Phái đoàn Thiện chí chúng tôi từ
Saigon ra Trung vào khoảng giữa tháng chạp, mục đích tặng tiền và phẩm vật cứu
trợ cho đồng bào ở những vùng bị bão lụt tàn phá nặng nề nhất hồi trong năm.
Linh mục Đoàn Minh Thái, vị trưởng
phái đoàn, gọi đùa chúng tôi là một ban Tạp lục, vì phái đoàn gồm các thành
phần hỗn hợp. Phó Trưởng đoàn là Đại Đức Thích Tâm Bửu. 8 hội viên nam gồm:
Nghị sĩ Vũ Trác, Dân Biểu Nguyễn Hải Hà, anh Việt Tiến nhân viên đài VTTH, nhà
văn Duy Xuyên, thi sĩ Cao Hà, sinh viên Hồ Cửu Tú, nhạc sĩ Văn Định, giáo sư Tường
và 2 hội viên nữ là bà Bác sĩ Carol nhân viên hội Hồng Thập Tự Quốc Tế, và tôi,
một Akéla của đoàn Hướng Đạo Sinh Việt Nam.
Theo tôi biết thì việc mời gọi tụ họp các
thành phần như trên là do sáng kiến của Thầy Tâm Bửu. Nhưng người đắc lực nhất
trong việc tổ chức xin tiền và phẩm vật cứu trợ chính là Cha Thái và bà Carol,
còn lo cho phái đoàn về thủ tục hành chánh, phương tiện di chuyển, nơi ăn ở,
việc bảo vệ an ninh v.v… là phần của Nghị sĩ Trác và Dân biểu Hà. Thật ra chúng
tôi đều đã phân công ai có công việc nấy, mà việc nào xem ra cũng rất bận rộn
nặng nề.
Dĩ nhiên với danh nghĩa Phái đoàn
Thiện chí, chúng tôi đều hoạt động tự nguyện, hoạt động một cách say sưa thích
thú trong công tác xã hội “ủy lạo đồng bào bị bão lụt”.
Có thể, đôi khi người ta chỉ trích,
châm biếm những hoạt động xã hội, cho rằng các hoạt động này thường là tấm bình
phong của bọn người đạo dức giả, và bề trái của công tác xã hội thường có những
bộ mặt thật nham nhở, những bộ mặt bỉ ổi, tham nhũng v.v…
Tôi nghĩ rằng cái gì mà chẳng có mặt
trái. Và nếu 99 người làm việc xấu, có 1 người làm việc tốt thì việc tốt không
vì thế mà hóa ra vô ích. Tôi muốn làm 1 việc gì, một việc thật nhỏ mọn nào đó
vừa với sức tôi, để có thể giúp ích được cho đồng bào tôi ở miền Trung hiện
đang sống thật kham khổ sau mùa bão lụt liên miên vừa qua.
Khi Giáo sư Tường cho tôi biết Đại Đức
Thích Tâm Bửu đang cần 1 nữ nhân viên biết chút ít Anh ngữ để cùng đi ra Trung
với bà Bác sĩ Carol trong phái đoàn Thiện chí, tôi đã tình nguyện đi ngay.
Chúng tôi ra đây được 10 ngày rồi.
Tuần lễ đầu, phái đoàn đến thăm và tặng tài vật cứu trợ cho các gia đình ở ven
bờ biển Đà Nẵng. Những vùng đã bị nước biển dâng tràn ngập hồi trung tuần tháng
10, như Thanh Bồ, Đức Lợi, Ngọc Quang, Thanh Bình, Nội Hà, Thuận Thành, Tam Tòa,
Thạch Thang, Hà Khê, Thanh Khê v.v…
Tuần lễ thứ hai, chúng tôi đáp trực
thăng đến Quảng Trị, thăm viếng ủy lạo đồng bào nạn nhân thuộc các quận Gio
Linh, Cam Lộ và Hải Lăng. Có lẽ sớm nhất, cũng phải lưu lại đây 1 tuần nữa mới
xong việc. “Xong việc” chỉ có nghĩa là chúng tôi sẽ trao tặng hết số tài vật
xin được ở Saigon đến tận tay nạn nhân bão lụt. Chớ thật thì chúng tôi không đủ
tặng phẩm và cũng không thể đủ sức đi ủy lạo được tất cả số gia đình đồng bào
nạn nhân tại đây.
Trong bữa ăn sáng Cha Thái nói với bà
Carol:
- Ở Saigon xin được 1 kho tặng phẩm
với mấy triệu bạc tôi thấy tương đối đã nhiều. Song chở ra tới đây, thật quả
chỉ như muối bỏ bể.
Bà Carol cũng cho biết, số thuốc bà
đem theo đã hết ngay từ hôm phái đoàn còn ở Đà Nẵng. Và bà đã nhận được 1 số
thuốc khác do chi nhánh cơ quan Hồng Thập Tự Quốc Tế ở Huế gửi tiếp trợ cho bà.
Sáng nay thầy Tâm Bửu khuyến cáo phái
đoàn cần phải nghỉ ngơi 1 hoặc 2 bữa vì nhận thấy suốt 10 ngày qua chúng tôi đã
di chuyển và làm việc thật “quá sức lao động”. Sau đó, do quyết nghị của phái
đoàn chúng tôi nghỉ hẳn 24 tiếng đồng hồ. Nhân dịp này Đại Tá Tỉnh Trưởng ngỏ ý
mời phái đoàn dùng bữa trưa tại Tòa tỉnh. Tuy nhiên, bà Carol và tôi xin kiếu
từ, chị em chúng tôi có một vài việc riêng cần phải làm. Với lại, bà Carol nói
với tôi:
- Chị muốn đi lang thang với em trong
thôn xóm. Thật ra chị vẫn nghĩ rằng, chị chỉ mới hiểu biết rất ít về quê hương
của em.
Sau khi “Bố Thái” (danh từ vui nhộn,
thân mật của sinh viên Hồ Cửu Tú gọi cha Thái) và thầy Tâm Bửu dẫn phái đoàn đi
dự tiệc, bà Carol và tôi đã dành đến 3 tiếng đồng hồ để giặt giũ áo quần. Lúc
nào tôi cũng thấy bà Carol hoạt động thật hăng say, kể cả khi giặt đồ. Bà hăng
say tới mức giặt hết tất cả số áo đầm mà bà mang theo, ngoại trừ bộ đồ ngủ bà
đang bận trên người.
Đến lúc sửa soạn đi chơi bà Carol mới
khám phá ra điều đó. Gương mặt bà lộ vẻ thất vọng. Nhưng tôi không để bà buồn
lâu, tôi đề nghị bà hãy mặc tạm bộ đồ bà ba của tôi. Bà ưng thuận ngay, và phút
chốc bà đã trở thành một phụ nữ Việt Nam trông thật ngộ nghĩnh và dễ thương. Để
che bớt mái tóc bạch kim của bà, chúng tôi đều đội nón.
Tôi ngắm nghía bà và khen:
- Trông chị thật đẹp. Bây giờ chắc
không ai còn nhận ra bà bác sĩ Carol của Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế nữa.
Mặt bà hồng lên một cách tự nhiên:
- Cám ơn! – Bà nói giọng lơ lớ câu
tiếng Việt duy nhất bà đã học được, rồi lại dùng Anh ngữ mà nói chuyện với tôi:
- Ngoài em, chưa có người Việt Nam nào
khen chị đẹp cả. Nhưng chị có thể đoan chắc với em, bất cứ người Mỹ nào dù đàn
ông hay đàn bà thấy em đều phải công nhận em xinh đẹp. Riêng chị, chị còn thấy
nơi sắc đẹp Á Đông của em một sự nhu mì hiền hậu.
Tôi nói lí nhí cám ơn bà và e thẹn kéo
vành nón che thấp xuống mặt. Bà Carol cất tiếng cười lớn, tiếng cười thật ròn
rã vô tư. Chúng tôi lang thang, vừa đi vừa nói chuyện trên hương lộ xã Hải Kinh
(thuộc quận Hải Lăng). Con đường hẹp rải đá, còn ghi nguyên vẹn dấu vết của các
trận bão lụt. Chạy dài 2 bên đường, những căn nhà nhỏ mới được cấp thời dựng
lên một cách thô sơ vội vã, mái tôn mới sáng chói dưới ánh nắng. Trẻ nhỏ trong
các nhà không chạy ùa ra tròn mắt ngắm nghía chúng tôi như những hôm phái đoàn
đến thăm thôn xóm hẻo lánh. Tôi nghĩ rằng cái nón lá và bộ đồ bà ba giản dị đã
đồng hóa chúng tôi với mầu sắc nơi đây.
Đến 1 ngã ba thuộc ấp Phú Kinh, bà
Carol rẽ xuống theo bờ đất dẫn vào lùm tre um tùm. Chúng tôi ngừng lại, và nhìn
thấy phía trong lùm tre 1 căn nhà kỳ lạ. Đúng ra không phải căn nhà, đó chỉ là
cái mái nhà của 1 căn nhà đã đổ sụp, trông giống như 1 cuốn sách bìa cứng úp
trên bàn.
Tôi bỗng nhớ đến một lời dặn của Dân
biểu Hà và chợt cảm thấy lo ngại về vấn đề an ninh. Tôi bảo bà Carol:
- Em thấy chúng mình không nên ở lâu
tại đây. Có lẽ nên trở lên con đường lớn, và đi về nếu chị cảm thấy mỏi chân.
Bà Carol không trả lời, dường như bà
đang chăm chú lắng nghe một cái gì, bỗng bà nắm tay tôi, mắt sáng lên:
- Này em! Em có nghe thấy tiếng rên
không? Dường như có người đau ốm trong mái nhà kia.
Không chú ý gì đến sự bất đồng ý của
tôi, bà xăm xăm lách mình qua 1 ngõ tre để bước vào căn nhà đổ sụp.
Trong bóng tối lờ mờ, mùi hôi ẩm xông
lên nồng nặc, 1 cảnh thượng thật thương tâm hiện ra trước mắt chúng tôi. Trân
cái sập bằng gỗ cẩm lai đặt giữa nhà, 1 cô gái chừng 14 tuổi đương nằm rên hừ
hừ.
Trong vùng bóng tối ở xó nhà phát ra tiếng
gầm gừ và lát sau một con chó già ốm chệu chạo bước ra dương cặp mắt lẻm kẻm
nhìn khách lạ, xem nó có vẻ ngạc nhiên và không thích sự “đột nhập gia cư”
không có lý do của chúng tôi, nhưng nó không tỏ thái độ nào chống đối chúng tôi
cả.
Trong lúc tôi e ngại đảo mắt quan sát
khắp nơi trong căn nhà đổ sụp chỉ còn cái mái, thì bà Carol đã sà ngay xuống
con bệnh để thi hành phận sự của bà.
Bà sờ trán, bắt mạch, áp tai vào lưng
nghe ngực. 1 lát cô gái thức tỉnh, hé mắt nhìn người lạ. Bà bác sĩ Carol dường như
quên mình là người Mỹ, bà hỏi thẳng cô bé:
- Helo! Tell me what you feel?
Tôi bước tới tính nói cho cô hiểu rằng
đây là bà bác sĩ và bà muốn biết cô cảm thấy trong mình thế nào?
Nhưng tôi chưa kịp “thông ngôn” thì cô
bé bỗng cất tiếng trả lời bằng tiếng Anh với giọng nói yếu ớt nhưng thật trôi
chảy:
- I feel altogether ill, and had fits
of shivering during the whole of last night.
Bà Carol ngạc nhiên sững sờ, cái miệng
bà há ra tròn như chữ o. Tôi tới ngồi cạnh sập bên cô bé và chúng tôi đã trở
nên thân thiện và tìm hiểu nhau.
Bà Carol giành lấy phần “trình bày”
cho cô bé biết về Phái đoàn Thiện chí và sự gặp gỡ tình cờ của chúng tôi với
cô. Cô bé sau khi được chích 1 mũi thuốc khỏe đã tỏ ra tỉnh táo hơn, cô cho
biết:
- Thưa hai bà, tên em là Vũ Hoàng thị
Yến Loan.
Bà Carol hí hoáy ghi tên Loan vào 1
quyển sổ nhỏ và đọc 1 cách khó khăn:
- Dzu-Hoa-ti-y-en-lâu.
Yến Loan nhắc lại:
- Vũ Hoàng thị Yến Loan, nhưng thôi
bác sĩ cứ gọi em là y-en-lâu cũng được… yellow! Vâng! Em là yellow.
Bà Carol cất tiếng cười vô tư, bà nắm
tay Loan thân mật trách:
- Đừng gọi chị là bà bác sĩ. Yellow
hãy gọi là chị cho thân mật, chị ước ao như thế. Yellow, tên em có nghĩa là gì
nhỉ?
- Thưa bà… ạ… thưa… chị, tên em không
có nghĩa gì cả. Song Vũ và Hoàng là tên họ ba má em. Thưa hai chị, ba má và em
gái của em, bé Yến Châu, chết rồi! Chết hết cả trong tai họa sóng thần dâng lên
bất ngờ và tràn ngập miền này sáng ngày 12 tháng 10 năm 1971.
Loan nghẹn ngào nín thinh một lúc lâu,
hai giòng lệ tuôn chảy từ cặp mắt nai tơ đen lánh.
Bây giờ tôi mới nhận thấy cô bé có 1
nét đẹp thật đặc biệt, tôi muốn so sánh với gương mặt của Thánh nữ Têrêsa,
nhưng có lẽ mặt Thánh nữ Terêsa tươi vui hơn, vì không bao giờ bà phải sống
cuộc đời khốn khổ bất hạnh đến như cô gái này.
Yến Loan kể tiếp:
- Gia đình em từ xưa, từng vào hàng
khá giả ở đây, em được gửi trọ học ở Saigon, và đang theo lớp Đệ Tứ ở Trưng
Vương. Khi em nhận được điện tín của anh Dũng gọi về nhà thì em đã trở thành mồ
côi và gia sản tan hoang như hai chị đang thấy đó.
Yến Loan lại khóc thút thít, tôi thấy
bà Carol cũng khóc theo, bà kéo vạt áo bà ba lên lau mắt, thật là một hình ảnh
quen thuộc, suýt nữa tôi đã đem bà để ví với hình ảnh 1 bà mẹ quê hoặc 1 quả
phụ Việt Nam trong cơn ly loạn. Tôi hỏi Loan:
- Em còn 1 người anh trai tên Dũng
phải không?
- Vâng, gia đình em giờ chỉ còn sót
lại 2 anh em. Anh Dũng vô Nhân Dân Tự Vệ, bữa nay có công tác chiều mới về. Bây
giờ em không thể xa anh Dũng được, vả lại em cũng không còn đủ tiền bạc để ăn
học nữa, em sẽ sống mãi ở đây, trên mảnh đất của ba má để lại, em sẽ làm việc
như 1 thôn nữ, và 1 ngày nào đó em ước mong, anh Dũng và em sẽ dựng lại căn nhà
này để lấy chỗ thờ ba má em và bé Yến Châu.
Bà Carol và tôi đều ái ngại và thông
cảm nỗi đau buồn thấm thía của cô gái bất hạnh. Lát sau, bà đặt tay lên trán
Loan ôn tồn nói:
- Hồi nãy Yellow bảo với chị rằng em
cảm thấy hoàn toàn ốm và lên cơn sốt suốt cả đêm hôm qua. Nhưng chị nghĩ bịnh
em không đáng lo ngại. Bây giờ em hãy uống 1 ít thuốc chị đem theo. Có thể,
chiều mai chị sẽ lại đến thăm em.
- Em cám ơn hai chị, em và anh Dũng
mong gặp hai chị chiều mai.
Bà Carol hôn lên trán cô bé, rồi chúng
tôi ra về. Bà đã phúc trình tỉ mỉ “cuộc tao ngộ hãn hữu” vừa qua cho Linh Mục
Thái biết. Bố nghe có vẻ cảm động và Bố hứa sẽ gửi tặng cô bé bất hạnh một số
tài vật gấp đôi số lượng mỗi phần dự trù.
Chiều hôm sau chúng tôi trở lại căn
nhà kỳ dị, có giáo sư Tường và sinh viên Hồ Cửu Tú cùng đi. Chúng tôi đã gặp cả
hai anh em Yến Loan và Dũng. Thầy Tường đại diện cho phái đoàn trao tặng anh em
Dũng 2 phong bì đựng tiền, và 2 thùng tặng phẩm. Bà Carol lại khám bệnh và phát
thuốc cho con bệnh xinh đẹp của bà. Anh Tú đột nhiên nắm lấy tay Dũng nói một
cách thật cảm động:
- Dũng, Tú cũng mồ côi, thật nghèo và
cũng có 1 đứa em gái nhỏ như em Loan, nhưng, nhưng… nhưng Dũng và Loan… đau khổ
hơn chúng mình quá nhiều. Mình… mình muốn gửi lại Dũng và Loan một cái gì để kỷ
niệm.
Anh Tú ngượng nghịu rút trong túi ra
cái kính mát Sol Amor mà anh thường mang và 1 cây bút máy Parker.
- Có lẽ Dũng và Loan không cần thiết
mấy thứ này, nhưng… xin đừng từ chối, vì đây là… tình bạn… chúng mình đều là
những sinh viên học nghèo (anh Tú trao cây Parker cho Loan). Loan giữ lấy cái
Parker này đi, có khắc tên Tường Vân, con em của anh đấy, về Saigon anh sẽ bảo
nó biên thư cho Loan.
Hai anh em Dũng, Loan nhận lấy kỷ niệm
của anh Tú nghẹn ngào không thốt được nên lời.
Thế rồi chúng tôi về tiếp tục “công
tác xã hội” trong suốt tuần lễ thứ nhì.
Ngày chót của cuộc hành trình Bố Thái
lại quyết định bắt buộc phái đoàn phải nghỉ 1 hôm trước ngày lên đường trở về
Saigon.
Các vị hội viên nam bèn dẫn nhau đi
mua đồ kỷ niệm, nào nón Huế, mè xửng, hình ảnh thành phố v.v…
Bà Carol và tôi lại hì hục giặt đồ.
Bỗng bà chợt nhớ đến cô bé Yellow, bà rủ tôi giặt xong đi thăm Yến Loan. Tôi
còn lưỡng lự suy nghĩ thì… Yến Loan xuất hiện ngay trước mặt chúng tôi.
Cô bé này đã khỏe mạnh hồng hào khá
rồi. Nàng ôm 1 con búp bê khá lớn khiến cho bà Carol ngạc nhiên:
- Chị vui mừng nhìn thấy Yellow được
khỏe. Sao, bữa nay em đem búp bê đến khoe với chị hả? Đối với chị, Yellow thật
quả là 1 con búp bê rất đáng yêu.
- Không! Thưa chị em không đem búp bê
đến khoe, song là đến để trả lại cho phái đoàn.
Tôi rất đỗi ngạc nhiên, nên đã hỏi
Loan bằng tiếng Việt:
- Ủa? Sao lạ vậy Loan? Phái đoàn có
điều gì làm em buồn không?
- Không! Thưa chị em không bao giờ dám
buồn phái đoàn song em cần phải nạp lại con búp bê này, em không dám nhận. Đây,
chị xem này.
Bà Carol trố mắt nghe chúng tôi nói
chuyện. Bà không hiểu gì hết, song khi tôi đỡ lấy con búp bê ở tay Loan thì bà
cũng xáp tới coi. Loan chỉ cho tôi vặn rời cái đầu búp bê ra, trong ruột nó…
trời ơi! 1 cuộn giấy bạc 500đ nhét đầy bụng búp bê. Tôi lắc mấy cái, cuộn giấy
bạc rơi ra và 1 lá thơ rơi theo.
- Thế này là thế nào? – Bà Carol hỏi
Loan.
- Thưa chị em không biết thế nào cả.
Song em nghĩ rằng em không được phép nhận số tiền quá lớn này. Có lẽ của 1 gia
đình nào bỏ quên ở đây, hoặc vì 1 lầm lẫn nào đó phái đoàn đã đưa lộn cho em
phần quà này.
- Ồ! Không! Không có vấn đề đưa lộn.
Phần quà này của 1 gia đình nào đó ở Saigon, tự họ niêm phong vô thùng và có đề
rõ ở ngoài “xin gửi tặng đến 1 nữ sinh nạn nhân bão lụt miền trung”. Vậy còn
bức thư này em đã đọc chưa?
- Thưa hai chị, bức thư này không đề
tên em, em không dám mở coi.
Bà Carol ồ lên một tiếng giơ cả 2 tay
lên trời, bước tới ôm choàng lấy Yến Loan, hôn thật kêu lên má cô bé, bà thốt
lên:
- Trời ơi! Em Yellow của chị! Em thật
thánh thiện, ngay thẳng và ngây thơ. Đâu nào! Chúng ta hãy coi xem bức thư này
nói gì.
Tôi đỡ lấy phong thư, xé lớp phong bì,
đọc và dịch lại cho bà Carol hiểu.
Saigon ngày 25 tháng 12 năm 1971
Thưa chị
Em tin chắc cha Thái đã trao tặng phẩm
“búp bê” này đến 1 “nữ sinh nạn nhân bão lụt miền trung” đúng theo lời dặn ba
em đã ghi ngoài thùng đựng đồ.
Xin chị đừng ngạc nhiên, và trước hết
xin chị hãy vui vẻ nhận số tiền em gửi tặng chị. Chắc chị đang muốn biết em là
ai phải không? Thưa chị em tên là Tuyết Hằng, một cô bé, con nhà giầu, rất giầu
thì đúng hơn, nhưng cũng là 1 cô gái suốt đời đau khổ: em đã bị tê liệt 2 chân
suốt 5 năm nay.
Chúa ơi! Sao con lại phải gánh chịu
suốt đời 1 hình phạt ghê gớm đến thế. Lậy Chúa. Trên cõi đời này có ai phải
chịu sự đau đớn như con nữa hay không? Ước gì ngoài con, không còn ai bị khổ
đau đời đời nữa cả.
Chị ơi, số tiền này là quà Noel của em
đấy. Các ông bà bạn của ba má em đều giầu kếch sù, mỗi năm em đều nhận những số
tiền tương tự. Nhưng số tiền này dù có nhiều hơn bao nhiêu đi nữa cũng không
làm em vui được, tiền bạc thật chẳng giúp ích gì cho em. Em muốn gửi đến biếu chị
vì em nghĩ rằng, có thể nó sẽ giúp ích 1 phần nào trong hoàn cảnh của chị.
Em đoán rằng chị đang đau khổ, em thấy
chiếu trong Tivi cảnh nước lụt dâng lênh láng, như vậy chị sẽ phải nghỉ ở nhà
không đi học được, có thể con mèo hoặc con chó minô của chị đã bị chết đuối,
cũng có thể vườn hồng của chị bị ngập nước, những bông hoa thật đẹp rã cánh
hết. Em đoán chị sẽ buồn, buồn lắm. Nhưng xin chị gắng quên đi, vui vẻ lên, vì
nỗi buồn của chị đã có em chia sẻ. Em xin Chúa cho em đau khổ 1 mình thôi, để
tất cả bạn bè em, trong số có chị, sẽ được hạnh phúc.
Thật sự, bây giờ, em gần như đã quên
được nỗi đau rồi, em thấy không cần thiết gì đến đôi chân bị tê liệt nữa. Và
chị ơi! Em đang vui đây chị ạ. Em xin Chúa ban niềm vui xuống trong tâm hồn
chị, để mùa xuân này chị sẽ thấy cuộc đời thật đẹp, thật là đẹp. Em của chị.
Tuyết Hằng
Tôi dịch xong bức thư của Tuyết Hằng,
thì cha Thái, thầy Tâm Bửu và một số anh em đã về từ bao giờ đứng vòng xung
quanh chúng tôi. Yến Loan đứng giữa tay cầm búp bê và nắm giấy bạc, mặt ngây ra
như bị thôi miên. Lâu, rất lâu sau, cha Thái tiến đến trước mặt cô bé. Ngài hỏi
nhỏ nhẹ:
- Con còn buồn nữa sao?
- Thưa Cha – Loan ngước cặp mắt đẫm
lệ, nhìn cha Thái run run nghẹn ngào – Con hết buồn rồi, thật không ngờ, thưa
cha, con không ngờ chung quanh con có bao phủ một tình yêu thương tuyệt diệu.
Con hay tủi thân và hay khóc nhưng… Thưa cha, hôm nay thật con đã tìm thấy một
nguồn an ủi cao quí.
Vẫn cặp mắt còn ướt lệ, Loan mỉm cười,
nụ cười dường như đã lâu lắm nay mới thấy nở lại trên vành môi cô bé mồ côi.
Chúng tôi trở về Saigon, và cho đến
nay tôi vẫn chưa tìm ra được địa chỉ của Tuyết Hằng, cô bé bị tê liệt, để kể
cho cô nghe câu chuyện “Con Búp bê hạnh phúc” của cô. Nhưng tôi nghĩ rằng trước
sau gì Hằng cũng sẽ đọc chuyện này. Riêng về Yến Loan, em bé Yellow xinh đẹp
của tôi, chắc chắn mùa Xuân này sẽ đến với em trong tiếng cười yêu thương và
niềm vui bất tận.
QUỐC
BẢO
(Trích
tuần báo Thiếu Nhi số 25, 26, Xuân Nhâm Tý, ra ngày 30-1-1972)