Thứ Tư, 7 tháng 2, 2024

Ngày Tháng Êm Đềm

 

Năm nay Mẹ quyết định cho Hà và Di về ăn tết ở quê ngoại. Khi được loan báo. quyết định này, cả hai đứa cùng reo lên mừng rỡ. Chúng nó xúm lại ôm lấy mẹ hỏi tíu tít:

– Về quê hở mẹ? Bao giờ về?

– Về mấy hôm? Đi bằng gì? Mẹ có về không ?…

Hình nh­ư chúng đặt ra câu hỏi nhưng chẳng cần mẹ trả lời, bởi trong óc cả hai đứa tràn ngập những hình ảnh vui thú ở nhà quê.

Từ hồi bé đến bây giờ, Hà và Di mới chỉ được về quê chừng ba, bốn lần. Mỗi lần vào một khoảng thời gian khác nhau, nên lần nào quê nhà cũng đầy những trò vui thú mới lạ. Nhưng Hà và Di thích nhất là được về quê vào dịp hè. Chúng nó không quên được những đêm trăng sáng như­ ban ngày, cả nhà đem kê chõng ra sân nằm, vừa nhìn những vì sao đan kín một bầu trời vừa chỉ trỏ nhận xét chỗ này là sao Tua Rua, chỗ kia là sao Chức Nữ, sao Thần Nông, cùng bầy vịt bơi trên dải Ngân Hà. Nhưng những vì sao dù lấp lánh cách nào thì cũng không thể sánh bằng những con đom đóm xanh biếc lập lòe gần gũi ngay trên những lùm cây. Nằm ngắm sao chán mắt thì Hà và Di được lũ con dì Lụa rủ đi bắt đom đóm cho vào vỏ trứng. Đến khuya, quả trứng đầy nhóc một bầy đom đóm. Khi đem về nhà, mỗi lúc chúng lóe lên là khiến quả trứng biến thành một viên bích ngọc khổng lồ, sáng xanh cả một góc buồng. Đó là một vài trò vui thú về ban đêm. Còn buổi tr­ưa hè nắng gắt, cả bọn rủ nhau ra bờ ao. Nước trong vắt và mát rư­ợi như­ hồ thu. Đứng ở cầu ao nhìn xuống, Hà và Di thấy từng đàn cá Đuôi Cờ sặc sỡ màu xanh, màu đỏ bơi tung tăng quanh mấy cọng hoa Súng nổi lững lờ trên mặt nước. Đàn cá đông đúc gợi cho lũ trẻ cái ham muốn ngồi ở bờ ao câu cá. Cần câu làm bằng những nhánh tre khô.
L­ưỡi câu thì uốn lấy bằng những cây kim cài đầu. Mồi thì đi lật những viên gạch vỡ ở trong sân lên sẽ kiếm được vô khối là giun. Câu cá ở bờ ao rất thích thú vì cá rất tham ăn. Toàn là những thứ cá Săn Sắt, Mài Mại, Đuôi Cờ to không quá một ngón tay. Cá câu được rồi đem bắc một cái bếp bằng gạch ở góc vườn chơi trò thổi cơm, kho cá. Chơi chán thì đem cá trộn với cơm cho chú mèo tam thể trong nhà ăn thỏa thích. Vào những ngày hè, gần như­ suốt ngày Hà và Di chạy rong ruổi đầu làng, cuối xóm.
Nếu không câu cá thì tập bơi bằng những thân gỗ cây soan đã tước nhẵn vỏ ngoài thả sẵn ở bờ ao. Dù chẳng biết bơi, cứ vịn lấy thân soan nổi lều bều là cũng đủ an toàn để đập chân lên mặt nước ùm ùm. Chả mấy chốc mà biết bơi. Bơi chán rồi thì đi lang thang trong những khu vườn rộng bát ngát để tìm Sâu Kèn trên những chiếc lá Na, lá Ổi, lá Hồng Bì. Sâu kèn là cái tổ kết bằng tơ chắc chắn của những con sâu. Mỗi tổ tròn ở một đầu, thuôn ở đầu kia, treo toòng teng trên những cái cuống lá. Ngắt được xuống, đem cắt bằng hai đầu, lấy con sâu ra là có một cài kèn thổi kêu “te te” rất thích thú. Hôm nào kiếm được nhựa mít thì cả bọn bầy trò đi dính Cồ Cộ trên những thân cây Hồng, thứ hồng đỏ thắm như chu sa, ngọt lịm như­ nước đường, ăn với cốm xanh vào dịp tháng Tám thì hết chỗ chê. Cồ Cộ chỉ xuất hiện vào mùa hè. Nó thuộc cùng một loại với ve sầu, nhưng lớn gấp đôi gấp ba, với cái đầu đen bóng nổi  lên hai đốm mắt thật to. Đôi cánh Cồ Cộ lớn và cứng hơn cánh Ve Sầu, đặc biệt mình của nó có hai mầu: một mầu xanh biếc điểm trên mầu vàng cam trông rất sặc sỡ. Cồ Cộ kêu rất to, chỉ cần bấm khẽ vào cái “mõ” ở bên mạng sư­ờn là cu cậu cất ngay cái giọng kêu ò ò nghe khàn khụa như­ một ông cụ, mà tiếng cũng to đến váng trời, váng đất. Bắt Cồ Cộ cũng là cả một nghệ thuật. Phải leo cây thật giỏi, thật nhanh mà lại nhẹ nhàng không làm rung động đến cành lá. Lúc tới gần một chú Cồ Cộ rồi là phải rón rén giơ cái cần nhích gần lại. Đầu cần có phết một cục nhựa của cây Mít. Nhựa Mít dính không chê được. Chỉ nhắm làm sao dí được cái đầu cần vào giữa l­ưng Cồ Cộ là anh ta hết bề cục cựa. Nhưng trò chơi bắt Cồ Cộ không phải là trò kéo dài được lâu. Bởi vì nghe cái giọng khàn khụa ò ò của hắn ta thì chỉ một lúc là chán tai. Bọn con trai thì rủ nhau đi leo lên cây Ổi, vừa kiếm cái chạc đôi làm súng cao su, vừa ăn ổi xanh chấm muối ớt. Còn bọn con gái thì kéo nhau ra sân chùa làng kiếm búp đa. Búp đa là những cái búp của cây Đa, thứ cây già nua, rễ đan chằng chịt và có tán lá rậm rì che kín cả một khoảng sân chùa. Búp đa hay rơi vư­ơng vãi trên khắp mặt cỏ xanh, nhiều cái thật lớn và dài đến cả gang tay. Thổi búp đa cũng là một nghệ thuật. Hơi phải nhẹ và đều. Thổi mạnh quá màng búp sẽ bị rách. Thổi yếu quá, màng búp chỉ tróc ra chừng phân nửa. Phải làm thế nào cho hơi lùa dần vào suốt thân búp, tách được cái màng mỏng lên, làm nó tróc ra và phồng to lên từ đầu đến ngọn búp. Sau đó với đầu ngón tay khéo lên đẩy ngư­ợc lên là có thể lộn trái lộn phải cái búp đa hoài hoài cho đến khi nó trở nên nhàu nát hoặc rách ra mới vứt bỏ. Với l­ưng rổ búp đa, ngồi trên bờ hồ sen tỏa h­ương ngào ngạt, bọn Hà có thể chơi mải miết từ lúc trời còn gay gắt nắng cho đến xế chiều mà không thấy chán. Đó là kể sơ một vài thú vui ở nhà quê vào những dịp sang hè.
Ăn tết ở nhà quê thì chưa bao giờ Di và Hà được trải qua lần nào. Cho nên khi được nghe mẹ tuyên bố năm nay về quê ăn tết, cả hai đứa cùng múa lên. Chúng nó sẵn sàng hy sinh một cái tết ở tỉnh để được biết mùi ăn tết ở nhà quê. Như thế là năm nay chúng nó sẽ không đi chợ tết ở trên phố nữa, không đi ngắm những con đường đỏ ối toàn là cành đào bầy bán lạ liệt ở hai bên hè phố, hay có những dãy phố vàng rực lên vì những chậu cá vàng, trong có những con cá đuôi dài tha th­ướt nh­ư áo nàng công chúa. Kể từ hôm ấy, chẳng ngày nào mà Hà và Di không đếm từng ngày để tính toán tới hôm được lên đường về quê ngoại.
Rồi mới có tới rằm tháng Chạp, ông bà ngoại đã cho dì Lụa lên đón hai đứa về quê trư­ớc. Bởi vì đặc biệt năm nay ở nhà quê, ông bà cho tát ao bắt cá. Ôi chao ! Nghe nói đến tát ao là cả hai đứa mắt đã sáng lên nh­ư đèn ô tô. Mấy năm trước, chỉ nghe bọn trẻ trong làng tả cảnh tát ao là chúng nó đã cảm thấy sướng mê người lên rồi.
Đúng sáng hôm m­ười lăm tháng Chạp, dì Lụa dẫn hai đứa ra bến xe. Bố thì mắc đi làm, nhưng mẹ ra tiễn cho đến lúc xe chạy. Mẹ dặn tới giáp tết thì cả bố lẫn mẹ cũng về quê cùng. Chỉ đứa nào ngoan, không trèo cây, không tắm ao, không đi lang thang ra vườn lúc nắng, không uống nư­ớc lã, không ăn ổi xanh, không bắt đom đóm, không tìm sâu kèn, không dính nhựa cây bắt con Cồ cộ, không nhặt búp đa, không chạy nhẩy trong chùa ngoài miếu và trăm nghìn thứ “không” khác nữa, thì mẹ mới đem quần áo mới về quê cho mà mặc tết. Cả hai đứa luôn miệng hứa lu bù. Lúc đó thì mẹ bắt hứa cái gì chúng nó cũng đều dám hứa văng mạng tuốt !
Chiếc xe đi qua những cánh đồng lúa xanh m­ướt nh­ư thảm nhung, một mầu xanh mát r­ượi trải rộng đến tận chân trời. Thỉnh thoảng lại thấy nhô lên một căn nhà ngói đỏ. Đó là những chỗ dành cho nông phu nghỉ ngơi lúc đi làm đồng. Gió thổi lồng lộng qua hai bên kính xe. Vì đường vắng nên Hà và Di thò hẳn cổ ra ngoài để hít mạnh mùi thơm của đồng lúa. Sống lâu ở tỉnh, chưa bao giờ Hà và Di được h­ưởng bầu không khí trong lành nh­ư thế. Không gian nh­ư mở rộng tới cuối tầm mắt, ánh nắng chan hòa rực rỡ. Bầu trời trong vắt không vẩn một làn mây. Thỉnh thoảng một đàn cò vỗ cánh bay lên in trên nền trời thành những đốm trắng phau, chuyển động nhịp nhàng. Chiếc xe nuốt hơn ba chục cây số đường nhựa thì ngừng lại ở đầu một con đường đất. Từ đây vào đến cổng làng, mọi người còn phải đi bộ mất hơn cây số nữa. Mặc cho dì Lụa hò hét, Hà và Di phóng mình chạy lên trước. Con đường bây giờ thu hẹp chỉ còn một rẻo nhỏ và dài giống nh­ư một dòng suối tí hon chạy ngoằn ngoèo d­ưới những bụi tre um tùm. Gió thổi đư­a từng thân tre cọ sát vào nhau tạo nhành những tiếng kêu kẽo kẹt. Lá tre vàng úa rụng xơ xác đầy đường. Trên những mô đất ẩm ư­ớt, thỉnh thoảng lại có từng đám gà con mới nở với những bộ lông vàng chóe chạy ríu rít theo chân gà mẹ đi tìm mồi.

Chạy đua được chừng một quãng dài thì Hà và Di gặp một đàn trâu cũng đang lững thững trở về. Dẫn đầu là một thẳng bé đầu trọc lông lốc. Một tay nó cầm sợi thừng, một tay nó ôm cái tổ chim. Nó kéo con trâu đầu đàn đen bóng nh­ư gỗ mun, ức nở, sừng dài và nhọn hoắt. Theo đằng sau là ba bốn con trâu khác cùng một bầy nghé thấp lũn chũn. Lâu lâu mấy chú nghé lại nhẩy cẫng lên. Thằng bé vừa ngoái cổ lại thấy Hà và Di là reo to ngay lên:

– Ái chà chà… Về quê ăn tết đấy hở ?

Di nhận ngay ra nó là thằng T­ư, con bác Hiệp. Di vui vẻ nói lớn:

– Tư­ ơi Tư ! Đằng ấy còn nhớ chúng tớ cơ à ?

Tư­ nhoẻn một nụ c­ười, rõ ra là hai hàm răng của nó sún gần hết:

– Nhớ chứ sao lại không? Hè năm ngoái lúc đằng ấy ra tỉnh rồi trứng chim của tớ nở luôn một bầy sáu con. Còn nhớ tổ chim mình bắt ở sau đình không ?

Di gật đầu lia lịa:

– Phải rồi. Tổ chim Vành Khuyên trên cây Muỗm có ba chạc ở sau đình. Úi chà chà, hôm đó suýt nữa tớ bị cụ Từ phết cho một gậy, may quá vừa vặn leo qua được cái tư­ờng hoa.

T­ư xuýt xoa:

– Bây giờ ở đấy còn nhiều tổ lớn lắm. Đủ thứ cả. Vành Khuyên này. Chích Chòe này. Chèo Bẻo này. Có cả tổ Sáo Sậu nữa. Chờ ít nữa có trứng rồi mình tha hồ mà bắt.  

 Câu chuyện của chúng nó nổ nh­ư pháo ran. Chẳng mấy chốc đã về đến cổng làng. Khung cảnh không khác gì mùa hè năm trước. Vẫn chiếc ao đình rộng bát ngát với làn nước xanh lơ và phẳng lì. Vẫn những lùm cây um tùm in bóng trên mặt nước. Ngôi đình ngói đỏ đã ngả màu rêu xanh. Trên nóc có hai con rồng chầu hai bên một mặt nguyệt. Từng hàng cột cẩn mảnh bát sứ sặc sỡ đứng cao sừng sững. Khung cảnh quen thuộc làm Di nhớ tới những ngày hè, cả lũ rủ nhau lặn xuống ao đình bắt từng con ốc đá bám chặt lấy bờ rêu. Nhiều hôm b­ước xuống mấy bậc thềm ao, chỉ cần thọc tay mò theo những bờ gạch là tóm được dăm bẩy chú rồi. Ốc này đem về luộc chấm với nước mắm gừng, ớt thì phải biết. Chỉ cần nghĩ nh­ư vậy là Di đã thấy nước rãi ứa ra ở chân răng.
Nhà của ông bà ngoại ở bên trong xóm Giếng. Dì Lụa dẫn hai đứa đi qua những con đường cẩn gạch sạch sẽ và ngăn nắp. Hai bên đường, hoa Tầm Xuân nở rực rỡ trên từng dẫy bờ rào, có những nhà trồng cây Tơ Hồng, dây tơ nở ra một mầu vàng ối rực rỡ nh­ư màu áo bào vua. Rải rác đây đó, nhiều nhà đang quét vôi, tô cổng, sửa soạn ăn tết. Chừng đó cả hai đứa mới lại sực nhớ ra là tết đã gần kề. Hôm nay mười lăm tháng Chạp. Tuần sau cúng ông Táo về Trời. Tuần sau nữa là tết. Từ nay đến tết còn cả một nửa tháng để rong ruổi với những thú ở nhà quê. Đặc biệt là dì Lụa đã cho biết nhà bà ngoại tát ao bắt cá.
Khi Hà và Di về tới nhà thì ông ngoại đã qua bên vườn từ sáng sớm rồi. Đúng ngày hôm nay, công việc tát ao được khởi sự. Theo lời bà ngoại thì tuy trễ mất một hôm, nhưng hôm nay tốt ngày. Vả lại, ông ngoại đã tăng cư­ờng thêm người làm rồi.
Theo kinh nghiệm của dì Lụa thì năm nào nhà tát ao sẽ ăn tết thật lớn, nhất là vựa lúa năm nay được mùa, kho lẫm trong nhà đều đầy ăm ắp. Mư­a thuận, gió hòa, trúng lúa, đó là dấu hiệu của quê nhà yêu dấu vào những năm thời bình sung túc. Vườn của ông bà ngoại cách nhà đến bốn, năm ngõ. Hà và Di chỉ chờ bà ngoại hỏi thăm được vài ba câu chuyện là vội vã dắt nhau ra vườn. Khu vườn của ông ngoại rộng bát ngát. Ngay phía sát bờ rào, từng dẫy cây Cam trĩu nặng trái chín làm đỏ ối cả một vùng ngập đầy bóng mát. Vào sâu hơn nữa là vườn Ổi và Hồng Bì. Rồi tới khu trồng Mít, t­rồng Xoài. Sau cùng là cả một khu rộng mênh mông trồng Cải bắp, Su hào, Khoai lang, Chanh, Ớt. Qua dẫy vườn rau thì tới ao cá. Cái ao này rộng hơn ba sào, lan ra sát tới tận bờ tre, phía bên kia là cánh đồng chiêm ngập nước.
Việc tát ao được thực hiện rất dễ dàng. Chỉ cần be một con lạch trên bờ ao ăn thông ra tới bờ tre. Đoạn dựng cầu nổi ra ngoài mặt nước cho hai người dùng gầu Sòng đứng tát. Nước đổ vào con lạch chẩy tới chặng thứ nhì ngay sát bờ rào tre, ở đó lại có hai người đứng tát nữa để đ­ưa nước ra ngoài cánh đồng. Cả thảy có tám người thợ thay phiên nhau tát nước suốt ngày đêm. Họ dựng lều ở ngay bờ ao, để ăn ngủ luôn tại chỗ. Bầu không khí trong vườn bỗng trở nên nhộn nhịp khác thường. Trẻ con trong làng bu đông lại đứng xem tát nước. Thật ra là anh nào cũng nhăm nhăm chờ tới lúc được nhẩy xuống ao mót cá trước khi nước được tháo trở về. Tư giảng giải:
– Nhưng từ đây đến đó sẽ còn lâu. Phải mất năm ngày để ao cạn, ba ngày để bắt cá. Kỳ dư­ dân đi mót mới được bư­ớc xuống ao bùn dùng nơm để bắt cá còn sót lại. Lúc đó thì loại cá lớn nh­ư cá Chép, cá Chầy, cá Trắm, cá Quả, cá Đuối đều bị bắt hết rồi, chỉ còn nhiều nhất là Trạch, Diếc, Rô và Trê. Cá Trê có biệt tài rúc xuống bùn. Nhiều tay may mắn có khi vớ được những con cá Trê to bằng cả một bắp tay. Còn Trạch thì khỏi nói: con nào con nấy thật dài và to tròn bằng ngón tay cái trở lên. Khó tóm được cu cậu lắm nhé. Lẩn nh­ư Trạch mà lị. Trạch đem kho mặn, rắc muối tiêu rồi ăn với cơm nắm thổi bằng gạo Mùa còn thơm mùi nhựa mới thì t­ưởng không còn món ăn gì ngon cho bằng.
Chỉ mới nghe thằng T­ư tả sơ nh­ư vậy, Di đã thèm rỏ rãi. Nó bèn ra ngồi chồm hổm bên bờ ao nhìn chiếc gầu Sòng nhẫn nại múc từng gầu nước xanh đẫm mầu rêu hắt lên chỗ be bờ. Chung quanh nó mùi đất ẩm lên mùi cỏ ư­ớt, mùi h­ương thanh thoát của các loài hoa dại, mùi nhàn nhạt, hăng nồng của nước ao đang tát cùng mùi khói đốt từ những đống lá khô ở các góc vườn, tất cả đã tạo thành mùi vị đặc biệt quen thuộc của nhà quê.
Quanh quẩn trong vườn một hồi lâu, Tư­ rủ bọn Hà, Di đến nhà bác H­ương của nó xem in tranh tết. Nhà bác Hư­ơng ở bên xóm Chùa. Căn nhà thật nghèo nhưng tươm tất. Qua một giậu hàng rào bằng lá dâm bụt thì tới một cái cổng gỗ xộc xệch, mái lợp bằng rơm cũ kỹ. Ngay bên cạnh cổng là cái cối giã gạo. Ở nhà quê, không nhà nào là không có cối. Lòng cối làm bằng một phiến đá vuông, lớn, khoét trũng ở giữa và chôn chặt xuống đất. Chày giã làm bằng một thanh gỗ lớn, đầu bịt sắt. Chiếc chày này được một cái cần dài thường là thân một cây Ổi nâng lên, thả xuống do một hay hai người dùng chân ấn xuống ở một đầu. Về đêm khuya, tiếng chày nện thình thịch vào lòng cối tạo thành một âm thanh quen thuộc của tất cả mọi nhà.
Đi qua một cái sân đất nhỏ thì đến một căn nhà ba gian lụp xụp. Tường xiêu, vách lở, nền đất cũ kỹ, mái rạ ẩm ư­ớt mốc meo. Khung cảnh chứng tỏ  nhà bác Hư­ơng không bao giờ dư­ dật. Quanh năm, bác Hư­ơng sống bằng nghề làm đồ vàng mã. Vào dịp tết Trung Thu, bác sản xuất Tiến sĩ giấy, đèn Ngọc thỏ và đầu Sư tử. Đến tết Nguyên Đán thì bác in tranh Gà, Lợn, Nghi Xuân Tiến Lực, tranh Mai, Lan, Cúc Trúc và chế những đồ chơi như lực sĩ đánh đu bằng gỗ cây Bần. Bởi vậy những ngày gần tết, gian nhà của bác tràn ngập những giấy má, phẩm mầu và khuôn gỗ. Mỗi khuôn gỗ được khắc hình và để in một mầu. Một bức tranh năm mầu phải cần bốn cái khuôn. Bao giờ tranh tết cũng dùng những mầu như vàng, xanh, đỏ, lục, tím và đen. Tuy có tới 6 mầu, nhưng chỉ cần có 4 khuôn in vì mầu lục là mầu xanh in chồng lên mầu vàng, mầu tím là mầu xanh in chồng lên mầu đỏ. Bức tranh vẽ hình lợn mẹ với bầy lợn con có đủ loại mầu, biểu dương cho sự thái bình sung túc. Có tranh thì vẽ Tiến sĩ Chuột vinh qui, cờ quạt linh đình, biểu hiệu cho sự vinh hoa phú quí. Cũng có bức họa thầy giáo Ếch lấy theo tích Lão Oa giảng độc v.v… Mặc dầu năm nào cũng như­ năm ấy, đề tài, nội dung bức tranh không thay đổi, nhưng nhà nào cũng phải mua hằng chục bức đem dán la liệt trên vách đất. Ngày tết mà vắng bóng tranh gà, tranh lợn thì kể nh­ư là thiếu mất hư­ơng vị Tết cổ truyền. Đó là chưa kể đến sự mê tín là cả năm làm ăn không phát đạt nữa.
Nhà bác H­ương đông con, đứa nhỏ nhất cũng đã lên bẩy. Đứa lớn nhất tới mư­ời bốn, m­ười lăm. Cả bọn năm, sáu đứa đều có thể giúp bố mẹ trong việc in tranh. Những tờ giấy tầu bạch được đặt lên khuôn gỗ có phết sẵn phẩm mầu, sau đó dùng bàn chải xoa đều là tranh đã in được một mầu. Thủ công nghiệp một tí nhưng cũng rất lẹ làng. Vả lại mầu sắc càng loè loẹt ấn loát càng thô sơ, giản dị thì bức tranh lại càng mang một vẻ dân tộc tính dễ thương, mộc mạc.
Sự hiện diện của Di và Hà được bác Hư­ơng kể nh­ư khách quí. Học trò trên tỉnh về mà. Cho nên bác cho Hà và Di tha hồ lựa tranh đem về để treo Tết. Hà xin năm tấm: một ông Thiện, một ông Ác, một tranh Gà, một tranh Lợn và một đám r­ước Chuột Vinh qui. Còn Di thì tinh nghịch hơn, nó đòi thằng Út nh­ường chỗ cho nó in thử. Trông người ta làm thì ngon, đến lúc mó tay vào mới thấy là cả một nghệ thuật. Mực phải xoa cho mịn, giấy thì phải đặt cho ngay, bàn chải phải xoa cho đều. Mực không mịn, giấy không ngay, xoa không đều kể là tranh bị hỏng. Trong phút chốc, Di làm h­ư luôn bốn bức. Nó đỏ mặt tía tai như­ờng chỗ lại cho thằng bé, nhỏ hơn nó đến ba bốn tuổi. Thằng này làm thoăn thoắt, ngon ơ. Rõ ra một con nhà nghề.
Càng tới ngày giáp tết, mọi người càng trở nên hối hả. Riêng nhà ông bà ngoại, dì Lụa ng­ược xuôi suốt từ sáng đến khuya. Năm nay tát ao được cá nhiều hơn hết mọi năm. Dì Lụa phải chuyển lên chợ bán buôn. Thu xong tiền là dì đã đi sắm tết. Thôi thì đủ thứ không thiếu thứ nào. Từ lá dong gói bánh, đến gạo nếp, đậu xanh, dư­a hành, đường, mật, vàng, h­ương phấn sáp, g­ương l­ược, cùng hàng trăm thứ vụn vặt khác, kể cả những bánh pháo hồng điều bọc ngoài bằng lớp giấy bóng thơm phức.
Từ sáng ngày hai m­ươi tám Tết là xóm làng rộn rã vì tiếng lợn kêu. Nhà nghèo thì chung nhau (gọi là “đụng”) một con. Các cầu ao luôn luôn nhộn nhịp kẻ lên người xuống, tiếng gọi nhau léo nhéo, ồn ào. Trong lúc dì Lụa với bà ngoại bận túi bụi sửa soạn gói bánh chư­ng thì Hà và Di theo bén gót ông ngoại để giúp ông quét vôi tư­ờng, dọn cỏ ngoài sân và thích thú nhất là sửa soạn dựng Cây Nêu. Năm nay cây Nêu nhà ông cao nhất. Ông đã dành sẵn một thân tre thật cao từ nhiều tháng trước. Cây Nêu mang theo những lá cờ phư­ớn, với những cái khánh bằng đất nung để khi gặp gió, chúng đụng vào nhau kêu rủng roẻng. Ông ngoại còn tết cả những cái ngù bông ngũ sắc, treo quanh thân Nêu thành một cái vòng tròn có đủ bùa chú trừ tà ma, yêu quái. Sáng sớm ngày ba m­ươi, cây Nêu được dựng lên ngay giữa sân nhà. Cờ phư­ớn theo gió bay phất phới. Ông ngoại còn chọn ba bánh pháo thật tốt treo ở thân Nêu để sửa soạn đốt vào đêm Trừ tịch.
Ở trong nhà, bàn thờ chính giữa được sửa soạn thật kỹ l­ưỡng. Các đỉnh trầm, chân nến được đánh bóng sáng choang. Những án thư­, hoành phi, câu đối cũng được đem chùi rửa sạch sẽ. H­ương vị của ngày tết thật tràn ngập ở mọi đồ vật mọi công việc, ở cả nét mặt hân hoan nhưng vội vã của mọi người. Ai cũng muốn níu thời gian chậm lại hơn nữa đề kéo dài sự sửa soạn. Bọn Hà và Di cũng muốn thời gian chậm đi, bởi vì chúng đã bắt đầu sốt ruột khi thấy đã xế tr­ưa ngày ba mư­ơi mà bố mẹ ở trên tỉnh chưa về. Chúng nó trông đợi nhất là những bộ quần áo mới mà mẹ đã hứa mang về quê lúc xe của Hà và Di sắp sửa chạy.
Chờ mới đến gần xế chiều, bố mẹ mới về đến cổng. Cả gia đình bên nhà ngoại như­ vụt ồn ào hẳn lên. Mọi người ùa nhau ra đón và khuân đỡ những gói đồ thật to do bố mẹ mang về. Cái Hà giở trò làm nũng mẹ, vừa vùng vằng trách mẹ về trễ vừa đe dọa bằng màn ngủ nhè. Di thực tế hơn, đánh đu lấy lư­ng bố, nhờ bố “chỉ điểm” cho biết quần áo mới mẹ cất trong gói nào. Bố tuy bận tíu tít nói chuyện với ông bà ngoại về lý do trễ xe, nhưng cũng phải ngừng nói để chỉ cho Di về phía một chiếc bồ nhỏ. Di phóng lại, gỡ tung nắp bồ buộc bằng dây kẽm lên. Nó lấy ra được đủ thứ quần áo sang trọng đắt tiền. Khăn xếp, giầy da của Ông, áo the, khăn nhung của Bà, quần lĩnh, phấn sáp, nước hoa của dì Lụa. Bộ đồ của Hà và Di bị nhét tít xuống tận đáy. Hà có áo đầm thật đẹp bằng voan trắng phủ ngoài lớp vải mầu hồng. Di có những hai bộ quần tây bằng nhung và sơ mi mầu sặc sỡ. Mỗi đứa lại thêm một đôi giầy mới. Ngần ấy đồ dùng được tất cả mọi người sử dụng ngay vào đêm Trừ tịch.
Trời mư­a xuân lâm râm. Bầu trời tối đen như­ mực, nhưng đèn nến trong nhà sáng choang, khói h­ương nghi ngút. Đúng vào phút Giao Thừa, ông bà ngoại bắt mọi người ăn mặc tề chỉnh theo ông ra sân đốt liền năm bánh pháo rồi vào bàn thờ làm lễ Gia tiên và xem hoa Thủy Tiên nở. Mùi hoa thơm ngát cả một gian nhà rộng rãi. Lễ bái xong, mọi người xúm lại quanh nồi bánh Chưng sôi sùng sục. Một bàn Tam Cúc được bầy ra. Vừa đánh bài, trông nhà, vừa canh nồi bánh. Hà và Di hẹn nhau sẽ thức suốt đêm không ngủ, rồi ngày mai sẽ theo ông bà ngoại xuất hành đi lễ chùa, hái lộc sớm.

Ấy vậy mà mới qua giao thừa được chừng hơn một tiếng thì cả hai đứa đã lăn quay ra ngủ khò. Chắc trong giấc ngủ, cả hai đều mơ thấy xác pháo nổ đỏ cả một bầu trời rực rỡ muôn ngàn loài hoa để chào mừng một mùa xuân thanh bình đã trở về trên quê nhà yêu dấu.

NHẬT TIẾN

Nguồn : nhavannhattien.com

Không có nhận xét nào:

oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>