LẠC VÀO HOANG ĐỊA
(Thằng Đôn – một cậu bé, trạc độ 12 tuổi,
đang nghỉ hè ở một trại nuôi gia súc ở Tần gia do ông Mặc Ly làm chủ. Lúc mới
đặt chân tới, cậu ta có vẻ ngỡ ngàng, nhưng về sau nó trở nên bạn thân của cô
bé con ông chủ, tên Bình. Tuy nhiên thằng Bân, anh cô bé, thì trái lại, bao giờ
cũng tỏ ra lạnh lùng với nó. Vào một sáng nọ, ông Mặc Ly có việc cần phải đi xa
vài ngày, đem cả cô Bình nữa. Thằng Đôn ở nhà, buồn vì không có bạn nên nảy ý
nghĩ dùng ngựa mang theo một túi đá đi ra khỏi trại một mình, mục đích cố ý tìm
săn một vài con kangourou vì nó vốn có biệt tài về môn ném đá. Đã nhiều lần nó
biểu diễn tài nghệ đó cho anh em thằng Bân xem, bằng cách nhắm ném đá vào đầu
một con gà giữa sân. Con gà bị vỡ sọ chết ngay! Nhưng không may, cả người lẫn
ngựa mải mê say tìm mồi nên quên lối trở về nhà. Thằng Đôn bị lạc vào trong một
vùng hoang địa có nhiều thú dữ và rắn rết… Lang thang suốt ngày, mãi đến chiều,
nó vẫn chưa tìm được lối về, thì may mắn thay, nó tìm được một con suối và đành
phải ngủ qua đêm trong một hốc cây…)
Tuy mệt nhoài người, nhưng thằng Đôn không ngủ thẳng giấc được, có
lẽ vì quá “lạ nhà”. Nó cảm thấy gân cốt rã rời. Giường ngủ lại là một nền đất
cứng nhắc. Côn trùng chui rúc, bò khắp cả mình mẩy nó. Đêm tối đen như mực, nên
nó không thấy đó là những con vật gì nữa, nhưng đoán chắc thế nào cũng có vài
chú nhện vì loại sinh vật này có rất nhiều ở trong vùng. Có một lúc, nó giật
mình tưởng có con vật gì rơi xuống lưng nó, nhưng không phải, đó chỉ là những
lá vàng hay cành củi khô bị gió quẳng xuống thôi.
Bỗng nhiên, nó cảm thấy rùng mình vì một ý nghĩ vẩn vơ đến với nó
: nó vừa chợt nghĩ đến một con rắn nào đó đang bò vào ổ nằm của nó… Nghĩ đến
đó, thằng Đôn sợ quá không dám cựa quậy, chỉ việc nằm chờ nọc độc rắn cắn vào
một chỗ đâu đó trên thân xác nó. Nhưng không, không có gì xảy ra như nó tưởng
cả. Nằm mãi không ngủ được, nó lắng tai nghe tiếng động ngoài kia đang dội lại
: thôi thì đủ mọi thứ tiếng động, thay đổi nhau hoài và kết hợp lại thành một
thứ âm thanh hỗn độn, khó phân biệt rõ ràng được. Nhưng tâm trạng thằng Đôn
hiện tại là thao thức, khó ngủ. Để giết thì giờ chờ sáng, nó cố lắng tai nghe
những tiếng động thật kỳ dị thốt ra từ đủ thứ động vật : nào là những đàn vạc
đi ăn đêm về, nào là những chú dế mèn, những anh chàng dơi rừng đang bay vụt
trong đêm tối để bắt muỗi mòng. Các chú ễnh ương cũng kêu lên inh ỏi ; thỉnh thoảng
một vài con chim bị động, vỗ cánh bay lên nghe xào xạc. Các côn trùng lẫn dã
thú hình như đã thức dậy và đang bận rộn với những công việc riêng đầy vẻ bí
mật của chúng.
Vừa nhắm mắt được một chốc, thằng Đôn giật mình thức dậy vì hình
như có ai đang chiếu đèn vào mắt nó. Ở đây có một bóng người nào đâu? Hay bé
Bình đến cứu ta? Thằng Đôn dụi mắt, không thấy gì trừ một vài ánh sao chiếu
xiên xuống hốc cây. Nhưng khi đã định thần, nó thấy ngoài kia, trên mảng đất
cằn cỗi, đang có hai vật sáng nhấp nhánh như hai mắt của con chó sói mà nó đã
thấy vẽ trong sách. Hai vệt sáng đang đăm đăm nhìn nó như muốn hỏi thăm điều
gì. Đôn bình tĩnh móc túi cầm 1 viên đá sẵn sàng tự vệ. Nhưng bỗng nhiên người
khách lạ đã biến đi tự bao giờ rồi. Sau đó, Đôn ngồi tựa lưng vào thân cây cho
đỡ mỏi thì lại thấy con ma hồi nãy hình như đang bay lơ lửng trong lớp sương mù
dày đặc, mặt mũi xanh nhạt, trong khi cặp mắt đỏ rực như hai cục than hồng. Lập
tức Đôn nhắm nghiền hai mắt lại. Nhưng khi nó vừa hé mở ra thì vẫn thấy bóng con
ma còn đứng sững trước mặt với hai con mắt đỏ như hồi nãy. Đôn sợ quá phát run
lên, hai hàm răng đánh vào nhau nghe cành cạch. Nó liền vặn mình một cái rồi
lùi xa vào trong hốc cây. Một lát sau, nó mới hoàn hồn, vì nhớ lại có lần bé
Bình nói với nó là trong rừng có một vài loại nấm phồng, mọc bám ở thân cây
khác, có thể chiếu sáng lúc ban đêm một cách kỳ quái như thể nấm được bao bọc
bởi một lớp dạ quang vậy. Nhờ nhớ lại sự cắt nghĩa đơn sơ này mà Đôn bớt sợ hãi
phần nào. Vì thế nó lại tiếp tục ngủ với hy vọng may ra khi tỉnh dậy thì trời
đã sáng rồi.
Nhưng không, khi nó tỉnh dậy, bóng tối vẫn còn bao trùm cả bầu
trời lẫn trong bộng cây – tổ ngủ của nó. Ngoài kia, côn trùng vẫn còn thi nhau
kêu ầm ĩ. Thỉnh thoảng chen vào một vài tiếng rống nổi lên nghe thật rùng rợn.
Một vài con ngỗng trời bay qua đầu nó, tiếng vỗ cánh sạt sạt xen lẫn với những
tiếng kêu nghe thật buồn thảm. Trên trời, tuy ít sao, nhưng nó cũng thấy rõ dải
Ngân hà.
Đôn lại ngủ, tỉnh dậy rồi lại ngủ. Ánh sáng bình minh vẫn chưa
thấy ló dạng. Hình như đêm dài vô tận thì phải. Một cơn gió nhẹ thổi qua lay
động các cành cây, kéo theo hàng ngàn lá vàng rơi bay lả tả, nó nghe rõ mồn một
tiếng xào xạc ngoài khu rừng kia như những tiếng thở dài tiếc nuối của lá trước
khi lìa cành.
Không một tia sáng nào lọt tới, cũng không có một dấu hiệu nào của
bình minh sắp hiện ra cả. Mắt nó tìm ánh sáng, nhưng trong bóng tối dày đặc,
chỉ có ánh sao huyền ảo thôi. Thằng Đôn cố nhắm mắt lại để dỗ một giấc ngủ với
những hình ảnh kỳ dị. Và khi nó tỉnh dậy thì đêm đã đi từ lâu rồi và ngày –
nguồn vui vô tận – đã đến với nó thực sự rồi.
Hình như nó cảm thấy thẹn thuồng vì đã vô tình bỏ quên những tia
sáng bình minh mà nó đã tốn công chờ đợi suốt cả đêm hôm qua. Thằng Đôn cảm
thấy đói, bao tử nó đang cuộn lên đòi hỏi. Tuy không thấy, nhưng nó hình dung
bao tử nó bây giờ chắc không khác gì cây roi da của thằng Bân khi cuộn lại.
Đúng là “kiến bò bụng trạng sư” rồi đây!
Nó uốn mình định đứng lên, bất giác tay nó chạm vào một vật gì
trơn trơn, ươn ướt. Thằng Đôn sợ quá đến nỗi mồ hôi đổ ra lấm tấm trên tay chân
nổi da gà : một con rắn đang cuộn tròn lại ngay khít chỗ nằm của nó! Vừa thấy
bóng dáng con vật, nó vội nhích lùi vào. Con rắn có chiếc đầu hình tam giác và
theo sách vở nó đã học thì đây là một loại rắn độc! Rắn tuy đang nằm ngủ yên,
nhưng Đôn cảm thấy toàn thân như bị tê liệt. Nó muốn đứng dây, chạy thoát ra
ngoài mà hai chân như bị chôn chặt xuống đất, không sao cất lên được. Hai mắt
nó mở ra thật lớn để theo dõi hành động của con vật. Nhưng nó tự hỏi:
- Theo dõi để làm gì trong khi tay chân nó đang bị tê cóng?
Cuối cùng nó đành nằm dài ra đó phó mặc cho “người bạn đồng
giường” muốn làm gì thì làm…
Thằng Đôn đã tự nhủ mình : Thôi ta cứ nằm yên đừng nhúc nhích sợ
con rắn có thể phóng theo thì nguy, nhưng bắp thịt của nó tự nhiên cứ co rút
lại như không muốn nghe lệnh của trí óc nó. Về phần con rắn, nằm yên từ nãy đến
giờ, hình như cũng cảm thấy có một vật gì đang nằm gần mình. Vật đó chắc không
phải là một khúc cây vì nó phát ra hơi ấm! Nó ngóc đầu dậy chồm lên cao hơn và
nhìn chầm chập vào mặt cậu bé. Nó đưa đầu sát vào mặt thằng Đôn đến nỗi thằng
bé thấy rõ hai mắt nó chỉ nhỏ bằng hai hạt cườm là cùng, nhưng xem ra có vẻ sắc
bén và giận dữ. Thằng Đôn thất kinh muốn thét lên rồi nhảy ngay ra ngoài, nhưng
thốt không ra hơi được. Nó không thể làm gì hơn là nằm yên, không dám cử động
gì, sợ con vật tưởng lầm là nó có ác ý gì thì quả là một điều nguy hiểm cho
tính mạng nó. Một ý nghĩ ghê gớm chợt đến với nó : giả sử bây giờ con rắn mổ
vào mặt nó thì ôi thôi! Nó sẽ chết, chết trong sợ hãi, chết trong cảnh cô đơn.
Thật không còn gì thảm thương cho bằng!!!
Nhưng không, số thằng Đôn còn lớn lắm! Chẳng những rắn ta không
cắn mà sau một lúc mặt đối mặt, rắn lại lẳng lặng bò ra ngoài. Hoàn hồn, thằng
Đôn thở ra nhẹ nhõm. Mạch máu nó hồi nãy tưởng chừng như bị đông đặc trong gân
cốt, nay tiếp tục chạy trở lại. Nó không thể tưởng tượng rằng con rắn lại tỏ ra
biết ơn nó đến thế! Biết đâu con rắn này lại chẳng có những tính tốt? Dù sao,
nó cũng đã chịu ơn thằng Đôn, vì suốt đêm qua nó đã được nương nhờ hơi ấm của
thân thể thằng bé. Thằng Đôn chợt có một ý nghĩ ngộ nghĩnh:
- Ít ra mầy cũng phải lễ phép với tao phần nào chứ? Không lẽ lấy
oán trả ơn? Lấy nọc độc trả lễ chủ nhà trọ sao?
Thế là tai nạn nguy hiểm đã qua rồi. Giờ đây, thằng Đôn còn phải
làm gì nữa nhỉ? À! Phải ra khỏi hốc cây chứ, không lẽ ở đây hoài hay sao? Và nó
vội đẩy mấy cành khô về một phía rồi bò ra, trong lòng đang nuôi nhiều hy vọng
là sớm thoát khỏi nơi nầy để về nhà.
*
Sương mai vẫn còn đổ xuống trên những ngọn cỏ non, trên những cành
cây kẽ lá đọng lại thành từng giọt lóng lánh như hạt kim cương. Những sợi tơ
trời còn vương vất đầu cành cây, tạo nên những chiếc võng mong manh xinh xắn.
Chim chóc chào đón nắng mai bằng những giọng hót líu lo. Ngoại cảnh chan hòa
sức sống sau một đêm ngủ ngon lành, khiến tinh thần của thằng Đôn cũng được
phấn khởi. Nó đưa mắt nhìn quanh một vòng như ngóng trông một vị anh hùng nào
đó đang rẽ cỏ tranh đi tới đem nó về nhà. Nhưng có anh hùng nào đâu, chỉ thấy
núi rừng trùng trùng điệp điệp, xanh ngắt một màu.
Thằng Đôn búng tay một cái rồi kiễng chân lên nhìn. Và kìa! Đằng
xa có một lớp bụi mờ đang bay lên thì phải… và một chấm đen hiện ra. Bóng đen
hình như có ý tiến về phía nó và nó đã nhận ra đó là bóng một con ngựa nhỏ đang
chầm chậm trở lại mà trên lưng không có một bóng người! Lạ nhỉ? Con vật hình
như đang cố tìm kiếm người chủ thân yêu của nó. Đúng rồi, con bạch mã của nó!
Nhưng làm sao đuổi kịp nó được? Làm sao kêu nó được? Tuy nhìn thì thấy gần
nhưng ít lắm cũng phải vượt mất mấy giờ đường chứ không phải chuyện chơi! Thôi!
Đành chịu chứ biết làm sao? Một tia hy vọng đến với nó : mọi sự có lẽ sẽ được
như ý, nhờ con ngựa thân yêu này…
Bây giờ, phải giải quyết gấp cơn đói đã : “dĩ thực vi tiên mà”. Nó
đi một quãng khá xa, mục đích là kiếm ít trái cây, chợt nghe tiếng suối róc
rách. Nó liền tiến tới và vì khát quá, nó quên cả rửa mặt, cúi xuống lấy tay
chụm lại uống lấy uống để. Nước thật ngọt và mát lịm. Nó uống ực ực như đứa trẻ
con múc nước đổ vào một cái hang chuột vậy. Nó khát hơn đói. Xong xuôi, nó cầm
một cục đá rúc vào một bụi rậm rình mồi… Nó không chờ lâu : Kìa! Một đàn thỏ
rừng đang đuổi nhau trước mặt không xa lắm. Quan sát một lúc nó nhận thấy có
hai con đang cúi xuống gặm cỏ. Nó vội giơ cục đá lên nhắm. “độp!” Một con thỏ
trắng trúng viên đá ngã lăn ra trên đám cỏ xanh. Nó thầm nghĩ:
- Tiếc quá! Chỉ trúng có một con thôi. Mình đã nhắm hai con cùng
một lúc mà chỉ trúng có một chú thôi? Ồ! Thế thì cũng là may lắm rồi! Đừng
“được voi, đòi tiên” nữa. Nó vội xách chú thỏ lại treo nơi một cành cây để lát
nữa sẽ tính chuyện.
Thằng Đôn vui vẻ bụm tay lại bắt chước tiếng người gọi nhau trong
rừng:
- Hú… Hú… Hú… và những âm thanh đơn độc dội lại. Nó cảm thấy lòng
lâng lâng vì trong đầu óc nó đã có một chương trình vạch sẵn rồi. Trước hết,
cậu bé chạy quanh nhặt nhạnh một ít củi khô chất thành đống rồi lấy diêm đốt.
Sau đó, nó mang chú thỏ lại. Tuy nó chưa hề biết lột da thỏ, nhưng cũng đã có
chút kinh nghiệm quí báu về việc nướng thỏ do thằng Bân dạy cho nó trước đây.
Loay hoay mãi, nó mới dùng dao nhỏ lóc được thịt hai chân sau và
dọc theo bao tử. Tuy không thạo nghề như thằng Bân, nhưng cuối cùng nó cũng đã
lột được bộ da thỏ. Nó đem tất cả xuống suối rửa sơ sài rồi dùng dao mổ bụng
lấy ruột gan bỏ ra ngoài. Vừa hì hục làm nó vừa hát nghêu ngao, ai nghe tưởng
chừng như nó vô tư lắm, nhưng thật sự trong ruột đang rối như tơ vò.
Sau khi củi đã lên lửa ngọn rồi, thằng Đôn bèn dùng que khều ra
một ít than hồng để nướng thỏ. Mùi thơm phưng phức bay lên mũi khiến nó thèm rỏ
dãi. Nó cúi xuống ngửi qua ngửi lại giống như con mèo thử đồ ăn vậy. Mặc dầu
thỏ đã vàng hươm rồi nhưng nó còn cẩn thận trở qua trở lại cho chín đều. Bộ
lòng thỏ cũng được cột nướng cùng một lần. Các miếng ăn béo tốt nầy phải được
xơi trước. Nó dùng con dao nhỏ cắt thành từng miếng bỏ vào miệng nhai ngồm
ngoàm. Nó chưa bao giờ cảm thấy ăn ngon như lúc nầy, phần vì đói, phần vì món
ăn lại quá ngon. Khi thấy bụng bớt cồn cào, nó vội tắt lửa và dùng que khều tro
dập lại để lát nữa nếu cần sẽ dễ nhen hơn.
Tính ra, nó chỉ mới điểm tâm có một đùi sau thôi. Nhưng chừng đó
cũng là quá ngon, chẳng những trong lúc nầy mà kỳ thực, nó cũng chưa bao giờ
được diễm phúc điểm tâm một cách thịnh soạn như vậy. Vả lại, nó cũng cần phải
để dành, đề phòng bất trắc nữa chứ, xơi một lúc hết cả sao được?
Cảm thấy trong lòng sảng khoái, nó chợt reo lên một cách vui vẻ.
Đâu đây, vẳng lại tiếng hót líu lo của một vài con chim chích chòe. Tiếng hót
nghe thật véo von như cùng chia vui với nó. Ăn rồi, thằng Đôn cảm thấy thấm
mệt, mồ hôi đổ ra nhễ nhại, phải ngồi nghỉ một chốc. Sau đó, nó đem phần ăn còn
lại treo lên cành cây và không quên dùng áo sơmi che đậy cẩn thận sợ kiến xơi
hết. Dĩ nhiên, áo sơmi của nó cũng chả lấy gì làm sạch, nhưng cần gì, miễn sao
có thể chống lại sự xâm lăng của đàn kiến tham ăn là được rồi. Xong xuôi đâu
đấy, nó thủng thỉnh xuống suối rửa tay. Vì không có xà phòng, nó phải dùng bùn
và đá để rửa. Đợi một lúc nước suối trong trở lại, nó bụm tay uống vài ngụm cho
đỡ khát.
Bây giờ nó đi quanh quẩn định tìm một cành cây thẳng để làm gậy đi
đường. Trong thâm tâm, nó muốn thực hiện chương trình đã vạch sẵn : sau bữa
điểm tâm sẽ phải tìm lối trở về nhà. Nhưng chợt nó ngồi bệt xuống, hai tay ôm
lấy trán như để tập trung tư tưởng… Bài học hôm qua đã dạy nó biết rằng, con
đường vừa mới được vẽ ra trong trí óc nó, chắc gì đã dẫn nó về đến nơi đến chốn
mà có khi còn bị lạc lối vào sâu hơn nữa. Nhiều khi, leo trèo mệt nhọc suốt cả
ngày mà vẫn không tìm ra lối về nhà, lại còn bị lạc vào một vùng hoang vu hơn
thì quả không còn gì nguy hiểm cho bằng! Nó thầm nghĩ không biết đến bao giờ
mới tìm lại được cánh đồng xanh um mà thường ngày nó với con Bình thả diều,
chơi đùa vui vẻ quên cả đói khát đến nỗi nhiều bữa, người giúp việc phải ra kêu
về. Càng suy nghĩ, nó càng thấy tủi thân! Quay về hiện tại, nó cảm thấy buồn vì
tình cảnh cô đơn, lạc lõng của nó! Nó thầm nghĩ:
- Nếu không tự mình tìm đường về thì rồi sẽ ra sao đây…? Nhưng nếu
bỏ suối này để lên đường tìm lối về, liệu còn may mắn gặp một con suối khác khi
cần nước không? Khi đã xơi hết chú thỏ nướng này rồi đồ ăn kiếm đâu ra? Có thể
nào dùng đá ném chết chim chóc được không? Chắc sẽ không dễ gì đâu! Điều quan
trọng là vấn đề nước uống vì nó vẫn thường nghe thằng Bân nhắc đến mỗi lần đi
rừng : nước uống cần hơn cả thức ăn nữa!
Hôm qua nó đã cố gắng một cách buồn cười và nó đã có kinh nghiệm
quí báu về sự thất bại đó. Vậy thì phải làm sao bây giờ đây? Nó cảm thấy chưa
có lúc nào bối rối như lúc này… Thật là một vấn đề quan trọng mà từ tấm bé đến
rày chưa lần nào nó phải đương đầu cả. Nó biết và hiểu vấn đề vì nó đang hiện
ra rõ ràng trước mắt – vấn đề sống chết – nhưng biết giải quyết làm sao? Nó cảm
thấy mình yếu ớt, bé bỏng và bất lực.
Vậy mà, cuối cùng, bỗng nhiên vấn đề lại được một bàn tay vô hình
nào đó sắp xếp đúng như ý muốn của nó mới kỳ diệu chứ!
Trong khi lang thang, ruột rối như tơ vò, thằng Đôn tìm cách giải
quyết vấn đề nhưng xem ra còn cực nhọc vất vả hơn cả việc tìm kiếm một cây kim
trong đống cỏ khô! Nó lẩm bẩm:
- Không lẽ bây giờ mình cứ ngồi ì ra đây rồi liệu có ai tới cõng
mình về không? Chi bằng ta cứ lượm cây khô chất lại đốt, khói bốc lên may ra có
người nào thấy dấu hiệu chăng?
Và nó bắt đầu hành động…
Chỉ một chốc sau, thằng Đôn kéo được nhiều cành cây chất lại. Củi
khô, chụm thật tốt, nhưng không có nhiều khói. Cậu bé cũng biết vậy, nên nó lấy
nước tưới vào. Bây giờ, gió đã dịu và người ta thấy một cột khói đen đang từ từ
bốc lên, thằng Đôn xoa tay bằng lòng…
Bỗng có tiếng động dội lại. Không, đúng ra thì đó là những tiếng
kêu khàn khàn, cộc lốc, thô lỗ, khiến nó phải ngẩng đầu lên. Kìa, nhiều chú vẹt
đang vắt vẻo trên cành đa, trông thật đẹp mắt : mồng đỏ, bộ lông đen mượt, mỏ
cong và dài. Xem chúng có vẻ hãnh diện lắm. Chúng tỏ vẻ thích thú khi nhìn
thằng Đôn hì hục ôm từng nắm củi quăng vào đống lửa. Cứ xem chúng đang làm
những điệu bộ kỳ quái thì rõ : mắt thì nhìn ngang, nhìn dọc, đầu cúi xuống,
thỉnh thoảng lại ngước lên trao đổi với nhau vài tiếng khàn khàn. Giả sử, hôm
qua mà đàn vẹt nầy tới chào đón nó thì chắc sẽ làm nó buồn lắm. Vì nó thường
nghe người ta nói là vẹt hay đem lại điềm xui xẻo. Nhưng hôm nay thì khác hẳn.
Mọi sự đã gần như tốt đẹp theo chương trình của nó. Giờ đây, chẳng còn điều gì
làm cho nó áy náy cả. Bởi thế, nó đâm ra có thiện cảm với với những chú vẹt
ngây ngô kia.
Thằng Đôn thấy khói đã lên nhiều rồi bèn lại ngồi lên một phiến đá
gần đó chờ đợi. Nhìn cột khói càng lúc càng bốc lên cao, thằng Đôn nhớ lại cách
đây không lâu, cô bé Bình đã kể cho nó nghe về kinh nghiệm của dân bản xứ,
thường làm dấu hiệu để nhận nhau khi bị lạc đường, bằng cách đốt lửa có khói
đen nhiều, nhưng phải làm sao cột khói bị đứt quãng, chứ không phải liên tục.
Tại sao họ phải làm như vậy? Bé Bình giải thích rằng, họ muốn cho người khác
nhìn thấy cột khói mà không nghĩ lầm đó là một đám cháy rừng. Điều đó xem ra
hay hay… Vậy thì nó cũng phải làm sao tạo thành những đám khói đứt quãng để dễ
đập vào mắt người khác. Nghĩ thế rồi, nó lấy một cành cây có lá xanh tươi, đem
nhúng nước và nắm một đầu thật chắc hất qua hất lại trên đống lửa : kết quả đã
tạo thành những khoảng trống giữa cột khói. Nhìn những đám khói tròn, to đang
lơ lửng bay lên tận trời xanh, nó mỉm cười đắc thắng và tin tưởng.
Mặt trời hình như càng lúc càng lên cao và thời gian vẫn lặng lẽ
trôi qua. Thằng Đôn cảm thấy cần phải nghỉ ngơi đôi chút để lấy sức kẻo chân
tay đang bị ê ẩm. Ngày càng lên dần, nắng càng gay gắt hơn. Ve rừng, côn trùng
đang thi nhau kêu ầm ĩ. Hai mắt nó bỗng nhiên thấy nặng chĩu, có lẽ vì đêm vừa
qua mất ngủ nhiều. Nó tựa lưng vào một gốc cây ngủ gà ngủ gật. Được một chốc,
nó giật mình tỉnh dậy. Tự nhiên nỗi chán chường lại đến xâm chiếm tâm hồn nó.
Nó tự hỏi tại sao lại lạc vào miền hoang vu nầy và nó cảm thấy nó thật cô đơn!
Đàn vẹt đã bay đi tự bao giờ để cành đa trơ lại uốn cong dưới sức
nắng như thiêu như đốt của một buổi trưa hè. Thằng đôn ước mong sao nghe được
một tiếng người, chỉ một tiếng thôi cũng đủ làm cho nó mát ruột rồi. Lâu nay,
sống trong những khu phố chật hẹp, tai nó nhiều khi đau nhức vì tiếng người,
nhưng bây giờ nó lại cần được nghe tiếng người để sưởi ấm nỗi cô độc mà không
sao có. Nghĩ thật tội nghiệp…
Đồ ăn chỉ còn vỏn vẹn lại một đùi thỏ bữa ăn trưa, vì còn phải để
dành nữa chứ? Chú thỏ bây giờ trông thật bé nhỏ, không to lớn như khi vừa mới
bị bắn. Cho nên, nó càng phải dè sẻn, ăn từ từ…
Thấm thoát, chiều đã xuống từ lúc nào mà nó không hay biết. Bóng
mặt trời đã ngả hẳn về Tây. Nó cầm một viên đá đi quanh quẩn may ra giết được
con chim nào chăng. Chợt nó thấy một con chim cu rừng vừa bay tới đậu nơi cành
cây trước mặt, cất giọng gáy nghe thật buồn bã! Thằng Đôn mừng hết sức. Nó bước
nhè nhẹ lại gần một gốc cây đối diện, lấy đà ném thật mạnh, nhưng chim đã vỗ
cánh bay cao trước khi viên đá vụt đến!
*
Cho đến xế chiều hôm đó, thằng Đôn vẫn chưa thấy một bóng người
nào đáp lại dấu hiệu cột khói của nó cả! Nó cảm thấy thất vọng hoàn toàn, vì
đêm đang xuống dần! Nỗi lo âu, nỗi nhớ nhà đang xâm chiếm tâm hồn nó và ý nghĩ
: phải tìm đường về nhà, lại thôi thúc nó hơn bao giờ hết. Nó lẩm bẩm:
- Một liều, ba bảy cũng liều! Đến đâu thì đến!
Nhưng nó lại e rằng vượt qua khỏi khu rừng thưa nầy, biết đâu lại
chẳng lạc vào sâu và gặp nhiều nguy hiểm hơn? Lúc nầy, hai ý nghĩ trái ngược
hình như đang tranh giành ảnh hưởng trong tâm hồn cậu bé. Nó như chim chuyện
chuyện lạc vào rừng hoang, không biết đâu mà tìm ra lối về cả : nhìn đâu cũng
chỉ thấy toàn là cây với cỏ! Không còn gì khổ sở cho bằng!
Đêm đã xuống thật sự rồi, thằng Đôn đành lủi thủi nhặt cây làm
giường ngủ. Để sửa soạn một giấc ngủ yên tĩnh và an toàn hơn hôm qua, nó lấy
cây, cột lại thành một hàng rào đem đặt ngay trước bộng cây hy vọng chận rắn
rít đêm đêm mò tới.
Mặt trời đã chìm hẳn xuống sau những rặng núi tận phía Tây xa tít.
Cảnh vật thật ảm đạm thê lương. Thằng Đôn tuy cũng lo âu vì phải trải qua một
đêm hãi hùng nữa, nhưng nó vẫn nuôi hy vọng sáng ngày mai sẽ trở về nhà và sẽ
gặp lại những người thân. Ôi! Còn gì sung sướng cho bằng! Ý nghĩ đó hâm nóng
tâm hồn nó. Tự nhiên, nó trở nên hăng say làm việc, dù thân xác nó đang mệt
nhoài sau một ngày chờ đợi vô ích!
Nó nhai vội một ít thịt thỏ, phần còn lại vẫn được treo cẩn thận
trên cành cây như cũ.
Sau đó, nó lại chất thêm củi vào đống lửa để làm hiệu, vừa để sưởi
ấm. Vì mặt trời đã đi ngủ hẳn từ lâu rồi, tuy trời hãy còn sáng, nhưng không
khí trở nên lạnh hơn. Chim chóc đang giành nhau sửa soạn chỗ ngủ. Thằng Đôn lại
chất củi vào thêm. Lửa và khói lại thi nhau bốc lên vùn vụt. Nó vẫn không nản
chí tuy suốt ngày đã tốn bao nhiêu công
lao rồi mà vẫn không nhận được kết quả nào.
Hoàng hôn nơi hoang vu thật là buồn bã chen lẫn nỗi ghê rợn. Thằng
Đôn dùng một cành củi đỏ rực để lục soát lại chỗ ngủ xem có con rắn rít nào
không. Ánh sáng đi đến đâu, bóng tối lùi đến đó và cuối cùng lại xâm chiếm và
bao trùm lấy toàn thân của nó.
Nó cảm thấy mình bất hạnh quá…!
Chợt nó nghe có tiếng chó sủa… Nhưng nó không dám tin vào thính
giác của mình, có lẽ vì quá lo hay quá mừng, cũng không biết nữa. Và tiếng chó
lại sủa. Một con chồn chăng? Hay tiếng bắt chước chó sủa? Nó vội lủi về phía
bộng cây lấy mấy cục nhựa thông quẳng vào đống lửa cho lửa ngọn bốc cao hơn, rồi
bắt tay lên miệng:
- Hú… hú…
Tuy nó chưa hú thành thạo như các tay nhà nghề, nhưng nghe cũng
không đến nỗi kém lắm. Trong thâm tâm, nó hy vọng may ra tiếng hú vang dội đến
nơi có tiếng chó sủa nếu quả có thực.
Bỗng từ phía ngọn đồi trọc, có tiếng dội lại:
- Tu-oa… tu-oa… tu… oa…
Đúng là tiếng tù và chứ không phải tiếng dội lại của tiếng hú hồi
nãy đâu. Cột khói của nó đã có vị anh hùng nào thấy rồi chăng? Thằng Đôn cảm
thấy hồi hộp quá! Sự tin tưởng đó đem lại cho nó một nguồn vui không bút nào tả
xiết. Nó mừng đến nỗi, nước mắt chảy ra ràn rụa lăn tròn trên hai gò má từ bao
giờ nó cũng không hay biết.
Thấy lửa có phần tàn, thằng Đôn vội khiêng ngay hàng rào cây vừa
chế tạo hồi chiều vất ngay vào đống lửa. Ngọn lửa liếm thật nhanh và chẳng mấy
chốc cháy sáng rực cả một góc trời. Và qua ánh lửa, Tôtô – con chó cưng của
thằng Bân – hiện ra một cách lẫm liệt, đuôi ve vẫy… Tôtô nhảy chồm đến trước
mặt cậu bé và giỡn cợt bằng cách lượn qua lượn lại. Thỉnh thoảng, nó lấy hai
chân cào xuống đất tỏ dấu mừng rỡ. Thằng Đôn vui sướng quá chạy lấy phần thịt
thỏ còn lại chia cho Tôtô một ít vì nó nghĩ chẳng cần để dành nhiều làm gì nữa.
Tôtô vội ngoạm lấy miếng thịt tha đến một gốc cây. Trong khi con Tôtô đang cúi
đầu nhai xương, thì bỗng từ đâu, Bân ngồi trên mình ngựa oai phong vạch lá tiến
tới đứng cạnh đống lửa. Bóng người lẫn ngựa in đậm hình trên nền đất cằn cỗi.
Trông dáng thằng Bân thật có vẻ rừng rú. Nó lặng yên một lúc lâu rồi cất giọng
khàn khàn hỏi:
- Ê! Mày đi đâu để bị lạc vậy? Có sợ không? Ba tao đang nóng ruột
vì mày lắm đó, cả con Bình cũng vậy nữa!
Dù giọng Bân có vẻ càu nhàu, nhưng cũng làm cho thằng Đôn cảm thấy
an ủi nhiều lắm. Thế rồi, trước đôi mắt ngạc nhiên của thằng Đôn, thằng Bân để
tay lên nón, rút ra một con dao nhọn sáng choang, chẳng biết để làm gì. Cặp mắt
Bân long lanh và sáng rực đang mở to như hai mắt ếch như muốn thu vào nhiều
hình ảnh trong một màn kịch : hốc cây với đám lá chết trải làm giường, đống lửa
đỏ rực những than hồng, những cành cây khẳng khiu trụi lá, đen kịt vì khói… Nó
lẳng lặng tiến về phía cành cây có treo miếng thịt thỏ, tay giật xuống dùng dao
cắt bỏ vào miệng nhai một cách ngon lành. Xong xuôi, nó quay lại hất hàm hỏi:
- Nước uống đâu mậy?
- Dưới kia có một con suối nhỏ. Chính vì nó mà mấy lần lên đường
tìm lối về, tôi vẫn lưỡng lự, nhất là sau khi thịt được một chú thỏ.
- Với tài ném đá à?
Thằng Đôn nhỏ nhẹ đáp:
- Vâng, tôi nhắm con vàng, nhưng lại trúng con trắng cạnh đó!
Bân chậm rãi tiến về phía đống lửa. Trông hắn ta thật to lớn và
đẹp trai thật, nhưng dáng dấp đầy vẻ rừng rú.
Bân dõng dạc ra lệnh:
- Thôi, sửa soạn về nhà đi! Nhưng mầy hãy kể qua loa cho tao nghe
tại sao mầy đi lạc vậy? Đêm qua mầy ngủ ở đâu?
Thằng Đôn lần lượt kể lại từ đầu không bỏ sót một chi tiết nào. Dù
sao nó cũng cảm thấy hãnh diện về những cố gắng của nó để tìm cách thoát khỏi
nơi đây.
Nghe xong, Bân gật đầu:
- Khá lắm! Mầy không còn là một thằng bé sặc mùi thành phố nữa
đấy! Bắt tay mầy một cái!
Nói rồi, nó đưa tay ra nắm lấy bàn tay nhỏ bé của thằng Đôn lay mạnh.
Tuy vậy, Bân cũng dọa dẫm:
- Tao cho mầy hay : Không phải vùng hoang vu nào cũng yên hàn như
thế này cả đâu. Rất nhiều vùng, nếu không may mầy lạc vào sẽ bị thú dữ vồ ngay.
Số mầy cũng còn hên đó, chứ khi tao thấy dấu hiệu cột khói của mầy, tao cứ ngỡ
là có đám cháy rừng gần đâu đây!
Thằng Đôn nóng lòng:
- Thế bao giờ “người anh hùng” về nhà?
Nó cũng đánh trúng tâm lý của thằng Bân đấy chứ! Vì thường Bân
cũng thích lối xưng hô kiêu kỳ như vậy.
Bân vẫn không chú ý:
- Đêm qua tao biết, nhưng tao không thể làm gì được vì tao đang bị
cảm sốt. Bởi thế từ sáng sớm, tao vội lên đường. Tao cũng hỏi mấy người xung
quanh, nhưng không ai biết mầy đi đâu, đi về phía nào và đi từ bao giờ cả. Tao
hết sức bực mình nhưng nay thì hết rồi.
Ngẫm nghĩ một chốc, Bân lại tiếp tục, giọng nói có vẻ cảm động:
- Tao cũng lấy làm buồn, vì từ lâu nay, tao không mấy thích mầy.
Nay tao đã hiểu rõ mầy rồi. Để bù lại, ngày mai tao sẽ dạy cho mầy cách bắn ná,
bẫy chim, chứ tài ném đá thì chả bao giờ trúng được chim!
Thằng Đôn sung sướng:
- Thật không anh Bân?
- Sao lại không thật?
Sau đó, Bân vui vẻ bảo:
- Thôi! Bọn mình về đi kẻo ba má và em Bình trông! Tội nghiệp!
Thằng Đôn ngây thơ hỏi:
- Có thể về kịp ngay trong đêm nay không anh Bân nhỉ?
- Chắc là kịp!
- Nhưng mà còn đống lửa kia, phải dập đi đã chứ?
Thằng Đôn vội xuống suối lấy nước lên tưới. Thấy một vài chỗ lửa
chưa tắt hẳn, Bân dùng giày hất đất dập lên rồi quay lại bảo Đôn:
- Mặc áo vào đi mầy, có đồ gì thì lấy mau rồi ngồi lên đây.
Vừa nói, Bân vừa chỉ lên phía sau yên ngựa và xoay mình một vòng
thật đẹp nhảy lên phía trước.
- Nhảy lên đây mầy, ôm chặt lấy tao nha!
- Tôtô! Đi trước mầy!
Bân giật mạnh dây cương và cả người lẫn ngựa lên đường. Thằng Đôn
ngồi phía sau, hai tay ôm ngang người Bân. Chúng nó tiến vào những bụi rậm, chỗ
hôm qua thằng Đôn bị lạc : Xung quanh bóng tối dày đặc bao phủ…
Thằng Đôn không ngờ rằng đêm nay lại có một cuộc hành trình thú vị
như thế nầy. Cả người lẫn ngựa tiến bước mãi : lúc trèo lên những mỏm đồi cao,
lúc tuột xuống những thung lũng sâu… Con ngựa thật dai sức, mắt tinh như mắt
mèo, nó phi nhanh như vậy mà không hề vấp váp một tí gì. Đường sá không gồ ghề
lắm nhưng rất nhiều cành cây nhỏ rơi xuống đầy đường.
Thằng Đôn cảm thấy sung sướng và thầm phục thằng Bân sát đất, chẳng
những nó thông thuộc đường sá mà còn điều khiển dây cương một cách tài tình
trong đêm tối trời như thế nầy.
Cả bọn vẫn tiếp tục đi trong bóng đêm dày đặc…
Xa xa, thằng Đôn đã thấy sao Mai ló dạng, sáng chói bên cạnh muôn
vàn tinh tú khác. Thằng Đôn nghĩ thầm chắc là sắp về đến nhà rồi vì cứ nhìn
hướng thì thấy rõ. Mọi khi nó vẫn thường dậy sớm và kêu bé Bình ra sân coi vì
sao sáng có cái tên đẹp đó mà! Vả lại, hôm qua, nó đi từ trại gia súc đến chỗ
bị lạc cũng lâu bằng từ khi lên ngựa với Bân đến giờ chứ gì! Nhưng khi thấy Bân
vẫn chưa cho ngựa chậm bước thì nó ngạc nhiên hỏi:
- Sắp về đến nhà chưa anh Bân?
Bân mỉm cười trong đêm tối:
- Nếu chưa thì chắc bọn mình còn đang quanh quẩn trong vùng hoang
vu đấy!
Giọng điệu nghe có vẻ mỉa mai, nhưng thật ra thằng Bân không có ác
ý gì. Và bây giờ, ngựa chỉ còn phi những bước nhỏ và khi đi ngang qua đồng cỏ
nhà thì thằng Đôn sung sướng reo lên như vừa thấy mẹ đi chợ về:
- A!... Đến nhà rồi!
Bân vội nhảy xuống ném mạnh chiếc dây cương qua hàng rào dâm bụt. Thằng
Đôn cũng tuột xuống theo.
Cho đến giờ phút nầy, thằng Đôn vẫn không ngờ rằng nó đã về đến
nhà – ngôi nhà thân yêu mà nó nóng lòng muốn gặp lại từ hai ngày nay.
Nó thỏ thẻ:
- Anh Bân à! Nhiều lúc em y hệt như điên vậy anh nhỉ?
Giọng thằng Đôn như tắc nghẽn vì quá cảm động.
- Thôi, quên đi mầy!
Bân vừa nói vừa nâng hai vai thằng Đôn lên một cách thân mật:
- Tao rất vui thấy mầy đã về nhà bằng yên. Ai trong nhà nầy cũng
đều không muốn thấy mầy bị hoạn nạn. Ba tao thương mầy cũng như con cái trong nhà
vậy, vì mầy cũng dư biết ba tao xưa kia đã chịu ơn ba mầy rất nhiều, trong
những ngày còn nghèo khổ… Còn con Bình, lại càng không muốn xa mầy vì trong
trang trại nầy, nó chỉ thấy có mình mầy là bạn thân với nó thôi. Nó còn thương
mến mầy hơn cả tao là anh ruột của nó nữa, vì cái dáng tao bề ngoài có vẻ dữ
tợn. Vả lại, tính tao không ưa được những chuyện nhõng nhẽo con gái. Mầy không
thấy con Bình thường gọi tao bằng cái hỗn danh “người rừng” đó sao? Còn về phần
tao, từ nay, tao rất có thiện cảm với mầy vì mầy là một thằng bé bình tĩnh và
can đảm.
______________________________________________________________________
______________________________________________________________________