Tết Nguyên Đán là ngày lễ đầu tiên của
một năm, bắt đầu từ lúc giao thừa cùng với lễ trừ tịch.
Tết là do ở chữ tiết đọc trại ra.
Nguyên là bắt đầu.
Đán là buổi sớm mai.
Như vậy Tết Nguyên Đán tức là Tết đầu
năm, nghi lễ mở đầu cho một năm mới. Nó phù hợp với tiết trời vì lúc nầy cảnh
vật cũng bắt đầu thay đổi. Tiết trời ấm áp, cây cối đâm chồi nẩy lộc sau một
mùa thu trụi lá trơ cành và một mùa đông giá rét căm căm. Nó cũng còn mang theo
một ý nghĩa đặc biệt : Mọi cái xui xẻo, bất hạnh, không may của năm cũ phải ra
đi để nhường lại cho may mắn, thịnh vượng, hạnh phúc của năm mới đến.
Chúng ta có rất nhiều tết trong 1 năm
như : Tết Nguyên Tiêu (15-1), Tết Đoan Ngọ (5-5), Tết Thất Tịch (7-7), Tết
Trung Nguyên (15-7), Tết Trung Thu (15-8) nữa. Nhưng dần dà người ta chỉ còn
giữ lại Tết Nguyên Đán và Tết Trung Thu mà thôi.
Theo lịch sử Trung Hoa thì âm lịch có
từ thời nhà Hạ (2.205 – 1.816 trước Tây Lịch) và lấy tên mười hai chi tức 12
con vật đặt cho 12 tháng. Như vậy tháng giêng của ta phù hợp với tháng Dần và
được chọn làm tháng của đầu năm. Đến đời nhà Ân (bị Thiếu nhi Phù Đổng Thiên
Vương đánh cho một trận tơi bời hoa lá í mà) lại chọn tháng Sửu làm tháng đầu
nằm. Tiếp theo đến đời nhà Chu thì lại chọn tháng Tí nhưng khi Tần Thủy Hoàng
lên ngôi thì tháng Hợi được đôn lên làm tháng đầu của năm. Đời Hán Vũ Đế thì
trở lại chọn tháng Dần và từ đó cho đến nay không thay đổi nữa.
Xét ra thì chọn tháng Dần là phải vì
đây là tháng giao mùa. Tiết trời ấm áp, mùa xuân tươi mát đã trở về thay thế
cho mùa đông lạnh giá, cây cối trổ bông, chim vui ca hót. Lòng người cũng vui
lây với cảnh vật, chứa chan hy vọng, mơ ước một ngày mới sẽ mang về nhiều may
mắn và hạnh phúc. Do đó ngày tết chúng ta mới có tục lệ chúc mừng nhau:
Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh.
BÁNH
DẦY BÁNH CHƯNG
Sau khi phá được giặc Ân, bình định
được đất nước, Vua Hùng Vương thứ 4 muốn truyền ngôi lại cho con, nhưng chưa
biết chọn hoàng tử nào trong 24 người con. Ngài liền bầy ra một cuộc thi để
chọn người kế vị. Hùng Vương liền gọi các con lại mà phán:
- Trong các con ai dâng ta vật ngon
của lạ ta sẽ truyền ngôi cho, kỳ hạn đến cuối năm phải có.
Các hoàng tử đua nhau lên rừng xuống
biển tìm trân châu mỹ vị để mong được kế vị vua cha. Chỉ riêng có người con thứ
9 tên là Lang Liêu mồ côi mẹ từ nhỏ, bằng hữu không có ai, Lang Liêu ngày đêm
lo lắng không biết phải kiếm món gì để dâng phụ vương. Bỗng một hôm mộng thấy
một vị thần mách bảo:
- Trong trời đất không có gì quí báu
bằng gạo, nó là một phẩm vật nuôi sống con người, con người không bao giờ biết
chán ngán. Vậy hãy lấy gạo gói thành hình vuông hoặc hình tròn để tượng trưng
cho trời và đất. Nó bao hàm cái ý nghĩa ơn trời đất phát dục vạn vật. Như thế
chắc Phụ vương con sẽ vui lòng và ngôi kia chắc về tay con.
Lang Liêu làm theo vị thần mách bảo và
đến kỳ hạn đem dâng vua. Hùng Vương nếm thử thấy ngon và có ý nghĩa liền truyền
ngôi cho Lang Liêu làm vua nước Việt. Hàng năm cứ năm hết, tết đến Lang Liêu
đem bánh này dâng lên cha mẹ và đặt ở Tiên miếu lễ bái. Từ đó thiên hạ đua nhau
bắt chước và trở thành một tục lệ của ngày tết.
GIAO
THỪA
Tết Nguyên Đán chính thức bắt đầu vào
giờ giao thừa từ nửa đêm chấm dứt năm cũ.
Giao thừa có nghĩa là cũ giao lại, mới
tiếp lấy. Người ta còn có tục lệ xin xăm và đi hái lộc để cầu may vào đúng giờ
giao thừa.
LỄ
TRỪ TỊCH
Lễ trừ tịch được cử hành vào giờ phút
cuối cùng của năm cũ bước sang năm mới, tức giờ Hợi ngày 30 (tháng đủ) và ngày
29 (tháng thiếu) của tháng 12 năm cũ và giờ Tý ngày mồng 1 tháng giêng năm mới.
Lễ này mang một ý nghĩa đặc biệt là
xóa bỏ mọi cái xấu, bất hạnh của năm qua để đón lấy cái may mắn của năm mới. Lễ
nầy cũng được cử hành vào lúc giao thừa nên gọi là lễ giao thừa. Lễ nầy còn
mang một ý nghĩa trọng đại : Tống Cựu Nghinh Tân nên được cử hành trang nghiêm
từ tư gia đến nơi công cộng, đình, chùa, nhà thờ, công sở…
THẦN
BẾP
Theo huyền thoại thì đời nhà Hạ rất
sùng bái quỉ thần. Họ cho rằng mỗi nhà đều có 5 vị thần canh giữ. Đó là thần
giếng, thần giữ cổng, thần giữ cửa, thần giữ nhà và thần giữ bếp. Vì vậy, người
thời bấy giờ mới lập ra Ngũ Tự để thờ. Dần dà người ta chỉ còn thờ có thần giữ
nhà để cầu mong làm ăn phát đạt thịnh vượng và thần bếp tức Táo quân mà thôi.
Đối với họ Thần bếp thì quan trọng lắm vì đây là vị thần trời sai xuống để dò
xét mọi hành vi đối xử ở trong mỗi gia đình và cứ mỗi năm khi năm hết, tết đến
là Ngài phải có nhiệm vụ về trời tâu trình tự sự cho Ngọc Hoàng Thượng Đế biết.
Cũng vì vậy mà dân gian cứ đến ngày 23 tháng chạp là làm lễ Tống biệt gọi là
tiễn đưa ông Táo về trời. Thôi thì đủ cả hoa, trái, gà, vịt… Lại có nơi còn sắm
sửa phương tiện di chuyển cho ông Táo như cá Chép, cò…ngoài ra còn hai cái mũ
đen, một cái mũ vàng, áo nhưng đặc biệt là không có quần, chỉ có hia mà thôi.
Vì vậy mà thi sĩ Tản Đà đùa dai:
Dăm
ba ông Táo dạo chơi Xuân
Đội
mũ đi hia chẳng mặc quần
Trời
hỡi làm sao ăn mặc thế?
Thưa
rằng: Hạ giới nó canh tân.
Theo truyền thuyết thì Táo quân là một
chuyện thương tâm giữa hai ông và một bà. Ngày xưa có hai vợ chồng nhà nọ nghèo
nàn, ăn ở với nhau rất đậm đà, hòa thuận. Nhưng vì nghèo nên người chồng phải
xa vợ để đi làm ăn. Một hôm, người vợ nghe tin chồng chết rất buồn rầu. Về sau
có người đến hỏi bà liền ưng thuận. Hai người sống với nhau đến tuổi già thì
bỗng ông chồng trước về. Nghe tin vậy bà rất lo ngại. Phần thì sợ người chồng
cũ trách mắng phần thì sợ thiên hạ chê cười không trung trinh với chồng, bà
liền nhảy vào đống lửa tự tử. Thấy vậy người chồng cũ cũng nhảy vào lửa tự vận
theo. Khi trở về tới nhà nghe tự sự, ông chồng mới cũng nhảy vào đống lửa chết
luôn. Câu chuyện thương tâm thấu tai Ngọc Hoàng, Người cảm cái trung hiếu tiết
nghĩa đáng nêu gương nên phong cho cả ba làm Tư mệnh Thần, trông coi việc bếp
nước, tức Táo quân vậy.
HUY
YÊN
(Trích tuần báo Thiếu Nhi Xuân Quý Sửu, 1973)