Thứ Năm, 30 tháng 1, 2025

Ánh Sao Đêm

 

Trời đã bắt đầu về chiều. Sương mù lởn vởn mờ mờ che khuất con đường lát sỏi dẫn từ nhà ra cổng vườn, con đường mà sáng nay em tưởng nó sẽ dẫn em vào một thế giới đầy tình thương mà từ khi bắt đầu hiểu biết, em chưa hề được biết đến.

Từ bao lơn em có thể nhìn khá xa. Nhưng tầm mắt của em bị chận lại bởi sương chiều. Cố giương to đôi mắt, em cũng chỉ thấy thấp thoáng cánh cửa vườn màu xanh lá cây đậm. Mây chiều đùn lại từng cụm to lớn, trắng bạc pha màu tim tím. Những tàn cây màu xanh lam mờ dịu trong sương. Ngần ấy thứ tạo nên một cảnh thật buồn và đẹp. Trời Đà Lạt lạnh lạnh là. Em tự hỏi:
 
- Đã 30 tết rồi sao?

Em nhắm mắt nhớ lại cuộc sống bình thản pha chút vội vàng của em trong cô nhi viện suốt 12 năm dài. Trong ấy, em thực sự thiếu thốn tình thương. Chẳng phải các soeur không thương nhưng ngoài việc lo cho các cô nhi, các soeur còn phải tìm cách sinh nhai. Số tiền của những người hảo tâm tặng đã thấm vào đâu so với thời vật giá mắc mỏ, mà các soeur thì phải lo một lúc hàng ngàn trẻ em về đủ mọi mặt.

Câu chuyện ban sáng lại trở về với em. Từ 8 giờ sáng em đã nhấp nhỏm chờ mặc dầu em dư biết đến 10 giờ "người ta" mới đến. Đến để đem em về làm con nuôi.

Em thèm vô cùng được kêu tiếng "mẹ" cũng như được nghe tiếng "con" ngọt ngào thương yêu. Em cũng chưa hề được biết thế nào là hơi ấm của lòng mẹ. Đó cũng là những lẽ khiến em gật đầu không suy nghĩ khi biết có người muốn xin em về làm con nuôi.

Nhà ba mẹ nuôi em là một biệt thự ở giữa một khu vườn rộng lớn ở Đà Lạt. Em bước vào nhà, còn đang ngỡ ngàng trước vẻ sang trọng của căn phòng khách thì một cô bé tóc thắt bím, mắt thật to, den nhánh, xinh như búp bê chạy ra sà vào lòng mẹ nuôi em tíu tít hỏi chuyện. Mẹ nuôi em khẽ đẩy cô ra, mắng yêu:

- Xấu nào! Kiều Nhi có để mẹ nói không? Món quà mẹ nói với Nhi lúc nãy đây này.

Kiều Nhi ngạc nhiên quay lại nhìn em. Mẹ nuôi em nói thêm:

- Mẹ xin Bình về làm con nuôi. Với lại để chơi với con kẻo rồi suốt ngày cứ kêu là không có bạn chơi.

- Con hổng chịu đâu.

Cô bé vừa phụng phịu nói vừa vụt chạy biến vào trong. Em sững sờ mở to mắt nhìn theo. Ba má nuôi em cũng ngạc nhiên không kém, hai người nhìn nhau lắc đầu, thở dài. Ba nuôi em an ủi:

- Thôi, con đừng buồn, Nhi nó được cưng chiều nên sanh ra khó tính. Vả lại, nó chưa hiểu được con ngay đâu. Để rồi ba mẹ nói với nó sau. Giờ con lên xem phòng đi.

Em cắn chặt môi cố giữ cho nước mắt - nước mắt đã đọng đầy khóe - khỏi trào ra. Mọi vật trước mắt em, trong căn phòng khách sang trọng này bỗng tối sầm lại, nhạt nhòa. Lâu đài hạnh phúc của em vừa sụp đổ theo bước chân của Kiều Nhi. Từ lúc mới gặp Nhi, em đã xây trong lòng biết bao mộng ước đẹp đẽ, huy hoàng. Kiều Nhi là con một, sống thừa thãi tình thương nhưng Nhi không bằng lòng san sẻ cho em dù chỉ là một chút. Đối với em, Kiều Nhi sung sướng và kiêu sa quá.

Không hiểu sao lúc xảy ra câu chuyện không vui ấy, ba mẹ nuôi của em đã nói gì với Kiều Nhi mà khi Nhi nhìn em, trong đôi mắt hiện rõ những nét khinh ghét, hận thù pha chút lạnh lùng. Đôi mắt của Nhi to và đẹp thật, nhưng sao nó lạnh như băng, không chút cảm tình.

Em nuốt nước bọt và nghe đắng cả cổ họng. Nghẹn ngào dâng lên tận cổ. Ý tưởng xin được trở về cô nhi viện đã bắt đầu manh nha trong đầu óc em. Không, em không muốn về. Em thèm được gọi tiếng "mẹ" như Kiều Nhi và cần tình thương yêu ruột thịt. Trời đã bắt đầu vào tối và lạnh hơn. Em rùng mình trở vào nhà cố xua đuổi ý nghĩ ấy. Bóng Kiều Nhi thấp thoáng hình như đang tìm ai. Định bụng sẽ cố gắng làm quen với Kiều Nhi, em tiến lại gần hỏi:

- Kiều Nhi tìm gì vậy?

Nhi đáp trống không:

- Me bảo đem lọ cổ rửa để chốc nữa cắm hoa cúng giao thừa.

Hẳn là mẹ nuôi em tạo dịp cho em với Kiều Nhi nói chuyện với nhau.

Em hỏi tiếp:

- Me bảo Bình hở?

- Ừ!

Em đón lấy chiếc lọ trên tay Nhi, cố gợi chuyện:

- Mọi năm me vẫn dùng lọ này để cắm hoa hở?

- Ừ - Nhi đáp cộc lốc.

Em kiên nhẫn hỏi tiếp:

- Những năm trước thì Nhi rửa lọ hở?

Hiểu lầm em phân bì, Nhi đỏ mặt giận dữ một cách không ngờ.

- Không rửa thì trả đây.

Vừa nói Nhi vừa giật lại chiếc bình trên tay em. Chiếc lọ để lâu không dùng nên bụi bám đầy, trơn trợt.

Xoảng!

Chiếc bình tuột khỏi tay Nhi rơi xuống vỡ tan. Gương mặt Nhi lúc nãy đỏ vì giận dữ giờ trở màu xám ngắt sợ hãi. Em sững sờ đứng yên không biết nói gì.

Quên cả giận, Kiều Nhi lắp bắp:

- Chết...! Chiếc lọ này... Ba quí lắm...

Một phút im lặng trôi qua. Bầu không khí thật nặng nề khó thở. Em tự cảm thấy mình cần phải làm một cái gì. Em nắm tay Nhi, bàn tay lạnh ngắt, rồi thì thầm:

- Nhi đừng sợ, Bình sẽ nhận là Bình làm bể, Bình chỉ...

Thốt nhiên, cổ họng em nghẹn lại, em định nói là em chỉ mong được làm bạn với Nhi. Nhưng... em đang đi xin tình thương đây sao. Em lại muốn  khóc. Nhi thở một hơi dài, siết chặt tay em:

- Bình tốt quá. Cho Nhi xin lỗi nhá. Nhi cứ tưởng... Mà thôi, lát nữa, hai đứa mình cùng nhận tội. Thấy mình hòa thuận chắc ba me không nỡ rầy nhiều đâu.

Em nghe lòng ấm hẳn lại. Tình thương cuối cùng rồi cũng đến với em. Nhìn sang Nhi, Nhi cũng đang mỉm cười sung sướng.

- Mình sẽ là bạn thân Bình nhá.

Em gật đầu không nói. Lời nói bây giờ không đủ diễn tả sự sung sướng của em lúc này.

Em nhìn ra ngoài trời. Một vài vì sao xuất hiện đầu tiên lấp lánh như cười với em. Trong phút chốc câu chuyện chiếc bình vỡ bị rơi vào quên lãng để nhường chỗ cho hạnh phúc. Mùa xuân năm nay, mùa xuân đầu tiên đến trong đời em với đầy đủ hương vị yêu thương.


NGUYỄN THỊ MỘNG NGỌC    

(Trích từ bán nguyện san Tuổi Hoa Xuân Tân Hợi, 1971)

Một Thời Yêu Dấu


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ta lớn lên xa dần vùng tuổi dại,
Biết mấy lần bưng mặt khóc cô đơn.
Chồng sách kia mang bao nét tủi hờn
Bao kỷ niệm buồn vui tràn lênh láng.

Có những đêm thức khuya đèn chong sáng,
Lòng chợt buồn tiếc nuối những ngày qua.
Nhớ năm xưa hoa phượng nở mặn mà,
Có đứa trẻ đang rập rình bắt bướm.

Chiều học về, trên đường chuồn bay lượn,
Mon men gần ta nín thở chìa tay,
"Chuồn ơi đừng bay, ta mến thương mày!"
Bỗng chuồn vụt bay, ta ngẩn người luyến tiếc.

Tháng ngày thơ ta vui chơi mài miệt
Quên học hành, quên cả những bữa ăn.
Mẹ rầy la, ta đứng lặng âm thầm,
Khóc thút thít, cơm chẳng thèm ăn nữa.

Lại mắc thói, chiều ăn cơm giở bữa,
Mẹ không cho, ta buồn tủi giận hờn.
Chị em cười: "Ô! Xấu quá bay ơi!
Con trai lớn thế, mà vẫn còn nũng nịu".

Những buổi chiều gió thơm lành mát dịu,
Đồng quê ta thắm đẹp ánh hoàng hôn
Cánh diều bay cao, thoảng thoảng tiếng chuông buồn,
Chim én lướt mây ngàn về chốn ấy.

Rồi tiếng pháo đầu xuân cười vang dậy
Chiều ba mươi, làng xóm rộn ràng vui.
Ta về nhà náo nức hỏi tới lui,
"Tết đến rồi, áo con đâu hở mẹ?"

Sung sướng lắm những ngày xuân thơ bé,
Có lì xì, có áo đẹp mới tinh,
Có bánh chưng, có pháo nổ bên đình
Có tất cả niềm vui thời thơ ấu...

Thôi, ta đã mất đi một quãng đời yêu dấu.
Ngoài trời khuya gió lạnh rít qua thềm...

                                                         TAO CHÂU
                                               "một chiều trông mưa"
                                              Châu Sơn, Banmêthuột

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 44, ra ngày 25-6-1972)


Thứ Tư, 29 tháng 1, 2025

Ngày Tết Chơi Hoa


Dân ta thích chơi hoa vào ngày Tết. Vì thế, ngay từ xưa, các cụ đã nghiên cứu tỉ mỉ về các loài hoa, từ thứ được giới bình dân ưa chuộng như mồng gà, vạn thọ ; đến các loại hoa thuộc cấp trung lưu như cúc, mai, thược dược và các giống goa đài các được sủng ái trong giới quyền sang cao quí như thủy tiên, phong lan.

Các người chơi hoa coi việc lựa giống, kén ngày gieo hạt và chọn đất trồng hoa là cả một vấn đề quan trọng.

Đối với hoa vạn thọ, trước hết, phải chọn loại hoa có bông thật lớn, hột thật già và mẩy đem phơi. Kế đến, chuẩn bị đất thịt có pha cát, tro và rơm rác mục, rồi chờ tới ngày rằm tháng mười âm lịch mang giống ra gieo. Cây con lên được một tháng thì đánh trồng vào chậu, hay giỏ. Ít ngày sau, ngắt ngọn cho cây ra nhiều nhánh. Mồng gà, vạn thọ, nếu được chuẩn bị nơi thích hợp như đầy đủ ánh nắng, không khí và nước, hoa sẽ nở rất to và đẹp đúng vào ngày ông Táo về trời, tức ngày 23 tháng chạp ta.

Đối với loại hoa trung lưu như thược dược, cúc, mai, lẽ dĩ nhiên sự chuẩn bị cũng rất chu đáo. Chẳng hạn như giống mai vàng, nếu muốn hoa nở đều và nhiều vào ngày mồng một Tết, phải tính ngày ngắt lá cho thật chính xác. Nếu cây được trồng ở nơi râm mát, phải ngắt lá trước Tết 20 ngày, nếu cây mọc ở nơi đầy đủ ánh nắng thì phải ngắt lá trễ hơn 5 ngày, nghĩa là vào ngày rằm tháng 12 ta. Những nhà chơi mai chuyên môn còn khuyên ta nên nấu một nồi nước sôi, đổ vào gốc cây thì đúng vào ngày Tết hoa sẽ nở rất sai và có mầu sắc tươi thắm khác thường.

Nói tới các loại hoa thượng lưu thì nghệ thuật săn sóc hoa mới thật tinh vi, cầu kỳ nếu không nói là khổ công. Trong số những hoa này, nổi tiếng nhất là thủy tiên và phong lan.

Về hoa thủy tiên, các nhà chuyên môn ngoài việc phải tính từng ngày để gọt hoa, phải nghiên cứu cách gọt sao cho hoa nở thật đẹp vào ngày Tết.

Riêng giống phong lan thì ngày nay được nhiều giới chơi hoa ưa thích, giống hoa này ngoài hình dáng kỳ lạ ra, chúng còn có màu sắc và mùi thơm rất đặc biệt. Chơi phong lan rất công phu và tốn kém. Người ta thường trồng lan trong nhà kiếng có những hệ thống phun nước, chiếu ánh sáng, phát hơi nóng, hơi lạnh rất khoa học. Chính vì vậy mà giống hoa này được mệnh danh là hoa vương giả vì chỉ những người giầu có, thừa tiền thừa của mới đủ điều kiện chơi giống hoa này.

Đối với người Việt Nam ta, hoa có thể tô điểm cho khung cảnh gia đình thêm phần vui tươi duyên dáng, nhất là trong mấy ngày Tết. Hoa cũng còn mang lại nhiều may mắn cho người chơi hoa trong công việc làm ăn. Chính vì thế mà trong mấy ngày Tết, đi tới đâu, ta cũng thấy hoa tới đó. Nhà giầu thì có hoa bầy từ cổng bầy vào trong nhà. Nhà nghèo khó thì cũng cố mua cho được một vài chục bông vạn thọ, cắm vào lọ, chưng nơi phòng khách hay bầy trên bàn thờ. Ngày Tết mà không có hoa hẳn là mất nhiều hương vị của ngày Tết.


VĂN TRUNG     

(Trích tuần báo Thiếu Nhi Xuân Ất Mão, 1975)

Ngày Tết Nói Chuyện Lịch


Hằng ngày, chúng ta lần bóc những trang lịch treo tường ghi những chi tiết thời gian cần thiết cho đời sống của chúng ta và trước thềm mỗi năm mới chúng ta lại có dịp chọn trong muôn ngàn kiểu lịch để lấy một kiểu hợp với sự cần dùng của chúng ta. Cử chỉ đó được lập đi lập lại nhiều lần như một thói quen nhưng chắc chắn là không mấy ai đã nghĩ rằng những tấm lịch quá quen thuộc với chúng ta này đã có một lịch sử lâu đời, là một công trình của nhiều nhà thông thái, đã và đang gây ra nhiều cuộc bàn cãi thú vị trên khắp năm châu.

Nhân dịp đang đón xuân năm mới, chúng tôi sưu tầm chút ít tài liệu về lịch để cống hiến bạn đọc thưởng xuân.

Căn cứ vào sự tuần hoàn của những hiện tượng thiên nhiên, người ta định ra năm, tháng, ngày để ghi nhớ những khoảng thời gian ấy, người ta dùng một phương pháp gọi là lịch.

Trên thế giới, có nhiều thứ lịch. Thứ nầy thứ kia, tùy theo cách tính năm, có khác nhau. Nhưng hiện nay, thứ lịch được thông dụng nhất là dương lịch. Ở nước ta cũng như ở vài nước Á châu, người ta thường dùng thêm một thứ lịch nữa gọi là âm lịch.

Dưới đây chúng tôi chỉ nói về dương lịch và âm lịch, thiết tưởng hai thứ đó cũng đủ để bạn đọc có một ý niệm tổng quát về lịch nói chung.


DƯƠNG LỊCH

Dương lịch dựa vào sự chuyển động của trái đất chung quanh mặt trời theo một quỹ đạo hình bầu dục và mặt phẳng xích đạo của trái đất cũng không trùng với mặt phẳng của quỹ đạo nên trái đất hấp thụ bức xạ nhiệt của mặt trời mỗi lúc trong một năm khác nhau. Vì thế sinh ra thời tiết khác nhau. Căn cứ vào sự tuần hoàn của những thời tiết nầy, người ta phân biệt bốn mùa là Xuân, Hạ, Thu và Đông mà chúng tôi sẽ nói tới sau.

Theo sự tính toán của các nhà thiên văn học thì cứ sau 365 ngày và non 1/4 ngày (tức 24,22 của một ngày hoặc 5 giờ 45 phút 46 giây) thì trái đất quay quanh mặt trời được một vòng. Dương lịch lấy thời gian đó làm một năm.

Nhưng nếu mỗi năm người ta cứ lấy thời gian kể trên mà tính thì người ta sẽ gặp nhiều sự phức tạp nên chỉ lấy con số 365 ngày để định một năm mà thôi. Song người ta vẫn nhớ rằng từ lúc giao thừa (dương lịch) năm nầy đến phút giao thừa (dương lịch) năm sau, quả đất chưa quay đủ một vòng quanh mặt trời mà còn phải chạy hơn 5 tiếng đồng hồ nữa thì mới hết và đến phút giao thừa năm sau nữa thì nó phải chạy thêm ngót 12 tiếng đồng hồ nữa mới hết được vòng thứ hai và cứ thế sau bốn năm, trái đất chậm đi gần 24 tiếng đồng hồ nghĩa là non một ngày. Bởi thế cứ bốn năm, người ta đặt ra một năm nhuận, để cho ngày tháng phù hợp với sự di chuyển của trái đất. Năm nhuận sẽ có 366 ngày và ngày thêm đó sẽ được đặt vào tháng hai tức là tháng hai có 29 ngày. Để cho dễ nhớ, người ta lấy con số danh hiệu của năm chia cho bốn, nếu số chẵn thì năm ấy là năm nhuận. Thí dụ: năm 1960 chia cho bốn được 490 không còn số lẻ, vậy năm 1960 là năm nhuận.

Chúng ta nên nhớ rằng sau bốn năm như vậy, quả đất mới chỉ chậm có non một ngày (24,22x4=96,88% của một ngày). Nếu ta đợi đúng một ngày để đón giao thừa như sự tính toán ở trên thì quả đất đã quay hết vòng thứ tư trước một khoảng thời gian: 100 - 96,88 : 3,22 của một vòng tức là 46 phút 22 giây. Và cứ bốn năm nào cũng có một năm nhuận thì sau 400 năm lúc ta đón giao thừa thì không những quả đất đã quay hết vòng thứ 400 mà còn chạy thêm hơn 3 ngày nữa (3 ngày và 22%). Để điều chỉnh tình trạng của dương lịch cho đúng với sự chuyển động của trái đất thì sau 400 năm số năm nhuận phải bớt đi 3 để còn 97 năm nhuận. Những năm được bớt đi nầy là những năm mà tận cùng phải là hai số không nhưng số hàng trăm (năm trăm) trở lên không chia được với 4. Ví dụ những năm 1700, 1800, 1900... không nhuận khi có sự điều chỉnh vì những số 17, 18, 19 không thể chia hết cho 4 được. Còn các năm 1600, 2000, 2400 thì vẫn nhuận.

Dương lịch được điều chỉnh như thế gọi là tân lịch (lịch mới).

Dương lịch không điều chỉnh gọi là cựu lịch (lịch cũ).

Sau hết, người ta chia một năm dương lịch ra làm 12 tháng. Nếu mỗi tháng có 30 ngày thì 12 tháng mới chỉ có 360 ngày vậy phải có một số tháng 31 ngày. Riêng tháng hai có 28 ngày (năm nhuận tháng hai có 29 ngày). Theo vài tài liệu thì con số 28 này được đặt ra cho tháng hai không phải vì một lý do khoa học nào mà vì lý do tôn giáo và tín ngưỡng cho rằng tháng hai là tháng ma quỷ và con số 8 là con số xấu.

Để dễ nhớ những số ngày của những tháng trong một năm, người ta dùng nắm tay theo hình vẽ dưới đây: tháng nào được vào chỗ lồi thì có 31 ngày và tháng nào ở chỗ lõm thì có 30 ngày. Dĩ nhiên tháng hai vẫn chỉ có 28 hoặc 29 ngày.


ÂM LỊCH

Đúng ra, người ta phải gọi là âm dương lịch vì một mặt lịch nầy dựa vào mặt trăng để tính tháng nhưng mặt khác lại dựa vào mặt trời để định năm.

Âm lịch lấy tuần trăng để định tháng. Tuần trăng là khoảng thời gian từ lúc trăng tròn nầy đến lúc trăng tròn sau. Tuần trăng không phải là một chu kỳ cố định: khi dài có thể quá 29 ngày 19 giờ ; khi ngắn có thể kém 29 ngày 8 giờ nhưng thường thường lại không hơn kém số trung bình 29 ngày 12 giờ 34 phút là mấy.

Nếu chỉ lấy số 29 ngày làm một tháng thì so với tuần trăng còn thiếu hơn nửa ngày nên thỉnh thoảng người ta phải đặt ra những tháng 30 ngày (tháng đủ) để xen vào những tháng 29 ngày (tháng thiếu) cho phù hợp với tuần trăng. Qua số trung bình vừa kể trên, người ta nhận thấy số tháng đủ phải nhiều hơn số tháng thiếu trong một năm nhưng phải theo một thứ tự nhất định như trong dương lịch và có khi ba tháng đủ đi liền nhau lại có khi có luôn hai tháng thiếu.

Âm lịch lấy ngày không trăng (tức là ngày chúng ta không thấy được mặt trăng, vì trái đất, mặt trăng và mặt trời đứng cùng một hàng cho nên trăng không phản chiếu được ánh sáng mặt trời) làm ngày mồng một của mỗi tháng rồi căn cứ vào đó mà định tháng thiếu, tháng đủ. Thí dụ: hôm nay là 29-2. Nếu ngày mai là ngày "không trăng" thì ngày mai là mồng một tháng ba và như vậy tháng hai chỉ có 29 ngày và là tháng thiếu. Nhưng nếu ngày hôm nay là 29 tháng hai mà ngày mốt mới là ngày "không trăng" thì ngày mai sẽ là ngày 30 và như vậy tháng hai có 30 ngày và là tháng đủ. Hiện nay, chúng tôi chưa được biết một quy luật nào ấn định một cách dễ dàng tháng nào thiếu tháng nào đủ cho mỗi năm âm lịch. Những nhà làm loại lịch nầy phải dựa vào nhiều tài liệu để tính toán tháng đủ hay thiếu cho một năm.

Còn về việc ấn định Năm thì âm lịch cũng phải dựa vào khoảng thời gian mà quả đất quay hết một vòng chung quanh mặt trời. Song le, 12 tháng của một năm âm lịch chỉ được có 354 hoặc 355 ngày. Nếu đem số nầy so sánh với con số 365 ngày thì hụt mất 10 hoặc 11 ngày trong một năm và cứ 3 năm hụt đi hơn một tháng, 19 năm hụt đi đúng bảy tháng. Bởi vậy cứ ba năm hoặc hai năm lại có một năm nhuận, và 19 năm có 235 tháng trong đó có 111 tháng thiếu và 124 tháng đủ. 

Để định năm nào nhuận, tháng nào nhuận, chúng tôi thấy có nhà làm lịch tính như sau:

Thí dụ năm nay nhuận tháng 8. Người ta biết rằng tháng 8 âm lịch này trùng với tháng 9 dương lịch. Người ta bắt đầu tính bằng cách so sánh từ đầu hai tháng đó trở đi: mỗi tháng âm lịch kém mỗi tháng dương lịch một hai ngày ; đến một khoảng thời gian nào đó, số tháng dương lịch sẽ nhiều hơn số tháng âm lịch vừa đúng một tháng, chẳng hạn 27 tháng âm lịch có một số ngày vừa bằng 26 tháng dương lịch thế thì tháng thứ 27 đó của âm lịch sẽ là nhuận tức là 2 năm nữa sẽ lại có một năm nhuận trong âm lịch và tháng đó là tháng mười.


Vài cải chánh về dương lịch và âm lịch

Âm lịch được người Trung Hoa sử dụng từ lâu. Bởi thế ở nước ta nó mang một cái tên rất nôm na là lịch Tàu. Thứ lịch nầy rất phức tạp vì cùng với thời gian nó dựa vào những tài liệu thiên văn và toán số để làm mỗi ngày một nhiều thêm. Người Tàu với nền học thuật riêng của họ, không tìm ra được hết những tài liệu ấy một cách chính xác nên đến cuối đời nhà Minh thì công lịch sai với thời tiết nhiều quá và phải nhờ đến những người ngoại quốc đính chánh.

Năm 1629, vua Trang Liệt nhà Minh nhận thấy các nhà truyền giáo Tây phương tính nhật thực và nguyệt thực rất giỏi bèn nhờ hai linh mục Terrene và Rho sửa lại lịch. Khi linh mục Terrene mất, linh Shall tiếp tục công việc và có đưa vào âm lịch nhiều tài liệu khoa học. Nhân đó, người Tàu mới có bộ Khâm Định vạn niên thư, một bộ sách tính sẵn ngày tháng từ năm 1629 đến năm 2020 mà ngày nay người ta phần nhiều chỉ chép lại để làm niên lịch. Đến đời vua Khang Hy, phép làm lịch thu thập vào bộ Lịch Tượng Khảo Thành ra đời năm 1713 và đến năm 1738 thì được hai linh mục I. Coegler và A. Pereyrn hiệu đính để áp dụng một ít phương pháp thiên văn mới hơn. Trong đời vua Càn Long lại có một bộ Khâm Định Hiệp Lý Biện Phương Thư nhưng phần thiên văn thì ít mà phần thuật số quá nhiều.

Đó là ba bộ nguyên thư của các nhà làm lịch, nhất là bộ vạn niên thư đến nay vẫn còn nguồn gốc của các lịch ra hàng năm ở Trung Quốc.

Âm lịch có một đặc điểm là đếm ngày, tháng, năm và cả giờ nữa theo vòng giáp Tý (lấy 10 can và 12 chi ghép thành). Do đó nhiều người tưởng rằng khoảng thời gian 60 năm là một chu kỳ nhật nguyệt nhưng thật ra theo thiên văn nó không biểu diễn một hiện tượng nào cả. Với lối tính nầy, người ta chỉ cần làm lịch cho đủ 60 năm rồi lại bắt đầu tính theo thứ tự cũ.

Dương lịch được hoàng đế La mã Jules César khởi dụng năm 45 trước Kỷ nguyên Thiên Chúa. Thoạt đầu, lịch có 10 tháng mỗi tháng 30 ngày. Sau đó, với sự khám phá trái đất quay chung quanh mặt trời hết 365 ngày và 1/4 ngày, người ta chấp nhận kịch có 12 tháng và cứ ba năm liên tiếp có 365 ngày lại có một năm nhuận thêm một ngày vào tháng giêng. Nhưng với thời gian, sự cách biệt giữa lúc giao thừa và lúc trái đất quay đủ vòng càng ngày càng xa thêm mãi và tới năm 1582 thì đúng 10 ngày. Để xóa bỏ chỗ cách biệt đó, đức Giáo Hoàng Grégoire 13 lấy ngày 5-10-1582 là ngày 15-10-1582 và đề nghị sau này nên sửa đổi theo cách thức đó nhưng sự sửa đổi nầy cũng không giải quyết những sự phức tạp của việc xóa bỏ sai số kể trên.

Năm 1793, đệ nhất Cộng Hòa Pháp chấp nhận một thứ lịch Cộng Hòa 12 tháng 30 ngày chia ra làm 3 tuần mỗi tuần 10 ngày. Còn thừa 5 ngày dành riêng cho những ngày lễ Cộng Hòa.

Năm 1849, Auguste Comte đưa ra đề nghị một năm có 13 tháng mỗi tháng có 28 ngày với tổng số ngày là 364 còn ngày chót được coi là ngày nghỉ cuối năm.
 

Để tiến tới một thứ lịch duy nhất cho toàn cầu

Chúng ta đã biết dương lịch hiện nay là thứ lịch được thông dụng nhất trên thế giới và càng ngày càng được nhiều người thích dùng hơn. Mặc dầu có những cải cách kể trên, dương lịch ta thường vẫn có 365 ngày và hai phần nửa năm không cân nhau, lục cá nguyệt đầu có 181 ngày và lục cá nguyệt sau lại có 184 ngày.

Tam cá nguyệt dài từ 90 đến 92 ngày và mỗi tháng gồm có từ 28 đến 31 ngày. Số ngày làm việc trong mỗi tháng cũng thay đổi từ 24 đến 27 ngày (nếu kể là 6 ngày làm việc trong mỗi tuần lễ).

Những điểm bất thường nầy gây ra những khó khăn khôn cùng trong thống kê kinh tế.

Cho nên vấn để sửa đổi lịch lại được đặt ra hồi cuối thế kỷ thứ 19 khi một vị linh mục người Ý tên là Marco Mostrofini nhận thấy con số 365 chỉ có thể chia được với con số 5 và chia mỗi năm ra tuần lễ, tháng, tam cá nguyệt, lục cá nguyệt thường vấp phải nhiều điều bất tiện vì tánh cách không đồng đều của những khoảng thời gian cùng mang một danh hiệu. Linh mục Mostrofini nghĩ mãi, bỏ cả học hành và sau cùng tìm ra một giải pháp là không giữ con số 365 ngày thì được đúng 52 tuần. Ngày thừa sẽ dùng làm ngày Tết.

Ý kiến của linh mục Mostrofini được sự ủng hộ quan trọng đầu tiên 1910 tại Phòng Thương Mại Quốc Tế. Cơ quan này thuyết phục chánh phủ Thụy Sĩ để chánh phủ này nghiên cứu một thứ lịch dùng cho các hội nghị quốc tế. Nhưng đại chiến thứ nhứt bùng nổ năm 1914 làm cho người ta phải hoãn việc đó lại.

Năm 1923, Hội Quốc Liên đứng ra nghiên cứu chừng 185 đề nghị sửa đổi lịch. Có người đề nghị mỗi năm có 73 tuần lễ, mỗi tuần 5 ngày gọi theo thứ tự: Ano, Beno, Ceno, Deno và Eno. Người khác để nghị 20 tháng với tuần lễ có 6 và 7 ngày. Rốt cuộc, Hội Quốc Liên giữ lại 2 đề nghị: đề nghị thứ nhất định mỗi năm có 12 tháng và bốn tam cá nguyệt đều nhau, đề nghị thứ hai gồm 13 tháng, tháng phụ đó gọi là tháng "sol" đặt vào giữa tháng 6 và tháng 7.

Năm 1937, 14 nước trong Hội Quốc Liên mở cuộc đầu phiếu để chọn lịch Quốc tế nhưng không nước nào bỏ cho loại lịch 13 tháng và cũng không có kết quả dứt khoát cho loại lịch kia.

Vấn đề nghiên cứu cải tổ lịch cũng không tiến hành được bao nhiêu. Cho mãi đến năm 1949, chính phủ cộng hòa Panama yêu cầu Liên Hiệp Quốc ghi vào trình đại hội đồng vấn đề cải tổ lịch nhưng đề nghị của Panama cũng không mang lại tiếng vang nào vì lúc đó không có một cường quốc nào ủng hộ cả.

Năm 1953, Ấn Độ với sự đồng tình của một số nước trong đó có Pháp, Ai Cập và Uruguay, đề nghị Liên Hiệp Quốc nên chấp thuận một thứ lịch Quốc tế. Trong cuộc đầu phiếu ghi vấn đề này vào nghị trình, Anh và Mỹ bị thiểu số: 2 phiếu chống với 12 và sau đó Nga cũng đứng về phía những nước chấp thuận việc sửa đổi lịch.

Năm 1955, 18 nước trong Ủy hội kinh tế và xã hội Liên Hiệp Quốc đã đồng thanh chấp thuận một quyết định yêu cầu các nước trong tổ chức nghiên cứu và cho biết ý kiến về việc này để Ủy hội sửa soạn một quy ước quốc tế đưa ra Đại hội đồng và sau đó đệ trình quốc hội các nước chuẩn y.

Dự án được người ta nói đến nhiều hiện nay của hội niên lịch thế giới (World Calendar Association). Đó là một thứ lịch chung cho hoàn cầu gồm có những điều sau đây:

1 - Bốn tam cá nguyệt trong năm đồng đều nhau.

2 - Mỗi tam cá nguyệt gồm có 91 ngày tức là đúng 13 tuần lễ.

3 - Ngày đầu tiên của mỗi tam cá nguyệt đều nhằm ngày chúa nhựt.

4 - Tháng đầu tiên trong mỗi tam cá nguyệt (tức tháng giêng, tháng tư, tháng bảy và tháng mười) gồm 31 ngày, còn tất cả các tháng khác có đúng 30 ngày, như vậy mỗi năm có 365 ngày mà thôi.

5 - Ngày thứ 365 trong năm sẽ là một "ngày không số" (Jour sans Date hay Day) nằm giữa ngày 30 tháng Chạp năm trước và mồng một tháng Giêng năm sau. Ngày nầy được gọi là Ngày Quốc tế (World Day) của niên lịch và là một ngày lễ nghỉ việc.

6 - Ngoài ra, cũng như trong lịch Grégoire, cứ 4 năm lại có thêm một ngày nhuần (gọi là Leap year Day) không có số giống như Ngày Quốc tế và sẽ là một ngày nghỉ việc giữa ngày 30 tháng 6 và mồng một tháng 7.

Điều đáng chú ý là trong niên lịch Quốc tế ngày đầu năm bao giờ cũng đúng vào ngày chủ nhật, như vậy năm nào cũng chấm dứt vào cuối ngày thứ bảy, tiếp theo là ngày Quốc tế, Lễ Giáng Sinh sẽ luôn luôn nhằm ngày thứ hai và Phục Sinh luôn luôn đúng vào ngày 8 tháng 4 (một ngày chủ nhật). Và nếu lịch nầy được áp dụng, tất cả ngày sinh nhật và kỷ niệm chu niên của các bạn luôn luôn đúng vào những ngày nhất định trong tuần không bao giờ thay đổi từ năm này sang năm khác.

Tuy nhiên đề nghị cải tổ lịch nầy cũng vẫn còn có những điều kiện và bất tiện, ít nhất cũng cho một số người của thế hệ chúng ta. Với lịch mới nầy chúng ta thấy rằng trên phương diện chánh phủ loại lịch nầy sẽ làm cho việc hoạch định chương trình và thiết lập dự án, những ban thống kê chính thức được dễ dàng, làm cho các trường học, những tòa án có thể trù tính những khóa học, những phiên xử một cách đều đặn, giản dị hóa việc lập ngân sách gia đình vì mỗi tháng sẽ có một số ngày làm việc nhất định.

Trên đây là những nhận xét chính mà nhiều người trên thế giới đã thấy. Và bây giờ xin mời các bạn suy nghĩ và cho biết những nhận xét của các bạn.


THÁI BẰNG      

(Trích tuần báo Thiếu Nhi Xuân Nhâm Tý, 1972)

Thứ Ba, 28 tháng 1, 2025

Đầu Xuân

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Nghi ngút trầm hương mâm ngũ quả

Giao thừa sắp đến tối ba mươi

Bánh tét, bánh chưng, tràng pháo nổ 

Năm mới  xuân sang khắp mọi nơi


Mai nụ vàng tươi, đào đỏ thắm

Trời xanh chim hót khúc hoan ca

 Trong gió nhẹ bay hồn say đắm

 Lộc mới vận may đến mọi nhà


Đầu xuân ăn Tết lòng hoan hỉ

Mứt mãng cầu xiêm với mứt gừng

Mứt dừa,  mứt khoai cùng mứt bí 

Chén trà, chén rượu cạn ly mừng


Câu chúc tình thân vui ngày Tết

Mọi người năm mới được an khang 

Chuyện buồn năm cũ nên quên hết

Mong đợi tương lai sáng huy hoàng


                       Nhã Uyên

Chủ Nhật, 26 tháng 1, 2025

Xuân Quê Hương

  

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Lạy trời cho lúa trổ bông
Mẹ cha sung sướng nhìn đồng lúa reo

Nuôi thêm những vịt, gà, heo
Tạ ơn tiên tổ được điều bình yên

Chúc ông bà thọ vạn niên
Trồng nêu ăn Tết vui bên sân đình
 
Trong nhà dán giấy, dán hình
Những câu đối đỏ xinh xinh dịu dàng

Năm nay đấu vật ở làng
Chao ôi! Thích quá họ hàng đi xem

Sách vở để tạm một bên
Mùa Xuân dân tộc chúng em đón mừng

                                              THIÊN BẤT HỦ

(Trích tuần báo Thiếu Nhi Xuân Giáp Dần, 1974)

Bé Tuyệt Thực

 - "Trước cửa hoa mai vàng nở rộ, trời xanh thực xanh, gờn gợn một vài cụm mây trắng mịn..." A ha! Chị Phương định làm thi sĩ ta...

"Biết ngay mà!" Bé chỉ kịp nhủ thầm một câu rồi tuột vội ngay xuống giường, cáu sườn ghê lắm đấy nhá! Những "tác phẩm" dang dở, sáng tác lúc "nửa khuya" về tối... à không về sáng là chồng giấy cồm cộm dày dày Bé xếp ở đầu giường. Ai đụng tới là cả một điều tối kỵ đối với Bé... thế mà..., Bé vẹt màn bước ra sân "oai phuông" như một nữ tướng:

- Trả cho Bé, Bé không giỡn với Minh đâu nhé!

Mặc, Bé nói gì thì nói, cu Minh - vâng, cái tên em lì lợm của Bé - vẫn nhảy múa trước mặt Bé y như làm trò xiếc, tay phất phơ mảnh giấy chi chít chữ, thỉnh thoảng lại nổi hứng cúi xuống đọc rồi phá ra cười trông ghét ghét là, ừ, mà có tiếng khúc khích của ai hưởng ứng đấy nhỉ? Bé "pháo kích" tầm mắt ra chung quanh hàng xóm. Một thoáng tai Bé nóng ran lên. Trời ơi! Buổi trưa sao mà "thiên hạ" đủ mặt hết vậy kìa: chị Hạnh nè, anh Huy và cả chị Loan nữa. Chị Loan chị Hạnh rũ ra cười, còn anh Huy xoay lưng lại nhưng Bé thấy rõ ràng vai anh ấy rung rung. Thôi rồi, bí mật "quân sự" của Bé bị bật mí mất rồi, một bánh pháo nổ thật ròn ở xa như nhắc nhở Bé sự hiện diện của mùa xuân, thảo nào "bàn dân" mới quy tụ đông đảo như thế chứ. Tức quá đi mất. Bé hét lên làm cu Minh choáng người:

- Trả ngay đây, đừng làm Bé nổi nóng, Bé hét một tiếng nữa giật mình bi giờ!

Sau hai phút định thần, thằng bé xếp thẳng nếp tờ giấy rồi vênh mặt yêu sách:

- Nhưng... chị Phương phải đền em cái gì cơ!

"Đền"! Hừ! Định làm tiền Bé nữa à, Bé "quắc mắt":

- Còn khuya... Tết Bé mới đền.

Thằng bé nhảy cỡn lên reo:

- Tết hả? Thế thì Tết rồi đây... ngày nay 30 nhé, mai là... là...

Chết! Quen miệng bảo Tết, Bé quên bẵng tối hôm nay là Giao Thừa, nguy quá đi mất! Bé xấn bước lại ông trời con ấy:

- Im, đưa đây!

- À... mà em có một thắc mắc nầy chị Phương ạ!

Giọng thằng bé trịnh trọng gớm thế, Bé nói mau:

- Đưa đây, Bé không phải là kẻ đi gỡ rối tơ lòng.

Miệng hắn ta bô bô:

- Nầy nhá, gần Tết rồi, chị Phương viết bài Tết, rứa thì báo nào đăng đây?

- Ơ... ơ, Bé viết cho số Tân Niên mà lị... Thằng "hỏi xạo" quá, đưa cho Bé, không bé mách Me đấy.

Thằng bé nhe răng cười khì, Bé chạy một mạch ra nhà sau:

- Me ơi!... Cu Minh lấy đồ của con.

Me đang loay hoay bên soong mứt tầm ruột mới sên đỏ mọng trông phát thèm. Chà, Me có vẻ nhọc ghê, mồ hôi lấm tấm, chắc lại mới vào bếp chứ gì. Me cau mày:

-Đồ" gì?

Có bước chân cu Minh chạy lọt xọt phía sau và tiếng hắn ta vang lên:

- Tập bản thảo viết bài đăng báo đấy Me ạ.

Trời ơi! Thằng bé ác ghê! Dám khai huỵch toẹt ra thế nầy, thế nào Me cũng rầy Bé cho xem, và quả thế thật:

- Bé hư quá nhé, cứ viết báo mãi, tháng nầy sụt hạng Me mách Ba đấy!

- Nhưng...

Bé định nói "nhưng hôm nay là 30 Tết, là ngày nghỉ mà" Nhưng Bé không nói được vì cơn uất nghẹn đã chặn cổ Bé. "Mách Ba!", nước mắt Bé trào ra. Không nghỉ ngợi, Bé chạy vào giường úp mặt lên gối. Bé buồn Me, buồn cu Minh kinh khủng. Bé muốn "quên" cu Minh đi, nhưng lạ kìa... khuôn mặt thằng bé vẫn hiện ra với nụ cười trêu chọc dễ ghét như là bộ mặt méo mó của sạp báo lúc Bé ra hỏi mà không có Tuổi Hoa vậy. Còn Me nữa, không thông cảm hoàn cảnh của Bé chút nào hết hà, giận ghê đi. "Giận!". Như một đốm ánh sáng lóe lên trong vùng tối, Bé ngồi bật dậy "suy nghĩ". A! Cái gì chứ giận Bé nhất rồi, "thành tích" của Bé làm Me phải nể luôn, có lần Bé nhịn ăn... 2 ngày, uống nước lạnh không đấy, ngán chưa? Lúc đầu Me cũng giận lại Bé, nghĩa là không thèm nói gì tới Bé, mặc Bé nằm lì trong giường, nhưng đến ngày thứ ba thì "Bé ơi! Xuống ăn cơm với Me nào!..." Hic! Thế là Me đã chịu "xuống thang chiến tranh" vô điều kiện. Dĩ nhiên Bé phải tỏ "thiện chí" bằng cách xuất hiện nơi bàn và cười một phát thực tươi, như chả thèm để ý đến cái bao tử đói meo chút nào. Nhưng thực ra Bé để ý lắm chứ, cứ mỗi buổi sáng, trưa, chiều, đúng giờ ăn nó sôi đùng đùng như đòi Bé phải chịu "nhượng bộ" - Thế mà Bé "khuất phục" được nó đấy. Bé cũng có chí - mà không - có ý chí như ai chứ chơi à!

Thế thì Bé phải giận Me mí được. Giận đây còn được "yểm trợ" bởi hai chữ nhịn ăn nữa đó! Nầy nhé, phải nhịn ăn sáng nầy, ăn trưa nầy và cả ăn chiều nữa, bộ mặt phải lầm lầm lì lì cho Me sợ nầy. Thế là cái điều kiện ắt có và đủ: giận thì phải thế nầy, thế nầy chắc chắn là giận đã được Bé ôn nằm lòng rồi nhé, chỉ còn áp dụng nữa là xong. Nhưng mà "nhàn cư vi bất thiện", nếu mà nằm "suy tư" như thế nầy thì có lúc, Bé phải "động binh" mất thôi, Bé lò dò bước ra ngoài tìm quyển sách hình vĩ đại ôm vào giường với một chai nước lọc, một cái ly. Dĩ nhiên bộ mặt lạnh lùng của Bé lúc sửa soạn cho một thái độ phản đối gián tiếp khỏi cần nhắc đến, nó cũng đã túc trực "nơi đó" rồi. Me hình như không chú ý đến sự thay đổi của Bé chút nào vì lúc Bé nện mạnh cái ly vào đầu chai nước vô tội và xếp quyển sách cái ầm, đúng là Me có nhìn lên, nhưng quái nhỉ, Me vẫn thản nhiên cho những đòn bánh tét mới nấu xong vào thanh tre vắt vẻo ngang xà nhà, rồi cúi xuống sắp những trái mứt me vào chiếc quả tròn để đãi khách, chao ơi, chắc ngòn ngọt và phải chua chua lắm một khi nó đã vàng quánh thế kia. Nản quá, Bé đi tìm thằng Minh, đây rồi, hắn ta đang cho một cây pháo vào chiếc lon sữa bò úp kín trên mặt đất, nối liền với một sợi dây tẩm xăng rồi đốt từ từ sợi dây ấy để bắt lửa cho cây pháo và... bù... u... ùng! Chiếc lon tung cao lên trời rồi rơi xuống trên xác pháo đỏ lả tả, chắc cu cậu đã quên bẵng câu chuyện trêu ghẹo ban nãy vì qua mấy cái đầu lố nhố đứng trước sân hâm mộ và làn khói xanh nhạt, gương mặt thằng bé hả hê vô cùng.

Nhưng đã bảo ý chí Bé mạnh lắm mà, mím môi một cái cho vững "đức tin" Bé cương quyết quay trở vào giường, chúi đầu vào diễn biến của câu chuyện trong quyển sách hình... Nhưng Bé nghe nôn nao lạ lùng (Tết mà!), thẫn thờ Bé xếp quyển sách lại, nghĩ đến trò chơi của cu Minh ban nãy, hay đấy chứ! Bé chắc lưỡi tiếc rẻ. Nếu không giận hờn thì Bé đã nhập cuộc rồi ạ. Có tiếng chim ríu rít trên chòm cây mãng cầu lòa xòa bên cửa sổ. Bé phóng tầm mắt ra ngoài, trời xanh thực xanh, nắng rẽ phăng kẽ lá ươm từng mẩu tơ vàng mịn trên mặt đất, tiếng pháo vẫn ròn tan, khuấy động bầu không khí, Bé thở dài khe khẽ rồi thiếp dần...

*

- Nào, Tính chào Dì Hai đi nào, cả Thu nữa, sao chóng quên thế, cứ mở tròn mắt ra...

- Ối dào, cháu Thu chóng lớn ghê nhỉ! À! Mời ba Dì cháu ngồi, không khéo lại quên khuấy đi mất...

Bé tỉnh dậy giữa những tiếng rộn rịp nơi phòng khách. Hẳn là Dì Ba chứ không ai, đến thăm Me vào chiều 30 vẫn là thông lệ của Dì hằng năm. Có tiếng Me gọi vọng ra bếp:

- Minh à, rót nước cho Dì Ba đi con.

Tiếng thằng bé vang lên từ sau bếp, ngập ngọng (chắc lại ăn vụng mứt chứ gì):

- Dạ... à, mà cái ly Me để đâu, rót nước gì Me nhỉ?

Không xong rồi, thế nào cu ta cũng bị rầy một trận vì không biết gì cả, lại lo ăn không! Tội nghiệp, con trai mà! Bé bước xuống giường, suỵt khẽ:

- Thôi đi "cụ", làm ơn ra chỗ khác dùm, Bé làm cho.

Hắn ta ngơ ngác mở to mắt:

- Chứ chị Phương không giận nữa à?

Thật tỉnh, Bé đáp (thì ra "hắn" có ý tứ ghê chứ lị!):

- Sao không, làm xong Bé sẽ giận tiếp. Bi giờ chỉ là "đình chiến" thôi nhé!

Cu Minh cười tủm tỉm có vẻ trêu chọc:

- Ghê thế cơ à.

Bé lặng im rót nước ra tách rồi nhè nhẹ mang lên. Tiếng Dì Sáu rõ to:

- Ối chào! Cháu Phương đấy hở, lâu ngày trông lớn và xinh ghê!

Ghê không! Bé lớn rồi chứ bộ, cứ bắt Bé nhỏ hoài sao! Bé quay đi, có tiếng Me:

- Năm nay, cô ấy 14 rồi đấy!

Thu reo lên:

- À! Thế thì bằng tuổi con, Phương ơi, mình bồ nhé!

- Ừ..., nhưng nếu có kẹo, bé được quyền ưu tiên ăn trước cơ!

Thấy cuộc "tiếp xúc thân mật" có thể làm cản trở ý định của Bé, Bé vội vã cáo từ:

- Thôi, xin phép Dì, xin phép Thu, Bé đi... ăn cơm nhé!

Dì Ba ngạc nhiên:

- Mới 6 giờ chiều mà Bé ăn cơm rồi à?

Bé không "biết trả lời sao" thì tiếng Me khúc khích sau lưng:

- Trưa tới giờ cô ấy cho bao tử "đình công" đấy.

Cả 2 người cùng cười. Bé tức ghê là! Thế rồi... đằng trước... bước! Bé trở về giường ngắm kỹ dung nhan tiều tụy của chai nước lọc đang vơi dần mà ức thầm. Lỗi tại Me cả nhé! Bé có muốn thế đâu! Giữa lúc "hòa bình" đang được "vãn hồi" thì Me lại cố tình "khiêu chiến". Mùi bò kho hâm nóng và mùi lạp xưởng ngào ngạt thoảng vào căn phòng, bụng Bé sôi đùng đùng át cả tiếng pháo nữa đấy, khổ thân Bé, phải "no bụng trong danh dự" mới chịu cơ. Bé lần tay xuống giường tìm quyển sách hình coi đỡ, tình cờ Bé chạm tay vào một bì thơ cưng cứng. Ngạc nhiên, Bé lôi lên xem. Thì ra là quyển "Bông hồng cài áo" mà chị Hạnh đã cho Bé hôm nào. Hôm đọc xong, Bé thương Me ghê là "Nếu anh còn Mẹ, anh sẽ được một hoa mầu hồng trên áo và sẽ tự hào là con Mẹ. Còn nếu anh mất Mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng..." (*) Đó là ý nghĩa của đóa hoa hồng trên áo mà cũng là câu Bé thuộc lòng. Thế thì Bé thử xem tình thương của Me có còn "cảm hóa" được Bé không nào: "Ý niệm về Mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương..." (*) Chỉ khi nào Mẹ đến, kéo chăn đắp lại ngực cho ta, đặt bàn tay lên trán nóng ta và than thở: "khổ chưa, con tôi", ta mới cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình Mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, dịu như xôi nếp mật và đậm đà lịm cả cổ họng như đường mía lau..." (*) Ôi chao! Bé đọc sao mà nghe thấm thía thế nầy, chiều đến giờ chắc Me phải nhọc lắm để sửa soạn ăn Tết, mứt nầy, trái cây nầy và buổi cơm chiều nữa. Thế mà Bé cứ mãi giận lên giận xuống, chắc Me phiền lắm mà không nói, tội nghiệp Me. Mà cũng tại Me cả, nếu Me không rầy Bé thì đâu đến nỗi... Ừ, mà Me "bảo" thế có gì là nặng đâu, đúng đấy chứ, chắc Me chỉ dọa cho Bé chăm học thôi, chả thế mà cứ mỗi lần đọc bài Bé được đăng trên báo, Me lại tròn mắt khen "Con Me giỏi thế nầy?" Sao Bé lại giận Me được nhỉ? Bé thật có tội!

- Minh ơi, xuống ăn cơm con, ăn cho no nhé!

Chắc khách về rồi và Me sửa soạn ăn cơm chiều. Me kêu cu Minh đấy, sao lại không kêu Bé, Me "bỏ rơi" Bé thật à, hồi chiều chính mắt Bé thấy Me cười thật tươi mà... Thôi, Bé chả cần, Bé không cần Me một khi Me không còn thương Bé. Mắt Bé mờ đi sau màn lệ, bàn tay Bé vơ vội quyển sách: "Chiều nay khi đi học về, hoặc đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng Mẹ với một nụ cười thầm lặng và thực bền. Em sẽ ngồi xuống bên Mẹ. Sẽ bắt Mẹ dừng kim chỉ mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn Mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy Mẹ, để biết rằng Mẹ đang sống và ngồi bên em. Cầm tay Mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm Mẹ chú ý. Em hỏi: "Mẹ ơi, Mẹ có biết không?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi em, vừa hỏi vừa cười: "Biết gì?" - Vẫn nhìn vào mặt Mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ nói: "Mẹ có biết là con thương Mẹ không?" Câu hỏi không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi, người cũng có thể hỏi Mẹ một câu như thế, bởi vì người là con của Mẹ..." (*) Một sự thúc đẩy lạ lùng bắt Bé bước xuống giường chạy lại Me xin lỗi, nhưng "tự ái" chỉ cho Bé bước chân ra đến ngưỡng cửa rồi dừng lại. Không hiểu là lần thứ mấy, Bé trở lại giường và thở dài.
 
- Minh ơi! Con ủi đồ mới chưa, để sẵn cả đấy, Giao thừa Me với con cùng đi lễ nhé!
 
- Dạ... con đi chơi một chút nha Me!
 
- Mà nhớ về ngủ sớm nghe, còn đón Giao thừa nữa Minh ạ!
 
Trời ơi! Chóng quá, gần đến Giao thừa rồi à? Sao Me không gọi Bé, bảo Bé ủi đồ mới và đón Giao thừa. Bì đỏ tiền lì xì Bé bỏ cho ai? Chắc cu Minh sẽ lấy hết, Bé tủi thân quá! Gió hây hây lùa từ ngoài vào vang vọng những tiếng pháo giật nẩy mình...
 
*

Khi tiếng thở của Me và cu Minh thật đều, Bé se sẽ tìm dép bước xuống giường. Bụng Bé đói cồn cào. "Phải kiếm cái gì ăn mới được!" Bé nhủ thế và lần bước ra tủ lưới sau bếp. vị trí "đóng quân" của thức ăn đấy! Trời thực tối, đêm 30 mà lị! Tìm mãi một lúc Bé mới tìm được nút bấm đèn nhà tắm. Một tiếng tách khẽ vang lên một lượt với luồng ánh sáng dìu dịu hắt ra ngoài. Me sẽ không biết đâu vì đèn nhà bếp không được Bé cho phép cháy. Bi giờ thì thám thính cái tủ nào? Ơ... hay! Sao lạ thế nầy, không có một thức gì cả, hoặc là chúng rủ nhau trơi trò "trốn kiếm" cả rồi, hay là Me không có cất đồ ăn ở đây. Thế thì Me cất đồ ăn đâu nhỉ? Rõ ràng Bé thấy nhiều lắm mà: Mứt hạt sen tròn trịa thơm phức, mứt bí ngọt lịm, mứt mãng cầu đục như sữa và gói giấy kiếng trông phát thèm! Và Bé nhơ nhớ cái mùi bò kho "nồng nàn" hồi chiều ghê là, nhất là cái quả hạt dưa cắn nghe dòn tanh tách. Sự "tiết tâm linh" của Bé lại xuất hiện rồi mà khổ quá đi thôi, nhà bếp chỉ còn mấy đòn bánh tét treo lủng lẳng, to thế ai mà dám ăn! Me ác ghê thế, chắc là ở nhà trên, đi tìm là có chứ gì... Mạnh dạn tắt đèn, Bé dấn bước ra phía trước. Ở đây tương đối sáng hơn tí xíu nhờ ánh nến trên bàn thờ. "Bàn thờ". Ái chà! Bé dáo dác nhìn quanh. Đây rồi, mấy chùm nho đỏ mọng với mấy trái cam, quýt chễm chệ bên bức chân dung của Ba. Sao... Tết mà Me cho Ba ăn trái cây không thế nầy? Thế mà hơn... vì Bé không được ăn gì hết... Tội nghiệp Ba quá! Chắc Ba thèm ăn cơm lắm (như Bé đang thèm vậy), Bé cũng ăn trái cây như Ba đây, vì Me không cho Bé ăn... Ba ơi! Mắt Bé lại hoa lên, Bé với tay rứt một trái nho, chết! Tiếng gì lịch kịch ở dưới thế, dường như cái bàn thờ sắp sửa chuyển động vậy. Bé run lên, không lẽ... có tiếng rít thật lớn dưới bàn thờ, tiếng công cốc gõ vào tủ, mắt Bé nhòe đi, tay Bé chới với bám vào bàn, tim đập thật mạnh, hình Ba to dần trước mắt Bé. Bé chết sững. Bé muốn bước đi mà sao chân Bé cứng đanh thế nầy? Bé ú ớ hét lên một tiếng rồi ngã xuống trong lúc mặt đất dường như đảo lộn đi mấy vòng:

- Ma! Me ơi...

Tiếng chân Me vội vã chạy ra lẫn với tiếng cu Minh ngơ ngác:

- Gì? Gì? Gì thế Me?

Đèn được bật sáng lên. Đang tái, mặt Me hồng dần rồi Me cười ngất:

- Ơ kìa! Bé hay chưa. Ma gì mà ma! Chắc cô Bé giận đã rồi đói và sợ đói suốt năm nên đi kiếm đồ ăn rồi gặp... ma chứ gì?

Sự hãi hùng còn vây quanh, Bé loạng choạng đứng dậy. Me đỡ Bé, vỗ về:

- Chuột đấy! Tội nghiệp con tôi... Thôi xuống đây, Mẹ con mình ăn cơm. Hồi chiều Me cũng chưa ăn. Vắng Bé ăn thế nào được. Ba Mẹ con mình sẽ đón Giao thừa, áo đầm mới của Bé, Me ủi cả rồi đấy, thôi lau nước mắt đi nào, không sợ "nhè" suốt năm sao!

Trời ơi! Me tốt quá... Bé không ngờ... Tiếng cu Minh vang lên khoái trá:

- Ma! Me ơi...

Bé lườm cu Minh một cái, nhưng không còn giận thằng bé ấy nữa, vì Bé đã có Me rồi cơ và vì "Bé đang được cài trên áo một đóa hoa mầu hồng, một mầu hồng diễm tuyệt và vĩnh cửu trong ước mơ của Bé...


XUÂN 69          
Linh Hương        
(Nhóm Thương Linh)  
 
(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa Xuân Kỷ Dậu, 1969)

_____________
(*) Trích trong quyển Bông hồng cài áo của Nhất Hạnh.

Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2025

Mênh Mang Trời Xuân

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Mùa xuân bầy chim chiền chiện
Rủ nhau ríu rít hót vang
Chiều chiều bên thềm nhỏ hát
Khung trời mây trắng mênh mang

Mùa xuân nắng êm ái thế
Mùa sang cho má nhỏ hồng
Ngoài sân mẹ phơi mứt tết
Vạt dưa chín đỏ ngoài đồng

Mùa xuân gió đùa khóm lá
Dưới chân xào xạc cỏ may
Phơn phớt trên cành soan tím
Giậu  rào cúc thoảng hương bay

Mùa xuân pháo xa xa nổ
Mẹ may áo mới nhỏ mừng
Mái tranh chiều trăng bẽn lẽn
Nhà ai lam khói nấu cơm

Mùa xuân sáo diều vi vút
Trên đê vẳng tiếng mục đồng
Nhỏ nhìn chân trời xa vắng
Xuân về gió nhẹ bâng khuâng

Mùa xuân khóm dừa xanh biếc
Nghiêng mình xõa tóc đợi ai
Bóng nhỏ loang chiều buông xuống
Hôn hoàng nắng nhạt dần phai...

                                               Thơ Thơ
                                  (Bút nhóm Hoa Nắng)

Thứ Năm, 23 tháng 1, 2025

Dọn Nhà Đón Tết

 

Vừa lúi húi lau chùi cây quạt đứng, tôi vừa rên ư ử... Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm, mái tranh nghèo không người sửa sang, khu vườn thiếu hoa vàng mừng xuân... Đó là tôi đã cào nát óc rồi mới tìm ra được bài nhạc Xuân Này Con Không Về trên, có "me mé" đề cập tới việc dọn dẹp nhà cửa để đón Tết tới, để phù hợp với nội dung bài viết này.

Khi chúng tôi còn nhỏ, khi ba tụi tôi vẫn còn ở nhà, thì mỗi dịp tết tới, ông đều sai xấp nhỏ tụi tôi làm đủ thứ việc "lặt vặt nho nhỏ" quanh nhà để mừng xuân đón tết. 

Sau 1975, ba tôi phải vắng nhà hơn cả một thập kỷ, thì má tôi (bây giờ tôi mới nhớ lại) mỗi khi Tết tới, bà tự tay làm hết mọi thứ và chẳng sai bảo gì chúng tôi hết. Đó là chưa kể việc thường ngày, má tôi phải chạy đôn chạy đáo làm đủ thứ việc ngoài đời để kiếm tiền nuôi ba tôi và tụi tôi nữa. Đã vậy mà vẫn chưa yên, nhiều khi má tôi cứ lúi húi dọn dẹp trong khi tôi vẫn cứ thản nhiên nằm ngủ (Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm? Dù tôi có phải là tiểu thơ, công chúa gì đâu!) mà lâu lâu tôi còn thức dậy la má tôi nữa... Cái gì mà ồn ào quá vậy? Mẹ có muốn cho con ngủ hay không? (Vì má tôi tạo ra nhiều tiếng động không được êm tai cho lắm khi dọn dẹp). Má tôi bật cười và nói... Thôi thôi được rồi, mẹ không làm ở đây nữa đâu, mẹ đi ra chỗ khác cho con ngủ vậy!

Lúc đó tôi đã lớn nhưng chưa có khôn, nên đôi khi tôi hay tự hỏi tại sao má tôi lại cứ lau chùi đồ đạc, dọn dẹp nhà cửa làm chi, trong khi ba tôi xa nhà rồi, vì trước đó, tôi để ý thấy má tôi chỉ lúi húi dọn dẹp khi ba tôi quanh quẩn ở bên, vì bà sợ ba tôi chê nhà cửa dơ dáy. 

Đến nay tôi mới hiểu được, thì má tôi đã khuất núi rồi, rằng bà làm vì bà yêu căn nhà, mái ấm gia đình của chúng tôi - mồ hôi, nước mắt, công sức từ đời ông bà để lại cho con cháu - nơi in dấu bao kỷ niệm vui cũng như buồn. Ai có đi Hướng Đạo, biết được bài hát cộng đồng Cái Nhà (là nhà của ta. Công khó ông cha lập ra. Cháu con phải gìn giữ lấy muôn năm với nước non nhà...) thì sẽ thấu hiểu được lòng của má tôi  lúc bấy giờ.

Giờ đây sau bao cuộc thương hải tang điền, tôi mới tìm thấy niềm vui trong việc dọn dẹp nhà đón tết. Tôi chợt dừng tay khi đang lau chùi cây quạt đứng, vì tôi thấy sao mình đang lau chùi nó một cách trìu mến quá, như thể tôi đang lau mặt cho má tôi những ngày cuối đời của bà vậy. Tôi nhớ má tôi quá. Lại thêm một cái tết nữa không còn nhiều người thân bên cạnh để cùng đón xuân.

Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan.
Trong lúc gần xa pháo nổ ran.
Rũ áo phong sương trên gác trọ.
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang.

Ta thấy xuân nồng thắm khắp nơi,
Trên đường rộn rã tiếng đua cười,
Động lòng nhớ bạn xuân năm ấy.
Cùng ngắm xuân về trên khóm mai.

Cát bụi tung trời - Đường vất vả
Còn dài - Nhưng hãy tạm dừng chân,
Tưởng người trong chốn xa xăm ấy
Chẳng biết vui buồn đón gió xuân?
(Giây Phút Chạnh Lòng, Thế Lữ)                

                        Trần Thị Phương Lan 
                         (Bút nhóm Hoa Nắng)
 
oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>