mà tâm đầu ý hiệp thế!) nhưng tao biết chắc anh ấy dành cho mày rất nhiều cảm tình, thương mày kinh khủng. Trong số bạn bè tao tới nhà, anh Long chỉ khen mày và hỏi thăm tao về mày luôn. Ngược lại tao cũng "quảng cáo" mày hết mình. Mai mốt mà thành... chị tao, nhớ đừng quên ơn tao đấy.
Chúng tôi cùng cười. Tôi đánh vào vai nhỏ Dung, bảo tối nay mày ăn nói nhảm quá.
Thấy chúng tôi đến, ba hơi cau nếp trán:
- Sao lâu vậy con?
- Chúng con mải... nói chuyện. Ba chờ con lâu không ba?
Ba không trả lời tôi, quay sang nhỏ Dung hỏi:
- Chắc cậu Long chưa tới đón cháu Dung?
- Thưa bác anh con bận. Anh con bảo từ nay tới hè cho con đi bộ luôn.
- Tội chưa!
Tôi ngồi lên yên xe, quay lại nheo mắt, mỉm cười với nhỏ Dung:
- Về nghe nhỏ.
- Vâng... chị về!
Xe đã chạy mà tôi vẫn còn nghe tiếng cười tinh quái của nhỏ Dung.
Tôi vừa về đến nhà, thằng Toàn chạy vội ra níu lấy tay. Tôi ngạc nhiên sao giờ này nó còn thức? Tôi hỏi nhưng nó không trả lời, cứ kéo tay tôi xuống bếp. Sau khi đưa mắt nhìn lên nhà, biết chắc chắn không có ai, thằng Toàn lấy trong bụng áo ra một phong thư:
- Anh Thi gửi cho chị nè.
- Anh Thi nào?
- Ở đầu xóm í.
À thì ra anh chàng mà mấy đứa bạn trong xóm gọi là sinh viên đầu bù tóc rối, anh chàng đã đứng nhìn tôi dỗ con Thảo hồi chiều. Tôi cố nén giận, hỏi thằng Toàn:
- Đưa cho mày hồi nào?
- Hồi tối.
- Ai bảo mày cầm?
Thằng Toàn lúng túng, có vẻ sợ sệt. Thương hại, tôi dịu giọng lại với nó. Sau cùng thằng Toàn nhận là "anh Thi cho em hai chục rồi bảo cầm về đưa cho chị, đừng để ba mẹ biết, nên em mới phải chờ chị đi học về để đưa". Tôi bảo thằng Toàn thôi đi ngủ, lần sau ai đưa cái gì cũng không được cầm, nhất là không được lấy tiền của ai. Nhìn thân hình loắt choắt đi nghiêng vẹo của nó, tôi thở dài. Sợ ba mẹ xuống bếp bất chợt thấy phong thư lại hỏi lôi thôi, tôi giấu vội vào trong cặp táp rồi vào trong buồng thay quần áo. Tôi hát nhẹ một điệu nhạc để làm tan loãng một vài giao động nhỏ vừa rồi – Gọi gió lên thung lũng hồng, mây trôi bềnh bồng. Hạt nắng lung linh tím dần, mênh mông thu vàng... Còn đó sương vây kín đầy, cho tình ngất ngây...
Cây đèn như muốn hết dầu. Ánh sáng vàng úa, chập chờn. Tôi xuống bếp lấy cây đèn khác lớn hơn. Tìm quanh quất cái châm lửa nhưng không thấy, tôi do dự một chút rồi chặc lưỡi, mở cặp táp lấy phong thư. Những tờ giấy mầu xanh hiện ra. Tôi cho sát vào ánh đèn lờ mờ, liếc vội những hàng chữ đầu:
"Cô Huyền. Có lẽ cô chưa rõ về tôi, nhưng tôi hằng ngày, hằng đêm vẫn luôn luôn tưởng nhớ tới cô. Hình ảnh diễm kiều của cô ám ảnh tôi, khiến tôi ra ngẩn vào ngơ..."
Tôi lấy tay che miệng cho khỏi bật cười thành tiếng, nghĩ thầm: "Thế cũng đòi là... sinh viên. Chắc chép được trong bản cải lương nào đây". Vê tròn những tờ giấy xanh lại, tôi châm vào lửa, đốt sang cây đèn lớn. Lửa của đèn, của cuộn giấy xanh làm sáng rực căn buồng. Giữa ngọn lửa đang cháy tôi như thấy hiện ra hình ảnh rực rợ của một người. Tôi thầm gọi: Anh Long!
Tiếng cười tinh quái của nhỏ Dung lại văng vẳng bên tai. Tôi đưa tay lên mặt. Làn da nóng căng. Không hiểu nóng vì ánh lửa hay vì cảm giác ngất ngây đang dạt dào trong tôi.
Hai giờ Việt văn qua thật nhanh, nhưng cũng thật vui: Như đã hứa tuần trước, đêm nay thầy Việt văn giới thiệu với lớp một nhà văn của lứa tuổi mới lớn: Quyên Di. Hầu hết trong lớp nhỏ nào cũng đã đọc một vài tác phẩm của Quyên Di, do đó bầu không khí khởi đầu đã đi vào thân mật ngay. Trước đây tôi vẫn nghĩ những người cầm bút, họ hiện hữu ở một ngôi vị cao vời vợi, tách biệt khỏi đám đông. Nói cách khác đám đông đến với họ chứ họ không đến với đám đông. Họ chỉ cởi mở trong tác phẩm ; ngoài đời lại có những hàng rào tên tuổi ngăn cách. Tôi cũng vẫn tưởng tượng đến những khuôn mặt khép kín, nghiêm nghị hay lạnh băng, bất cần đời. Tuy ái mộ những văn, thi sĩ nhưng tôi cho rằng họ có một thế giới riêng mà việc tiếp xúc với họ khó khăn vô cùng. Được nhìn tận mắt những người mình say mê đã là quí, còn việc mong được nói chuyện với họ, theo tôi, là cả một xa vời!
Đêm nay Quyên Di đã làm nhạt nhòa dần những thành kiến gốc rễ trên. Quyên Di cởi mở, vui vẻ ghê vậy đó. Thì ra các nhà văn họ cũng... như mình. Tôi mỉm cười với ý tưởng này. Không biết nhỏ Phượng nghĩ thế nào mà nó hích vào người tôi, nói thầm:
- Bộ... mê ông ấy rồi hả?
Tôi nhăn mặt, lườm nó:
- Tầm bậy!
Nhỏ Phượng nghiêng đầu, cho tay lên môi làm cử chỉ nũng nịu. Nếu ở chỗ khác tôi đã ký một cái vào đầu nó cho... bõ ghét!
Sau những câu hỏi về kinh nghiệm, nghệ thuật viết văn, lớp xoay câu chuyện về đời tư của nhà văn Quyên Di. Đây mới là điều chúng tôi muốn biết nhất. Nhiều khi nghĩ tôi thấy thật lạ, ở tuổi mới lớn, chúng tôi tò mò kinh khủng. Như mỗi đầu niên học, việc làm trước hết của chúng tôi là "điều tra lý lịch" các giáo sư. Thầy này có gia đình chưa, mấy con, ở đâu... Cô kia có mấy chiếc áo dài, dùng phấn son hiệu nào. Không có gì có thể giấu được chúng tôi. Mà một đứa biết thì cả lớp đều hay. Với các tài tử chớp bóng, các văn, thi sĩ cũng vậy. Ngoài khuôn mặt của họ trên màn ảnh, trong tác phẩm, chúng tôi thường say mê đọc những bài báo thuật lại cuộc sống riêng tư của họ. Như có một sự liên hệ mật thiết giữa họ và những người mến mộ họ.
Lớp vui như hội lớn. Đôi lúc tôi thấy tội nghiệp nhà văn Quyên Di bị bao vây bởi những câu hỏi tinh nghịch:
- Quyên Di có... người yêu chưa?
- Quyên Di bao nhiêu tuổi?
- Quyên Di thích cái gì nhất?
- Có nữ độc giả nào viết thư... tỏ tình với Quyên Di chưa?
- Tại sao lại lấy bút hiệu là Quyên Di, nghe có vẻ "phái yếu" quá?
Quyên Di không đỏ mặt, lúng túng như tôi tưởng. Vẫn giọng nói khoan thai, nhỏ nhẹ. Vẫn những nụ cười trên môi. Vẫn những cử chị tự nhiên. Ở Quyên Di tôi chợt bắt gặp một cái gì thật gần, nhưng mơ hồ mà mãi lúc sau tôi mới nhận ra: Quyên Di có một vài nét hao hao giống anh Long: mái tóc bỏ xõa trên đài trán, nụ cười hồn hậu nở hết cánh. Thế là cũng từ phút đó tôi xa rời lớp học để bay bổng về một hình ảnh thân yêu, về một thế giới xanh mát nhớ nhung.
Chuông reo tan học mà như không đứa nào muốn về. Phải đến khi thầy Việt văn hứa Quyên Di sẽ trở lại với lớp nếu có dịp, chúng tôi mới đứng lên. Một hai nhỏ bạn không biết tìm đâu ra cuốn "tuổi trăng tròn" đem lên xin Quyên Di ký tên. Tôi tiếc đã không làm được như vậy.
Tôi chạy nhanh xuống thang gác đi tìm nhỏ Dung. Thật tiếc cho nó đã không tới dự. Nghe nhỏ Nguyệt trưởng lớp của Dung nói nó xin nghỉ hai giờ đầu. Sao nhỏ Dung không nói với tôi nhỉ? Chắc nó có chuyện gì bất ngờ? Tôi muốn gặp nó để hỏi và để kể cho nó niềm thích thú hiện hữu trong tôi.
Nhỏ Dung đã đứng chờ tôi ở sân trường. Mừng quá, tôi nắm lấy tay Dung, tíu tít:
- Nhà văn Quyên Di mày ạ. Sao mày không lên lớp tao?
Nhưng tiếng nói của tôi ngưng lại khi tôi nhận thấy nét mặt của Dung trĩu buồn, khóe mắt ướt. Tôi hạ giọng, hỏi Dung, thân mật:
- Mày có chuyện gì vậy?
Nó chớp chớp đôi mắt, di di mũi giầy trên mặt sân:
- Anh Long... đi rồi!
- Đi đâu?
- Nhập ngũ!
Tôi như bị ném vào khoảng không. Choáng váng. Bên tai, chát chúa những âm thanh nổ ran. Tôi giữ vào tay nhỏ Dung cho đầu óc đỡ quay quay. Tôi không tin thính giác của mình:
- Nhập ngũ?
- Ừ!
Giọng nhỏ Dung buồn buồn, kể:
- Anh ấy tình nguyện gia nhập trường võ bị Đà Lạt mà không cho ai biết. Mãi đêm qua, khi tao đi học về, anh ấy mới nói cho gia đình hay. Bà bô tao muốn ngất xỉu luôn. Anh ấy bảo trước sau gì ảnh cũng phải đi. Thời buổi này con trai làm sao tránh được quân trường. Ông bô tao cũng buồn lắm, nói là sao không chờ thi xong đại học đã hãy quyết định, còn có mấy tháng nữa. Anh ấy trả lời việc nhà binh làm sao biết trước. Hơn nữa bốn năm trời người ta mới mở một khóa. Bây giờ có dịp mình cứ đi, mai mốt xin phép về dự thi đâu có khó khăn gì... Thế là sáng nay anh ấy ra xe sớm. Cả nhà khóc quá trời. Tao buồn cũng bỏ học luôn. À, anh ấy nói "gửi lời chào mày và chúc mày thi đậu"...
Tôi nghẹn ngào – Anh đi rồi hả anh? Sao anh không nói với em một câu nào? Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau? Em những tưởng sự mình xa nhau là quan trọng lắm chứ? Ít nhất anh cũng viết cho em một lá thư thật dài kể những tiếc nuối, những nhớ nhung, những hứa hẹn... hay gặp em, đưa em tới một nơi thanh vắng, anh buồn buồn nói những lời giã từ và hẹn ngày về... Nhưng chỉ có một lời ngắn ngủi và thường tình thôi sao anh Long? – Gửi lời chào mày và chúc mày thi đỗ – Anh cho thế là đủ? Anh đi rồi còn gì đâu ý nghĩa? Thi đỗ để làm gì anh nhỉ khi không có anh? Anh đi rồi. Và anh ác ghê vậy đó. Để em lại một mình. Không một lời trìu mến giã biệt. Sao nhỏ Dung tối hôm nọ nói anh dành cho em rất nhiều cảm tình và thương em kinh khủng. Nó nói dối hả anh? Vì nếu thương em anh đã chẳng ra đi lặng lẽ? Em đã bàng hoàng, hoang lạnh. Anh đi thật rồi hả anh?...
Nhỏ Dung còn kể nhiều nữa về chuyến đi của anh Long, nhưng tôi không còn nghe được gì mãi đến khi Dung nói thôi tao về nghe Huyền sáng mai tao lên nhà mày, tôi mới quay lại, gật đầu.
Tâm hồn tôi rã rời, đớn đau. Tôi muốn khóc cho vơi đi những giọt sầu chất chưa, nhưng không hiểu sao nước mắt như đã khô cạn. Tôi tới chỗ ba đứng đợi, không dám nói gì hay nhìn thẳng ba. Tôi không muốn ba bắt gặp cơn giao động trong tôi.
Vừa nổ máy, ba đã cho xe chạy nhanh. Gió thổi mạnh. Tôi thấy chút dễ chịu. Xe chạy tới gần một ngã tư thì khựng lại. Ba bảo vào đây đổ xăng đã, may quá chỗ kia có bán. Ba dắt xe đi trước, tôi theo sau một khoảng cách. Tiếng âm nhạc từ một ngôi nhà gần đó vọng ra. Tôi lắng nghe. Một bài hát quen quen. Nhắm mắt, cho tôi tìm một thoáng hương xưa. Cho tôi về đường cũ nên thơ. Cho tôi gặp người xưa ước mơ. Hay chỉ là GIẤC MƠ THÔI. Nghe tình đang chết trong tôi. Cho lòng tiếc nuối xót thương suốt đời... Bất giác tôi hát theo. Tâm trí tôi đã chùng xuống, dịu lại.
Ba dắt xe ra. Tôi ngồi lại lên yên sau. Dòng nhạc như vẫn réo rắt bên tai và tôi cũng đã hát trở lại bài đó hai, ba lần. Chính tôi cũng ngạc nhiên tại sao mình có thể hát được giữa lúc tôi tưởng mình rơi vào tuyệt vọng? Một sự bình yên êm nhẹ nhen nhóm trong tôi. Tôi như tỉnh sau cơn mê. Tôi nhìn rõ hàng cây hai bên đường, ánh đèn điện trắng đục. Hình ảnh anh Long hiện ra sáng quắc rồi thu nhỏ lại, lùi xa dần. Không khí về đêm mát rợi. Tôi thoáng nghĩ có thể sự ra đi của anh Long sẽ là một trắc nghiệm cho những tình cảm mới lớn trong tôi. Để tôi thấy rõ mình hơn. Ở tuổi này tôi đã thực sự biết yêu chưa hay chỉ là trường hợp "mỗi lần qua tâm hồn tôi bối rối – Chưa yêu ai mà như đã vừa yêu" Dĩ nhiên bây giờ tôi chưa thể trả lời câu hỏi. Để dành cho những ngày tháng sắp tới. Cho tương lai. Chỉ biết hiện tôi không còn thấy ngột ngạt nữa...
Chợt ba quay lại hỏi:
- Lạnh không con? Sao không đem áo len?
Tôi không nói gì, chỉ dựa đầu vào lưng ba. Chiếc xương sống của ba nổi lên sau làn áo. Ba gầy quá. Tôi nghĩ trong đầu như vậy và cảm thấy thương ba vô cùng – Ba ơi, con thương ba, thương mẹ, thương các em quá. Con sẽ đỗ cho ba xem.
Ba cho xe chạy nhanh hơn nữa. Gió thổi vù vù bên tai. Tôi ngẩng đầu lên. Trên bầu trời xám có những vì sao nho nhỏ lấp lánh.
- Thưa thầy, cả về tình yêu?
- Cả về tình yêu. Đó là vấn đề mật thiết nhất với con người chúng ta.
Và thầy đã chiếm được sự cảm kính của học trò.
Hai giờ học sau qua chóng. Chuông reo. Như những con ong vỡ tổ, các bàn đầu ùa ra một lượt. Tôi và một vài đứa chạy lên vây quanh thầy Việt văn hỏi tiếp về câu chuyện mời văn sĩ đến lớp. Nhỏ nào cũng muốn biết tên của nhà văn sẽ được mời đầu tiên. Nhưng thầy vẫn trả lời tôi chưa dự định mời ai. Còn để xem ai rảnh vào tối thứ hai tới tôi mới "xách" đến được chứ. Nói trước rồi không mời được lớp lại "kiện" tôi thì sao?
Lúc sau tôi ra khỏi lớp, vội vã xuống cầu thang. Tôi muốn đi nhanh ra với ba để khoe kết quả kỳ thi. Mấy nhỏ bạn thấy tôi, gọi ê, cô tú tương lai. Tôi quay lại, mỉm cười, giơ tay vẫy rồi chen vào đám đông. Vừa thoát ra khỏi những hàng xe, lớp người, chân tôi bỗng khựng lại khi tôi nhìn thấy ba đang đứng nói chuyện với anh Long. Nhỏ Dung cũng đứng gần đó, hướng mắt về phía cổng trường như muốn tìm ai. Vẫn chưa quên câu chuyện bỏ học rồi bị đuổi nhưng sau được anh Long cứu, tôi muốn lùi gót. lánh mặt nhưng đã muộn ; nhỏ Dung nhận ra tôi, gọi lớn:
- Huyền! Huyền!
Ba và anh Long quay lại cùng một lượt. Tim tôi đập mạnh ; đôi chân luống cuống. Tôi lo lo. Anh Long lên tiếng trước:
- Huyền giỏi quá, anh vừa nghe Dung nói Huyền đứng nhất kỳ thi đệ nhị lục cá nguyệt.
Tôi không biết trả lời sao, chỉ thoáng nghĩ nhỏ Dung thiệt tệ, cái gì cũng đem nói với "người ta". Mà sao nó biết nhanh thế. Chắc có nhỏ nào trong lớp đi phao tin đây mà - Nhỏ Dung nắm lấy tay tôi, nói chờ bồ mãi. Nó tự nhiên, như đã không có tin gì xảy ra. Ba vẫn đứng yên, khoanh tay trước ngực. Tuy nhiên trên khuôn mặt của ba, tôi đọc được những nét vui mừng, hãnh diện. Sau những phút đầu bối rối, ngượng nghịu tôi cũng đã lấy lại được vẻ tự nhiên. Tôi hỏi ba một câu bâng quơ:
- Ba tới lâu chưa ba?
- Cũng mới thôi. Tới đây gặp cậu Long, nói chuyện được một lát thì con ra.
Câu chuyện giữa chúng tôi xoay quanh việc học và thi cử. Thỉnh thoảng tôi phải cúi xuống hay nhìn đi chỗ khác để tránh ánh mắt của anh Long. Một điều làm tôi chú ý là trong những câu nói với tôi, anh Long đã dùng tiếng "Huyền" để thay thế tiếng "cô bé" thường dùng. Điều này làm dạt dào thêm niềm vui trong tôi. Bây giờ thì ba và anh Long nói chuyện riêng. Một hình ảnh thân mật hiện ra trong đầu làm tôi cảm thấy thèn thẹn. Tiếng nhỏ Dung vẫn liến thoắng bên tai tôi. Nó kể thật nhiều chuyện. Như để đền bù những ngày hai đứa giận nhau. Tôi hỏi nhỏ Dung kết quả kỳ thi lục cá nguyệt, nó trả lời lớp nó chưa phát phiếu điểm và các giáo sư chưa phê xong. Tôi cũng thuật lại cho Dung nghe việc thầy Việt văn dự tính mời một số nhà văn bạn của thầy tới lớp nói chuyện. Nhỏ Dung nói lớn vậy sao, thích quá há, đến tối đó, mày nhớ nhắc tao, tao lên dự với. Trao đổi những mẩu đối thoại vụn vặt, nhưng tuyệt nhiên hai đứa không nói với nhau một điều gì liên quan đến chuyện cũ.
Con đường trước mặt trường học đã vắng người. Bên trong, trừ vùng ngọn đèn gắn trên tấm vảng thông cáo, còn các tầng nhà đều chìm trong bóng tối mờ nhạt, im lìm, buồn bã. Trước cổng còn vài con "vạc ăn đêm" đứng chờ người nhà tới đón. Tôi bắt tội nghiệp mấy nhỏ đó. Tôi nhớ lại cũng đã có lần ba tới muộn vì xe hư dọc đường ; tôi phải đứng chờ cả tiếng đồng hồ trong bồn chồn, lo sợ, rồi khóc. Sợ nhất là lâu lâu lại một thằng đàn ông dừng xe lại, chọc ghẹo thật nham nhở. Không người con gái nào ra đường ban đêm lại không cảm thấy những đe dọa, huống gì những học trò đèn khuya chúng tôi lạc lõng, đơn côi bên vệ đường. Những bất trắc, hiểm nguy chỉ chờ lúc thuận tiện là ập tới. Chính những giây phút này người ta mới thấy rõ thân phận của những học trò đèn khuya.
Tiếng ba gọi cắt đứt ý nghĩ của tôi:
- Huyền, thôi về con.
Tôi nhắc nhỏ Dung thêm một lần nữa điều tôi đã nói với nó lúc nãy:
- Chiều mai nhớ đi sớm đó.
- Yên chí. À mày tính rủ những nhỏ nào?
- Mấy đứa ngồi cạnh tao thôi.
- Được rồi, tao cho mày cháy túi luôn.
Chúng tôi cười. Xe của ba đã nổ máy. Khi chào anh Long, tôi đánh bạo nhìn sâu vào mắt anh. Như để cảm ơn anh đã đưa tôi ra khỏi cảnh ngộ đan rối. Như để truyền đến anh niềm lâng lâng hiện hữu trong tâm hồn. Như để nói với anh những gì tôi không bày tỏ được. Anh cũng nhìn lại tôi ; ánh mắt thật dịu ; giọng anh thật nhẹ:
- Huyền về nghe. Đêm ngủ ngon.
Tôi ấp úng trong cổ họng:
- Dạ... Cám ơn anh.
Ba bắt tay anh Long rồi rồ máy. Tôi ngoái cổ lại, giơ tay làm như vẫy nhỏ Dung, nhưng thật ra trong thâm tâm tôi muốn dành cử chỉ chân tình này cho riêng anh Long. Anh Long mà thôi.
Trên bầu trời, đêm nay, đầy sao lấp lánh.
Có thể nói từ khi học lớp đêm, chưa bao giờ tôi dùng cơm ngon như đêm nay. Chỉ tại trong tôi đang ngập tràn một niềm vui khó tả. Tôi không còn thấy như những đêm trước vị nguội lạnh của thức ăn, vị khô cứng của những hạt cơm, sự khuya khoắt của giờ giấc cũng như sự mệt mỏi của thân xác và trí não. Hình ảnh anh Long và giọng nói của nhỏ Dung hiện đến, rõ rệt khiến tôi có cảm tưởng như có thực. Tôi không ngờ cơn biển động lại trở lại bình yên dễ dàng đến thế. Tôi những tưởng sẽ không bao giờ còn dám gặp lại anh Long và nhỏ Dung. Cuộc gặp gỡ hồi nẫy cho tôi thấy rằng sự khắc khoải của tôi chỉ như tấm màn nhện trên cành cây, chỉ cần một cơn gió cũng đủ làm đứt hết. Điều này cũng cho phép tôi nghĩ rằng mọi việc trên đời đều có một kết thúc của nó, rồi đều sẽ êm xuôi, bằng cách này hay cách khác. Miễn là tới lúc thích hợp. Mấy ngày trước có lẽ tôi đã quá quan trọng hóa vấn đề. Nhưng biết sao, ở tuổi mới lớn ai chả vậy, cứ hay nhìn cuộc đời qua ngõ những khó khăn ; nhưng rồi chính những hoàn cảnh lại tạo sự hăm hở sống cho tuổi trẻ.
Tôi không nghĩ ngợi gì nữa. Tiếng ba mẹ nói chuyện rì rầm trên nhà. Tôi ngừng nhai cơm, lắng nghe. Tại sao lại có tên tôi, tên anh Long trong câu chuyện? Tôi bỏ dở bữa ăn ra bàn rót nước. Chất nóng của ly nước chè làm tôi tỉnh táo hơn. Tôi ngạc nhiên vẫn thấy ba mẹ nhắc đến tên tôi và anh Long. Khoảng cách từ nhà xuống bếp khá dài khiến tôi không hiểu rõ đầu đuôi. Chừng tôi chợt đoán ra câu chuyện, tôi cảm thấy mặt mũi nóng ran. Tôi đưa ly nước lên miệng uống cạn để trấn tĩnh sự bối rối. Tôi có cảm tưởng như có một cái gì mới lạ lắm sắp đến với đời tôi. Tôi không dám đi lên nhà, sợ nhìn thấy ba mẹ. Thu dọn xong, tôi lén vào giường. Cơn thèn thẹn vẫn bám trên da thịt. Tôi quơ chiếc chăn ôm vào lòng. Cho đỡ trống trải. Mãi lâu lắm tôi mới trở lại trạng thái bình thường.
Tôi duỗi tay chân cho thoải mái. Đã hơn một tháng, đêm nay tôi mới được rảnh rang như thế này. Kỳ thi đệ nhị lục cá nguyệt làm tôi tối tăm mặt mũi. Bài vở dồn dập. Sáng nào tôi cũng phải dậy sớm để ôn bài, sau đó sửa soạn hàng cho mẹ. Thấy tôi gần thi, mẹ cũng bảo hay mày ở nhà ít bữa đi, nhưng tôi trả lời không sao đâu mẹ ạ. Nói vậy nhưng tôi lo lắng vô cùng. Tôi dự định lợi dụng kỳ thi cuối năm này học thật kỹ các môn để sửa soạn luôn cho kỳ thi thực sự. Sợ rằng nếu đổ dồn vào thời gian cuối có thể tôi sẽ luống cuống, vội vã mà không đạt được ý muốn. Thành thử cứ ngưng tay được phút giây nào tôi lại cầm đến sách. Ngay ở ngoài chợ, khi hàng vắng khách, tôi lại học. Đêm ở trường về, mặc dầu cũng đã mỏi mệt, tôi vẫn thắp đèn ngồi học đến quá nửa khuya. Tôi nghĩ đến những nhỏ bạn cùng lớp và thấy nhiều đứa may mắn hơn tôi. Ban ngày, nếu không đi học thêm sinh ngữ hay một môn học còn kém nào đó, chúng ở nhà làm những gì mình thích hoặc kéo tới nhà bạn nói chuyện phiếm hay cùng lắm phụ giúp mẹ trong những công việc vặt như giặt giũ nấu nướng. Chúng thừa thời giờ để học. Nghĩ vậy nhưng tôi không ghen tị. Những đêm đèn khuya hay đúng hơn cả dĩ vãng đã dạy cho tôi biết mỗi người có một định mệnh, một hoàn cảnh. Không ai giống ai. Tuy nhiên ai cũng phải đi trọn con đường của mình, phải sống cuộc đời của mình. Có điều người ta băn khoăn chỉ vì không biết trên đường đi, trong cuộc đời và ở đoạn cuối có sẵn những gì. Chính tôi cũng đã gặp vấn nạn này, hình như nhiều nhất kể từ khi tôi bước vào một giai đoạn mới của cuộc đời, giai đoạn tuổi mới lớn. Nhưng giờ thì tôi bình thản lắm. Và tôi cầu mong được như vậy mãi mãi.
*
- Chiều nay ba khỏi cần đưa con đi học. Con đi xe Lam.
- Sao mà con đi sớm vậy? Mới hơn bốn giờ.
- Con có hẹn với nhỏ Dung.
- Thế còn lúc về?
- Ba đón con, nghe ba.
- Ừ.
Tôi cầm cặp táp chạy vòng xuống nhà dưới tới bên mẹ đang ngồi nhặt rau, nói thầm vào tai:
- Mẹ cho con... ít chục.
Mẹ ngừng tay, lấy trong túi ra tờ giấy năm mươi đồng. Tôi phụng phịu:
- Ít vậy mẹ?
- Thì mày vừa nói ít chục là gì. Với lại đi xe Lam thì cần gì nhiều.
- Không phải. Con có chuyện cần.
- Chuyện gì?
Tôi không muốn giấu mẹ ý định khao mấy nhỏ bạn trong lớp như đã hứa đêm qua, nhưng tôi ngập ngừng mãi không biết phải nói sao cho gọn, cuối cùng đành nói vòng vo:
- Chuyện này cần ghê lắm.
Mẹ đưa thêm năm chục nữa. Tính nhẩm trong đầu con số bạn hữu, tôi thấy số tiền này cũng chưa đủ. Tôi lập lại câu nói hồi nãy:
- Ít vậy mẹ?
Mẹ nhăn mặt:
- Con này hay chưa? Mày tiêu cái gì thì phải nói rõ tao mới biết đường mà mò chứ.
- Tụi bạn đòi con... khao.
- Khao gì?
- Thì cái vụ con được bảng danh dự hồi tối qua đó.
- Úi giào, vẽ vời! Mai mốt thi mà không đỗ thì chết với tôi.
Vừa nói mẹ vừa lấy thêm tờ giấy một trăm. Tôi cười khúc khích, đỡ lấy tiền. Tôi cũng dặn mẹ tối mẹ đừng để phần cơm con. Trước khi quay đi, không hiểu sao lúc đó tôi lại ngồi xuống cạnh mẹ, gọi thầm:
- Mẹ!
Mẹ ngước mắt nhìn tôi, vẻ bỡ ngỡ:
- Gì nữa cô?
- ... Con thương mẹ!
Mẹ bật cười, mắng yêu:
- Bố mày a, tưởng gì. Lấy chồng được rồi đó cô ạ. Trẻ con mãi!
Tôi kêu ư, mẹ nói kỳ quá, con hổng chịu đâu, rồi chạy nhanh ra ngoài. Ba hạ tờ báo xuống, nói vọng theo:
- Phải cẩn thận xe pháo đấy.
- Dạ!
Tôi cười thầm. Gớm ba làm như con còn bé lắm mà phải dặn. Nhiều lúc nghĩ "giận" ba mẹ ghê vậy đó. Những chuyện thật nhỏ nhặt ba mẹ cũng nhắc chừng – Ra đường phải nhìn trước nhìn sau, không có xe hãy băng qua – Tối đi học, con Huyền nhớ đem theo cái áo len, đêm về lạnh lại đau – Con gái thì phải ăn nói cho nhỏ nhẹ – Mày ăn uống như vậy à... Tôi nghĩ những lời chỉ dẫn đó không cần thiết nữa. Bởi vì tôi không còn nhỏ dại gì. Dĩ nhiên tôi không muốn ai tham dự vào thế giới riêng của tôi. Tôi thích được tự mình tổ chức nếp sống, làm chủ những ý nghĩ và việc làm của tôi. Tôi thấy tôi đã lớn. Trái tim tôi đã biết rung động. Tâm tư cũng đã có những vương mắc. Trí óc đã biết thắp sáng một hình ảnh. Ước vọng đã phong phú dự tính mỹ miều của tương lai. Tôi cảm thấy mình đứng đắn và quan trọng hẳn lên. Thế mà ba mẹ cứ lo cho "con bé Huyền này".
Ra tới đầu ngõ, tôi gặp con Thảo đang đứng khóc. Dừng lại, tôi hỏi nó tại sao. Thảo chỉ tay ra đường, mếu máo:
- Anh Toàn không cho em đi theo.
- Thế anh toàn đâu rồi?
- Ở bùng binh ý.
Tôi cho Thảo năm đồng bạc kẽm rồi dỗ nó đi về kẻo mẹ la. Nó nín ngay. Tôi lấy khăn tay lau nước mắt còn ướt sũng trên khuôn mặt xạm nắng của nó. Tí xót xa trong lòng. Mỗi lần nghĩ đến các em còn nhỏ, tôi như chẳng còn thiết tha gì nữa, ngoài ước nguyện đi làm cho các em ăn học đến khôn lớn.
- Thôi cưng đi về nghe. Tối về chị mua bánh cho.
- Chị đừng cho anh Toàn cơ.
- Ừa.
Tôi đứng nhìn cho Thảo tung tăng chạy đến khuất bóng mới quay ra. Nhưng khi vừa ngẩng mặt lên tôi bỗng bắt gặp một người đứng nhìn tôi từ bao giờ. Tôi đỏ bừng mặt và thấy chân tay mình thừa thãi. Tôi đã biết người đó là ai rồi. Chiều nào cũng vậy anh chàng này như đứng đón tôi đi học ngang là nhìn theo và đêm nào trở về tôi cũng thấy anh chàng đã đứng tựa trước cửa. Tôi bực mình vì cái nhìn đến sỗ sàng của anh chàng. So với anh Long, chàng này thua xa. Người đâu mà có vẻ lì lợm, mặt lúc nào cũng như đăm chiêu, đầu tóc bù xù như chẳng bao giờ được chải lấy một lần. Tôi nghe mấy đứa bạn cùng xóm nói anh chàng đó là một sinh viên văn khoa. Tôi không tin, nhưng tôi cũng không tìm biết sự thật về anh chàng. Không cần thiết. Ngay sự có mặt của anh chàng trên bước đi ngang của tôi cũng không tạo được sự lưu tâm nơi tôi. Tôi biết có ít nhất hai, ba đứa trong xóm khoái anh chàng và chiều chiều thường kéo nhau ra đầu ngõ, nói cười thật lớn tiếng cốt để lôi sự chú ý của anh chàng. Tôi cười cười cho rằng mấy đứa bạn vô duyên. Riêng tôi, mỗi lần thấy anh chàng tôi lại... ghét cay ghét đắng. Tôi nhớ tới anh Long để xóa diệt hình ảnh của anh chàng này.
Tôi giận tôi đã bối rối vì một chuyện không đâu. Thôi không nghĩ nữa, tôi bước nhanh hơn ra đường phố.
Trường học vắng tanh. Các lớp ngày còn học. Tôi đi ra nơi hẹn với mấy nhỏ bạn. Đó là một quán hàng nằm phía trái ngôi trường. Gọi là "quán hàng" cho có tên vậy thôi. Thật ra chỉ là một mảnh vườn mà gia đình ông cai chùa "biến chế" ra để "câu" các nữ sinh bằng những trái cây, gói ô mai, những ly nước chanh, xí muội và một vài thức ăn thường được con gái ưa thích. Nhưng nơi đây thơ mộng. Những chiếc bàn, chiếc ghế nho nhỏ, xinh xinh được xếp rải rác trong vườn. Ngoài ra chủ nhân còn mắc hai, ba chiếc võng vào các thân cây để "khách hàng" ngồi hay nằm. Về đêm lại có ánh đèn mầu tạo cho khu vực một không khí thi vị. Ban ngày, nơi này là thế giới của học sinh ngày, nhưng chiều đến chúng tôi lại chiếm độc quyền. Khởi đầu thỉnh thoảng một vài bọn con trai các trường khác cũng kéo tới, nhưng sau có lẽ cảm thấy lạc lõng, trơ trẽn giữa những tà áo trắng, giữa những cái nguýt, những lời nói bóng nói gió... của chúng tôi, chúng không còn bén mảng tới nữa. Khi nào đông, chúng tôi trở nên mạnh bạo lắm.
Nhỏ Dung đến trước tôi. Thấy tôi, nó chạy ra. Tôi hỏi Dung:
- Tụi nó tới chưa?
- Mới có hai đứa.
- Nhỏ nào vậy?
- Con Phượng, con Hoa.
- Tụi mình cứ vào trước đi.
Chúng tôi gọi mỗi đứa một ly chanh muối. Một lúc sau mấy nhỏ bạn đến đông đủ. Bây giờ cả khu vườn vang đầy những tiếng nói cười của chúng tôi. Đứa đòi tôi cho ăn bò bía, đứa thích bì cuốn. Bà chủ quán nhìn chúng tôi cười. Cảnh này không lạ gì với bà, diễn ra hàng ngày. Bà thường tủm tỉm bảo các cháu vui như vậy bác thích lắm. Thấy bà dễ dãi, nhiều đứa đòi ăn chịu. Bà cũng bằng lòng. Học trò đèn khuya trường tôi vẫn gọi bà bằng má. Nhỏ Loan thường nói đùa tiếc rằng bà í không có con trai, nếu có thì nhất định tao sẽ làm đơn xin làm con dâu vô điều kiện.
Câu chuyện của chúng tôi lúc đầu quay quanh việc thi cử sắp đến. Nhưng sau nhỏ Hoa nói thôi tụi bay ơi đừng bàn tới nữa nghe nhức đầu và tổn thọ lắm, nói cái gì khác đi, lại được chuyển về các thầy, các cô, trong đó có việc giáo sư Việt văn hứa mời văn sĩ tới lớp nói chuyện. Đề tài nay gây nhiều thích thú cho những lời bàn tán. Đứa đoán nhà văn này, đứa quả quyết nhà văn kia. Ở lứa tuổi mới lớn này, chúng tôi hay mơ mộng, mà những cuốn tiểu thuyết, những bài thơ trữ tình là những chất xúc tác cho tâm hồn. Các văn thi sĩ đã trở thành thứ thần tượng. Thường đứa nào cũng chọn một tác giả làm "của riêng" mình. Chúng tôi thuộc thơ hơn thuộc bài. Những cuốn sổ dầy cộm, những chồng giấy pơ luya xanh, hồng đầy những bài thơ về tình yêu. Trong lớp nhiều khi chúng tôi như chăm chỉ chép bài do giáo sư đọc, nhưng thật ra đang nắn nót từng hàng chữ của một bài thơ. Những kỷ niệm này, tôi nghĩ, mãi mãi là chất xanh tươi cho cuộc đời. Bây giờ và sau này nữa.
Chúng tôi ngồi tán chuyện cho đến giờ vào học. Đứng lên, nhỏ Hoa vỗ tay vào bụng:
- No quá tụi bây ơi. Răng học được chừ? Bắt đền nhỏ Huyền đấy.
- Sướng chưa!
Dung xen vào:
- Cho mày chết Hoa ạ, ai bảo tham ăn.
Như không để ý đến lời của Dung, Hoa nói với một giọng sốt sắng, như vừa chợt tìm ra một điều gì mới lạ:
- Tao đề nghị với tụi bây: theo "ban C" tối nay đi.
Ý kiến của nhỏ Hoa bị phản đối ngay. Chuyện cũ vẫn chưa phai mờ trong ký ức.
- Thôi mày ơi, bộ lần trước chưa tởn sao?
- Mày có điên không đấy hả Hoa?
- Nó ăn no rồi đâm lú mề đấy mày!
- Sức mấy!
Tôi bất chợt gặp ánh nhìn của nhỏ Dung. Như hiểu ý nhau, cả hai đứa chúng tôi đều cười. Tôi vẫn còn cảm thấy thèn thẹn mỗi lần nghĩ tới chuyện đã qua.
Hai giờ học đầu trôi thật chậm, chán ngắt. Tôi thấy nằng nặng trong bụng. Buồn ngủ ghê. Mùi nhang đốt muỗi của nhỏ Tuyền càng làm cay mắt. Tôi mong nhỏ Kim Hoàng mở chương trình Dạ Lan. May ra tiếng nhạc làm thức tỉnh giác quan. Nhưng không hiểu sao đêm nay nó không đem theo chiếc radio xinh xinh của nó. Tuy nhiên đến giờ ra chơi lớp học như nổ tung vì một khám phá mới của nhỏ Ánh: Con Thanh có bồ tụi bây ơi! Lúc đầu tôi giật mình. Không phải vì không biết chuyện này (nhỏ Thanh đã kể cho tôi nghe trong đêm hai đứa bỏ học đi chơi), nhưng lo nhỏ Thanh nghi ngờ tôi không giữ kín chuyện như đã hứa. Tuy nhiên sau đó tôi an tâm và hòa mình ngay vào niềm vui của các bạn khi biết nhỏ Thanh đã vô ý để quên trong tập toán lá thư và tấm ảnh mầu của anh chàng phi công bên Mỹ gửi về cho nó bị nhỏ Ánh vớ được. Thanh đuổi theo nhỏ Ánh giằng lại nhưng lá thư và tấm ảnh được truyền lẹ sang nhỏ khác. Mỗi đưa lớn tiếng đọc một đoạn. Tới tôi, mặc dầu đã nghe tiếng hét của Thanh: "Huyền đưa tao mày", tôi vẫn đọc tiếp theo:
"... Không khí lạnh buốt và cảnh tuyết rơi California càng làm anh nhớ quê nhà, nhất là nhớ đến kỷ niệm của chúng mình, những lần chúng mình dìu nhau đi trong nắng lửa của bầu trời Sàigòn, nhưng những lúc đó anh không còn cảm thấy cái nóng bức, bởi vì nắng như chừa ra những bóng mát cho riêng chúng mình. Em biết tại sao không? Để anh mượn lời của một thi sĩ để trả lời nhé:
"Nắng Sàigòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông.
Anh vẫn yêu mầu áo ấy vô cùng"
... Ở nhà, em nhớ anh nhiều không? Trong khi chờ ngày anh hồi hương, nghe anh dặn điều này, một điều mà hằng đêm anh cầu khẩn Thượng Đế chấp thuận và thực hiện cho anh, cho em, cho chúng mình:
"Giữ hộ anh mầu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu mầu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng".
Tôi đọc đến đây thì nhỏ Hồng trưởng lớp đập bàn đến thình một cái, nói lớn:
- Nói đại là đừng cho anh bị cắm sừng cho rồi còn bầy đặt thơ với thẩn!
Cả bọn phá lên cười. Thế là hai giờ sau không đứa nào học được gì. Tiếng thì thầm lan lan giữa các dẫy bàn. Những mảnh giấy ghi các câu đối thoại được truyền đi truyền lại. Mà chủ đề vẫn là chuyện của nhỏ Thanh và anh chàng phi công. Mấy lần cô giáo vạn vật dọa sẽ đuổi hết ra khỏi lớp nếu không chăm chỉ nghe giảng. Nhưng im lặng chỉ kéo dài trong ít phút rồi đâu lại vào đấy.
Tan học, tôi tìm nhỏ Dung kể cho nghe chuyện của Thanh. Sau chuỗi cười ròn tan, Dung nói một cách rất tự nhiên:
- Còn mày đấy, coi chừng tụi nó biết.
Tôi không hiểu, mở tròn mắt nhìn nhỏ Dung:
- Biết gì?
- Ngây thơ nữa! Thì biết mày... yêu đó.
Thoáng nghĩ ra, tôi hơi choáng váng như vừa bước hụt chân. Đã từ lâu, nhỏ Dung nghi ngờ tôi... yêu anh Long. Thỉnh thoảng trong các câu chuyện, Dung hay nói bóng gió, gán ghép khiến nhiều lần tôi ngượng đến sượng sùng. Đêm nay nhân câu chuyện "nhỏ Thanh có bồ", Dung lại khơi dậy những đoán biết của nó. Có điều Dung coi "chuyện đó" như đã chắc chắn và... tự nhiên. Mà không hiểu sao nó lại biết được những tình cảm tôi dành cho anh Long? Tuy là rất thân nhưng chưa bao giờ tôi thổ lộ cho nhỏ Dung nghe những rung động nội tâm. Chỉ bởi tôi cảm thấy... khó nói và vu vơ quá. Không biết từ khi bước vào tuổi 17, lứa tuổi mới lớn, tôi có những thay đổi nào trong ánh mắt, cử chỉ... đến nỗi người ngoài có thể nhận diện? Thấy tôi im lặng, nhỏ Dung tưởng tôi xác nhận, nói thêm:
- Tụi nó mà "hội thảo" về mày, chắc... vui lắm.
Tôi cố gắng chống đỡ:
- Mà tao có... gì đâu.
- Đừng giấu tao nữa. Kể ra tao cũng trách mày đấy, Huyền ạ. Chuyện gì mày cũng nói cho tao nghe, trừ "chuyện đó".
- Nhưng... tao...
- Mày có biết một văn sĩ đã nói khi yêu mắt người ta làm sao không?
- Không.
- Ban C mà mày không biết thì quả thực dở ẹc. Văn sĩ đó nói rằng ở con mắt của những người đang yêu thường có khói!
Tôi phì cười trước hình ảnh ví von này:
- Khói chỉ tổ làm cay mắt chứ hay ho gì.
- Đúng! Khói tình yêu làm cay mắt, chính vì vậy con mắt mới "mơ huyền" đi. Thế thì đừng chối nữa nghe Huyền.
Tôi không biết nói gì nữa. Nhỏ Dung đã dồn tôi vào chân tường. Thì ra vậy. Có những đóm khói trong mắt người đang yêu. Tôi nghĩ thầm giá bây giờ tôi đang ở một mình, trong chỗ vắng tôi sẽ lấy chiếc gương tròn trong cặp táp ra xem mắt của tôi có những mới lạ nào. Hèn chi dạo này tôi thấy nhỏ Thanh hay ngồi chống tay vào cằm, nhìn mông lung ra khung trời. Ánh mắt của nó như lạc thần, nhưng đẹp tuyệt vời. Đêm mai mình phải... quan sát kỹ lại mắt của nhỏ Thanh xem có nhiều... đóm khói không để còn... đề phòng "chuyện của mình" nữa chứ. Tôi chúm chím cười với dự tính này.
- Mày cười gì thế Huyền?
Tôi trả lời nhỏ Dung bằng một câu nói không đúng với ý nghĩ đang có trong đầu:
- Cười vì mày nói khói vương trong mắt!
- Tao thấy không lạ.
- Cái gì lạ?
- Tình yêu! Đó là luật của Thượng Đế. Một thứ luật êm ái nhất. Theo tao nghĩ, nếu không có tình yêu cuộc sống sẽ cằn cỗi vô cùng và mất hết ý nghĩa. Mà tình yêu đẹp nhất, mày biết ở lứa tuổi nào không? Mới lớn! Trinh trong tuyệt đối!
- Mày làm như mày đã yêu rồi không bằng.
- Sẽ yêu! Chắc chắn như vậy, chứ tao không chối như mày.
- Tao... chối gì đâu?
- Lại thêm tội mâu thuẫn nữa. Thôi tao không cãi với mày chuyện yêu anh tao. Có được một bà chị dâu như mày thì nhất trên đời rồi. Duyên dáng này, hiền lành này, học giỏi này, tháo vát này...
Tôi như đứng cạnh lò lửa. Toàn thân nóng ran. Tiếng nói của nhỏ Dung như những viên than hồng bắn vào da thịt. Tôi ôm chặt chiếc cặp vào ngực, nói trong hơi thở:
- Thôi mày, anh Long mà biết được, la tao thì chết.
- Sao lại la? Mặc dầu anh ấy không bao giờ nói với tao (sao mà tâm đầu ý hiệp thế!) nhưng tao biết chắc anh ấy dành cho mày rất nhiều cảm tình, thương mày kinh khủng. Trong số bạn bè tao tới nhà, anh Long chỉ khen mày và hỏi thăm tao về mày luôn. Ngược lại tao cũng "quảng cáo" mày hết mình. Mai mốt mà thành... chị tao, nhớ đừng quên ơn tao đấy.
Chúng tôi cùng cười. Tôi đánh vào vai nhỏ Dung, bảo tối nay mày ăn nói nhảm quá.
Thấy chúng tôi đến, ba hơi cau nếp trán:
- Sao lâu vậy con?
- Chúng con mải... nói chuyện. Ba chờ con lâu không ba?
Ba không trả lời tôi, quay sang nhỏ Dung hỏi:
- Chắc cậu Long chưa tới đón cháu Dung?
- Thưa bác anh con bận. Anh con bảo từ nay tới hè cho con đi bộ luôn.
- Tội chưa!
Tôi ngồi lên yên xe, quay lại nheo mắt, mỉm cười với nhỏ Dung:
- Về nghe nhỏ.
- Vâng... chị về!
Xe đã chạy mà tôi vẫn còn nghe tiếng cười tinh quái của nhỏ Dung.
Tôi vừa về đến nhà, thằng Toàn chạy vội ra níu lấy tay. Tôi ngạc nhiên sao giờ này nó còn thức? Tôi hỏi nhưng nó không trả lời, cứ kéo tay tôi xuống bếp. Sau khi đưa mắt nhìn lên nhà, biết chắc chắn không có ai, thằng Toàn lấy trong bụng áo ra một phong thư:
- Anh Thi gửi cho chị nè.
- Anh Thi nào?
- Ở đầu xóm í.
À thì ra anh chàng mà mấy đứa bạn trong xóm gọi là sinh viên đầu bù tóc rối, anh chàng đã đứng nhìn tôi dỗ con Thảo hồi chiều. Tôi cố nén giận, hỏi thằng Toàn:
- Đưa cho mày hồi nào?
- Hồi tối.
- Ai bảo mày cầm?
Thằng Toàn lúng túng, có vẻ sợ sệt. Thương hại, tôi dịu giọng lại với nó. Sau cùng thằng Toàn nhận là "anh Thi cho em hai chục rồi bảo cầm về đưa cho chị, đừng để ba mẹ biết, nên em mới phải chờ chị đi học về để đưa". Tôi bảo thằng Toàn thôi đi ngủ, lần sau ai đưa cái gì cũng không được cầm, nhất là không được lấy tiền của ai. Nhìn thân hình loắt choắt đi nghiêng vẹo của nó, tôi thở dài. Sợ ba mẹ xuống bếp bất chợt thấy phong thư lại hỏi lôi thôi, tôi giấu vội vào trong cặp táp rồi vào trong buồng thay quần áo. Tôi hát nhẹ một điệu nhạc để làm tan loãng một vài giao động nhỏ vừa rồi – Gọi gió lên thung lũng hồng, mây trôi bềnh bồng. Hạt nắng lung linh tím dần, mênh mông thu vàng... Còn đó sương vây kín đầy, cho tình ngất ngây...
Cây đèn như muốn hết dầu. Ánh sáng vàng úa, chập chờn. Tôi xuống bếp lấy cây đèn khác lớn hơn. Tìm quanh quất cái châm lửa nhưng không thấy, tôi do dự một chút rồi chặc lưỡi, mở cặp táp lấy phong thư. Những tờ giấy mầu xanh hiện ra. Tôi cho sát vào ánh đèn lờ mờ, liếc vội những hàng chữ đầu:
"Cô Huyền. Có lẽ cô chưa rõ về tôi, nhưng tôi hằng ngày, hằng đêm vẫn luôn luôn tưởng nhớ tới cô. Hình ảnh diễm kiều của cô ám ảnh tôi, khiến tôi ra ngẩn vào ngơ..."
Tôi lấy tay che miệng cho khỏi bật cười thành tiếng, nghĩ thầm: "Thế cũng đòi là... sinh viên. Chắc chép được trong bản cải lương nào đây". Vê tròn những tờ giấy xanh lại, tôi châm vào lửa, đốt sang cây đèn lớn. Lửa của đèn, của cuộn giấy xanh làm sáng rực căn buồng. Giữa ngọn lửa đang cháy tôi như thấy hiện ra hình ảnh rực rợ của một người. Tôi thầm gọi: Anh Long!
Tiếng cười tinh quái của nhỏ Dung lại văng vẳng bên tai. Tôi đưa tay lên mặt. Làn da nóng căng. Không hiểu nóng vì ánh lửa hay vì cảm giác ngất ngây đang dạt dào trong tôi.
*
Hai giờ Việt văn qua thật nhanh, nhưng cũng thật vui: Như đã hứa tuần trước, đêm nay thầy Việt văn giới thiệu với lớp một nhà văn của lứa tuổi mới lớn: Quyên Di. Hầu hết trong lớp nhỏ nào cũng đã đọc một vài tác phẩm của Quyên Di, do đó bầu không khí khởi đầu đã đi vào thân mật ngay. Trước đây tôi vẫn nghĩ những người cầm bút, họ hiện hữu ở một ngôi vị cao vời vợi, tách biệt khỏi đám đông. Nói cách khác đám đông đến với họ chứ họ không đến với đám đông. Họ chỉ cởi mở trong tác phẩm ; ngoài đời lại có những hàng rào tên tuổi ngăn cách. Tôi cũng vẫn tưởng tượng đến những khuôn mặt khép kín, nghiêm nghị hay lạnh băng, bất cần đời. Tuy ái mộ những văn, thi sĩ nhưng tôi cho rằng họ có một thế giới riêng mà việc tiếp xúc với họ khó khăn vô cùng. Được nhìn tận mắt những người mình say mê đã là quí, còn việc mong được nói chuyện với họ, theo tôi, là cả một xa vời!
Đêm nay Quyên Di đã làm nhạt nhòa dần những thành kiến gốc rễ trên. Quyên Di cởi mở, vui vẻ ghê vậy đó. Thì ra các nhà văn họ cũng... như mình. Tôi mỉm cười với ý tưởng này. Không biết nhỏ Phượng nghĩ thế nào mà nó hích vào người tôi, nói thầm:
- Bộ... mê ông ấy rồi hả?
Tôi nhăn mặt, lườm nó:
- Tầm bậy!
Nhỏ Phượng nghiêng đầu, cho tay lên môi làm cử chỉ nũng nịu. Nếu ở chỗ khác tôi đã ký một cái vào đầu nó cho... bõ ghét!
Sau những câu hỏi về kinh nghiệm, nghệ thuật viết văn, lớp xoay câu chuyện về đời tư của nhà văn Quyên Di. Đây mới là điều chúng tôi muốn biết nhất. Nhiều khi nghĩ tôi thấy thật lạ, ở tuổi mới lớn, chúng tôi tò mò kinh khủng. Như mỗi đầu niên học, việc làm trước hết của chúng tôi là "điều tra lý lịch" các giáo sư. Thầy này có gia đình chưa, mấy con, ở đâu... Cô kia có mấy chiếc áo dài, dùng phấn son hiệu nào. Không có gì có thể giấu được chúng tôi. Mà một đứa biết thì cả lớp đều hay. Với các tài tử chớp bóng, các văn, thi sĩ cũng vậy. Ngoài khuôn mặt của họ trên màn ảnh, trong tác phẩm, chúng tôi thường say mê đọc những bài báo thuật lại cuộc sống riêng tư của họ. Như có một sự liên hệ mật thiết giữa họ và những người mến mộ họ.
Lớp vui như hội lớn. Đôi lúc tôi thấy tội nghiệp nhà văn Quyên Di bị bao vây bởi những câu hỏi tinh nghịch:
- Quyên Di có... người yêu chưa?
- Quyên Di bao nhiêu tuổi?
- Quyên Di thích cái gì nhất?
- Có nữ độc giả nào viết thư... tỏ tình với Quyên Di chưa?
- Tại sao lại lấy bút hiệu là Quyên Di, nghe có vẻ "phái yếu" quá?
Quyên Di không đỏ mặt, lúng túng như tôi tưởng. Vẫn giọng nói khoan thai, nhỏ nhẹ. Vẫn những nụ cười trên môi. Vẫn những cử chị tự nhiên. Ở Quyên Di tôi chợt bắt gặp một cái gì thật gần, nhưng mơ hồ mà mãi lúc sau tôi mới nhận ra: Quyên Di có một vài nét hao hao giống anh Long: mái tóc bỏ xõa trên đài trán, nụ cười hồn hậu nở hết cánh. Thế là cũng từ phút đó tôi xa rời lớp học để bay bổng về một hình ảnh thân yêu, về một thế giới xanh mát nhớ nhung.
Chuông reo tan học mà như không đứa nào muốn về. Phải đến khi thầy Việt văn hứa Quyên Di sẽ trở lại với lớp nếu có dịp, chúng tôi mới đứng lên. Một hai nhỏ bạn không biết tìm đâu ra cuốn "tuổi trăng tròn" đem lên xin Quyên Di ký tên. Tôi tiếc đã không làm được như vậy.
Tôi chạy nhanh xuống thang gác đi tìm nhỏ Dung. Thật tiếc cho nó đã không tới dự. Nghe nhỏ Nguyệt trưởng lớp của Dung nói nó xin nghỉ hai giờ đầu. Sao nhỏ Dung không nói với tôi nhỉ? Chắc nó có chuyện gì bất ngờ? Tôi muốn gặp nó để hỏi và để kể cho nó niềm thích thú hiện hữu trong tôi.
Nhỏ Dung đã đứng chờ tôi ở sân trường. Mừng quá, tôi nắm lấy tay Dung, tíu tít:
- Nhà văn Quyên Di mày ạ. Sao mày không lên lớp tao?
Nhưng tiếng nói của tôi ngưng lại khi tôi nhận thấy nét mặt của Dung trĩu buồn, khóe mắt ướt. Tôi hạ giọng, hỏi Dung, thân mật:
- Mày có chuyện gì vậy?
Nó chớp chớp đôi mắt, di di mũi giầy trên mặt sân:
- Anh Long... đi rồi!
- Đi đâu?
- Nhập ngũ!
Tôi như bị ném vào khoảng không. Choáng váng. Bên tai, chát chúa những âm thanh nổ ran. Tôi giữ vào tay nhỏ Dung cho đầu óc đỡ quay quay. Tôi không tin thính giác của mình:
- Nhập ngũ?
- Ừ!
Giọng nhỏ Dung buồn buồn, kể:
- Anh ấy tình nguyện gia nhập trường võ bị Đà Lạt mà không cho ai biết. Mãi đêm qua, khi tao đi học về, anh ấy mới nói cho gia đình hay. Bà bô tao muốn ngất xỉu luôn. Anh ấy bảo trước sau gì ảnh cũng phải đi. Thời buổi này con trai làm sao tránh được quân trường. Ông bô tao cũng buồn lắm, nói là sao không chờ thi xong đại học đã hãy quyết định, còn có mấy tháng nữa. Anh ấy trả lời việc nhà binh làm sao biết trước. Hơn nữa bốn năm trời người ta mới mở một khóa. Bây giờ có dịp mình cứ đi, mai mốt xin phép về dự thi đâu có khó khăn gì... Thế là sáng nay anh ấy ra xe sớm. Cả nhà khóc quá trời. Tao buồn cũng bỏ học luôn. À, anh ấy nói "gửi lời chào mày và chúc mày thi đậu"...
Tôi nghẹn ngào – Anh đi rồi hả anh? Sao anh không nói với em một câu nào? Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau? Em những tưởng sự mình xa nhau là quan trọng lắm chứ? Ít nhất anh cũng viết cho em một lá thư thật dài kể những tiếc nuối, những nhớ nhung, những hứa hẹn... hay gặp em, đưa em tới một nơi thanh vắng, anh buồn buồn nói những lời giã từ và hẹn ngày về... Nhưng chỉ có một lời ngắn ngủi và thường tình thôi sao anh Long? – Gửi lời chào mày và chúc mày thi đỗ – Anh cho thế là đủ? Anh đi rồi còn gì đâu ý nghĩa? Thi đỗ để làm gì anh nhỉ khi không có anh? Anh đi rồi. Và anh ác ghê vậy đó. Để em lại một mình. Không một lời trìu mến giã biệt. Sao nhỏ Dung tối hôm nọ nói anh dành cho em rất nhiều cảm tình và thương em kinh khủng. Nó nói dối hả anh? Vì nếu thương em anh đã chẳng ra đi lặng lẽ? Em đã bàng hoàng, hoang lạnh. Anh đi thật rồi hả anh?...
Nhỏ Dung còn kể nhiều nữa về chuyến đi của anh Long, nhưng tôi không còn nghe được gì mãi đến khi Dung nói thôi tao về nghe Huyền sáng mai tao lên nhà mày, tôi mới quay lại, gật đầu.
Tâm hồn tôi rã rời, đớn đau. Tôi muốn khóc cho vơi đi những giọt sầu chất chưa, nhưng không hiểu sao nước mắt như đã khô cạn. Tôi tới chỗ ba đứng đợi, không dám nói gì hay nhìn thẳng ba. Tôi không muốn ba bắt gặp cơn giao động trong tôi.
Vừa nổ máy, ba đã cho xe chạy nhanh. Gió thổi mạnh. Tôi thấy chút dễ chịu. Xe chạy tới gần một ngã tư thì khựng lại. Ba bảo vào đây đổ xăng đã, may quá chỗ kia có bán. Ba dắt xe đi trước, tôi theo sau một khoảng cách. Tiếng âm nhạc từ một ngôi nhà gần đó vọng ra. Tôi lắng nghe. Một bài hát quen quen. Nhắm mắt, cho tôi tìm một thoáng hương xưa. Cho tôi về đường cũ nên thơ. Cho tôi gặp người xưa ước mơ. Hay chỉ là GIẤC MƠ THÔI. Nghe tình đang chết trong tôi. Cho lòng tiếc nuối xót thương suốt đời... Bất giác tôi hát theo. Tâm trí tôi đã chùng xuống, dịu lại.
Ba dắt xe ra. Tôi ngồi lại lên yên sau. Dòng nhạc như vẫn réo rắt bên tai và tôi cũng đã hát trở lại bài đó hai, ba lần. Chính tôi cũng ngạc nhiên tại sao mình có thể hát được giữa lúc tôi tưởng mình rơi vào tuyệt vọng? Một sự bình yên êm nhẹ nhen nhóm trong tôi. Tôi như tỉnh sau cơn mê. Tôi nhìn rõ hàng cây hai bên đường, ánh đèn điện trắng đục. Hình ảnh anh Long hiện ra sáng quắc rồi thu nhỏ lại, lùi xa dần. Không khí về đêm mát rợi. Tôi thoáng nghĩ có thể sự ra đi của anh Long sẽ là một trắc nghiệm cho những tình cảm mới lớn trong tôi. Để tôi thấy rõ mình hơn. Ở tuổi này tôi đã thực sự biết yêu chưa hay chỉ là trường hợp "mỗi lần qua tâm hồn tôi bối rối – Chưa yêu ai mà như đã vừa yêu" Dĩ nhiên bây giờ tôi chưa thể trả lời câu hỏi. Để dành cho những ngày tháng sắp tới. Cho tương lai. Chỉ biết hiện tôi không còn thấy ngột ngạt nữa...
Chợt ba quay lại hỏi:
- Lạnh không con? Sao không đem áo len?
Tôi không nói gì, chỉ dựa đầu vào lưng ba. Chiếc xương sống của ba nổi lên sau làn áo. Ba gầy quá. Tôi nghĩ trong đầu như vậy và cảm thấy thương ba vô cùng – Ba ơi, con thương ba, thương mẹ, thương các em quá. Con sẽ đỗ cho ba xem.
Ba cho xe chạy nhanh hơn nữa. Gió thổi vù vù bên tai. Tôi ngẩng đầu lên. Trên bầu trời xám có những vì sao nho nhỏ lấp lánh.
Hoài Mỹ
(Viết xong 19-8-71)