TÁC PHẨM
ĐOẠT GIẢI NHẤT VĂN CHƯƠNG 1974 CỦA TRƯỜNG SƯ PHẠM SÀI GÒN
Tác giả : BÙI QUANG TRIỀU
“Tác giả Bùi Quang Triều đã giới thiệu với chúng ta nếp
sinh hoạt của vùng quê miền biển. Những bức tranh tả chân rất linh động, những
nhận xét về người, về cảnh, về địa lý, vạn vật, lịch sử xen kẽ với câu chuyện
bố trí thành những tình tiết hấp dẫn và hào hứng. Lời văn thuật sự và đối thoại
giữ nguyên giọng quê nên gây được không khí lạ và sống động vô cùng”
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ
PHẦN MỞ ĐẦU
Trời đã bắt đầu nóng, từng
cụm mây nhỏ lửng lơ trên cao tít, gió không còn mang cái giá rét của tháng
Chạp. Ngồi trong lớp học mà trí óc thằng Đông để đâu đâu. Phải mà! Ngày mai nhà
trường tổ chức buổi lễ cuối năm, Đông đang lo nghĩ cách xin phép về quê Nội
chơi. Chậc! Về dưới ấy thì phải biết, có khối đồ chơi ra đấy! Nào diều, bắn
chim, bắt cua… thứ nào cũng hấp dẫn. Tiếng thầy Khiết kêu làm Đông giật mình,
trông thầy hôm nay hiền từ lạ, như mọi khi thì biết… Thầy đang dặn dò lũ trẻ về
những nghi thức cho buổi lễ ngày mai. Tiếng trống trường ngắn gọn vang lên, lũ
trẻ ùa ra cổng, có lẽ trong đầu chúng đang phác họa những cuộc đi chơi cho ngày
hè.
Buổi lễ cuối năm sao mà lâu
quá, Đông mong cho chóng hết. Chú Bỉnh mới lên đây buổi sáng, chiều chú về. Ba
má (luôn cả Đông nữa) năn nỉ chú ấy ở lại vài bữa, chú viện lẽ phải về để cày
kịp mấy thửa ruộng bỏ dở. Nói lắm chú mới chờ Đông làm thằng nhỏ không kịp vui
với món quà được lãnh thưởng trong tay.
Rồi buổi lễ cũng xong, Đông
ù ra khỏi cổng gặp ngay chú Bỉnh đang chờ, tay chú dính đầy dầu máy, dường như
chú đã đi lấy đầu máy cày đặt sửa hồi sáng thì phải. Đông thót lên chiếc xe
Honda của chú, hai chú cháu tiến từng thước một trong hàng học sinh dày bịt.
Đồng hồ gõ hai tiếng khô
khan, Đông nhỏm dậy lay chú Bỉnh, nãy giờ nó có ngủ được đâu, chú Bỉnh hẹn nó
hai giờ về mà. Chú ú ớ ngồi dậy, nhướng cặp mắt nhìn Đông cười mỉm, chú đã đi
guốc trong bụng thằng bé rồi. Bởi vậy động tác nào của chú cũng chậm chạp như
muốn trêu Đông. Mãi đến 2 giờ 30 hai chú cháu mới ngồi yên trên chiếc xe đò
trực chỉ xứ Gò Công. Quê Nội của Đông, nơi mà xưa kia có ông Trương Công Định
chống Pháp thật oanh liệt, lừng danh trong sử sách với “Đám lá tối trời”.
•
PHẦN I
BUỔI ĐI CHƠI ĐẦU TIÊN
Tiếng động cơ nổ ròn làm
Đông thức giấc, chú Út bên cạnh vẫn ngủ say. Ngoài kia chú Bỉnh đang lái máy
cày ra ruộng. Đêm qua, Đông thức quá khuya để nói chuyện với ông bà Nội và các
cô chú nhưng vẫn thức sớm có lẽ lạ nhà. Đông kéo chân chú Út, chú lăn qua và
ngủ nữa.
Bên ngoài bà Nội đang cho gà
và bồ câu ăn lúa. Những chú bồ câu xinh xinh luôn lẩn tránh chú gà trống oai vệ
và bác vịt xiêm nặng nề. Đông ra giếng, miệng giếng sâu thẳm, nước giếng thơm
mùi rong và đất. Cô Tám đang dọn bữa cháo sáng cho cả nhà. Cha! Cháo trắng ăn
với cá bống kho tiêu thì tuyệt, chỉ có về đây Đông mới được ăn món này. Thường
ở trên nhà, sáng Đông chỉ ăn bánh mì hay xôi. Nồi cháo to hết rất chóng, bà
nhìn Đông cười, chắc bà cười thằng cháu háu ăn đây.
Ăn sáng xong chú Út rủ Đông
đẩy xuồng đi đốn dừa nước. Chú rủ thêm thằng Mễn và Tèo. Bồ nhà của Đông từ mùa
hè năm trước, trông chúng đen ghê! Cái tài bắn ná của Tèo không tên nào qua
được. Thằng Mễn là chúa lặn sông. Có lần nó dám lặn qua chiếc ghe chài to.
Riêng Đông món này đành chịu, rủi nửa chừng mất hơi phải đội cả chiếc ghe thì
khổ.
Bốn đứa chèo ghe ra gần phía
Vàm, nơi có từng đám dừa nước xanh um, những quài dừa trĩu trái. Bửa ra, lớp
cơm dày mọng nước thật ngon. Đám bè bạn ở thành phố của Đông dễ gì ăn được thứ
này. Thằng Mễn níu lấy cành lá giơ ra ngoài, tay kia cầm mác phóng lên bờ cùng
chú Út. Đông không quen đường phải ở lại giữ ghe cùng tèo. Nhìn vào khoảng tối
âm u trong đám lá Đông thấy sợ. Gớm thiệt! Hèn gì ông Trương đã chẳng sợ võ khí
tối tân của Pháp, đóng đô trong “Đám lá tối trời” gây kinh hoàng cho Pháp mấy
năm trường. Đương miên man suy nghĩ, Mễn đã lù lù ra, vai vác quài dừa to
tướng, chú Út cũng vậy. Cả hai xuống chiếc tam bản, Mễn bảo:
- Ê! Tụi mình chèo ra đầu
Vàm tắm nghe bây?
Tèo phụ họa:
- Ừ! Ra ngoải tao bắn bần
cho thằng Đông lé mắt chơi.
Chiếc ghe ngược giòng nước
ra đầu Vàm. Cây bần lớn hiện ra đầy những trái. Bốp! Bốp! Hai viên đạn đất của
Tèo bắn rớt ba bốn trái bần, chìm lỉm, chú Út la:
- Thôi, đừng bắn nữa thằng
khỉ, bắn chìm không vớt được đâu, để tụi tao leo sướng hơn.
Xuồng cặp vào một nhánh bần,
chú Út cùng thằng Mễn phóng lên. Từng trái bần rớt xuống khoang ghe, bần này
chấm muối ớt thì phải biết. Bỗng có tiếng thét của chú Út, kế đó hai tiếng
“bũm, bũm” vang lên, mặt sông đầy kiến vàng. Tèo hoảng hốt chống xuồng ra giữa
sông. Mễn và chú Út lội theo, tay phủi đầu lia lịa, chắc hai cu cậu đã đụng
nhằm ổ kiến vàng. Nghĩ tới kiến vàng Đông phát sợ, thứ gì dại ghê, đụng phải
vật lạ là bu lại, lớp chích lớp xịt nước chua để rồi chết.
Hai nạn nhân đã ngồi an toàn
trên xuồng, mặt mày trông thật khó coi, chú Út bảo Tèo:
- Tèo, mày chẻ cho ta vài
trái dừa giải độc coi.
Tèo giành lấy con dao, biểu
diễn một đường, trái dừa được chẻ thật đều, miếng cơm trắng trông thật hấp dẫn.
Cả 4 đứa ăn lấy ăn để, chiếc xuồng không người lái xuôi theo giòng nước. Đến
lúc trên xuồng chỉ còn hai cùi quài thì xuồng cũng tới nhà. Mặt trời đã giữa
đỉnh đầu, chú Bỉnh đang chờ hai chú cháu của Đông về dùng bữa.
•
PHẦN II
SĂN KỲ ĐÀ
Sáng hôm nay Đông nao nức
lạ, chẳng gì chú Bỉnh rảnh, rủ ông già
Bảy đi săn kỳ đà. Mấy bữa rày Đông theo chú Út bắn chim riết cũng chán, tính
Đông vẫn thích việc lạ.
Bốn chú chó săn được chú
Bỉnh huýt sáo dẫn xuống xuồng. Ông già Bảy cụ bị sẵn sàng : mác, lao, bùi nhùi, diêm… và
một gói thuốc rê. Xuồng hôm nay được chèo tới ba mái nên đi khá nhanh, Đông
ngồi không nghịch với chiếc thuyền bằng bập dừa cột phía sau.
Mắt trời mọc đỏ ối, bầu trời
trong sáng, đi săn được như vầy thật may. Qua xóm nhà của tụi thằng Tèo, chú Út
dừng chèo lấy tay làm loa hú vang. Một chiếc xuồng nhỏ trong ụ phóng ra, Tèo và
Mễn như hai tay đi rừng thiện nghệ : áo kaki ngắn tay, quần dài. Thật là đúng
điệu! Chỉ có áo ka ki mới chịu được gai góc trong khu rừng đầy chướng ngại. Hai
chiếc xuồng hùng dũng tiến lên, thằng Mễn biểu diễn tài lái ghe bất hủ : Khi
lượn bên này, khi đâm qua kia, có lúc nghiêng hẳn xuồng đi, nó nhìn nét mặt
nghệch ra của Đông mà cười nắc nẻ.
Khu rừng thấp như tiến gần
lại, chú Bỉnh cho xuồng vào một lạch nhỏ, thằng Mễn neo 2 xuồng lại gần nhau.
Mọi người đem tất cả dụng cụ lên bờ, phận sự của Đông là cầm túi bùi nhùi và
diêm quẹt. Ông già
Bảy mang cái mác cán dài, lưỡi xanh nước thép. Chú Bỉnh vác ngọn lao đuôi én
trông thật oai. Riêng Mễn, Tèo, chú Út trông coi 4 chú chó săn chạy lúp xúp
phía trước. Rừng chỉ toàn cây nhỏ như : Giá, chà là, bàng… với nhiều đường mòn
ngang dọc. Càng vào trong, rừng càng yên lặng, Đông chỉ còn nghe tiếng thở của
lũ chó săn mồi. Đông ở lại sau cùng với ông già Bảy và chú Bỉnh, nó nhìn nước
da đỏ quạch của ông mà thèm, trông ông giống dân da đỏ ghê! Ông cầm mác mà lụi
thì phải biết, cọp cũng ngán chớ đừng kể kỳ đà. Ý nghĩ này làm Đông hừng chí
tiến ngang hàng để nhìn khuôn mặt nhăn nhúm của ông qua làn khói dày đặc.
Tiếng chó sủa gần mé sông
Cái vẳng lại dồn dập, gấp rút báo hiệu gặp thú rừng. Ba ông cháu chạy tới
trước, gặp thằng Mễn đang chạy thụt mạng. Vừa thở hào hển, nó vừa ra dấu bằng
hai tay, chú Bỉnh hỏi lớn:
- Kỳ đà hả?
Mễn chỉ kịp gật đầu, chú và
ông Bảy phóng nhanh tới trước, Đông chỉ còn kịp thấy chiếc khăn vằn của ông Bảy
thấp thoáng trong rừng cây.
Lúc Đông đến nơi, chú Bỉnh
đang điều khiển lũ chó tấn công con mồi : Một chú kỳ đà thật to. Con kỳ đà màu
da xanh sậm dựa lưng vào gốc cây, đưa mắt ngơ ngác nhìn lũ chó hung hãn. Cứ mỗi
lần nó muốn phóng ra vòng ngoài thì lại gặp chú chó táp tới. Lũ chó săn thật
khôn, cứ một con xông tới cắn, 3 con còn lại đứng bao vây vòng ngoài. Chú kỳ đà
đưa mắt ngó quanh, bỗng “sạt”, bất ngờ con vật phóng xuống lòng rạch đẩy một
chú chó ngã lăn quay, chú Bỉnh phóng lao theo, ngọn lao chỉ trợt ngoài làn da
nhám dầy của con thú. Bốn chú chó phóng xuống, sình lầy làm khoảng cách kỳ đà
và chó xa lần. Ông Bảy ngoắc chú Bỉnh
chạy lúp xúp bên bờ rạch, vừa chạy vừa dọa dẫm con thú, bọn trẻ nhỏ rớt lại
phía sau. Mấy đứa chạy đến nơi để vừa thấy kịp chú kỳ đà nằm gọn trong bộng
cây, chỉ ló ra ngoài khúc đuôi đầy gai. Lũ chó lông toàn sình đưa mắt nhìn
người chủ, ý chờ lệnh tấn công con thú trong đường cùng.
Ông Bảy thở ra khoan khoái,
từng săn giống này nên ông biết rõ lắm. Cứ bình tĩnh theo dõi, lúc quá mệt
giống thú này sẽ chui đầu vào một hốc nào đó, chỉ ló đuôi ra ngoài như chú đà
điểu miền Phi Châu khi gặp sư tử. Ông lội xuống lòng rạch, chú Bỉnh theo sau,
bọn trẻ ở lại vuốt ve lũ chó. Ông nắm chặt đuôi đầy gai của con thú ghì mạnh,
con thú không nhúc nhích, thình lình con vật bị đẩy mạnh vào trong hốc và lẹ
như chớp ông lão kéo ra thật nhanh. Bị gạt, con thú búng 4 chân trên không,
chưa kịp hoàn hồn, chú kỳ đà bị người khác đè xuống sình, tréo hai chân trước
lại, vô phương vùng vẫy.
Chú Bỉnh mừng rỡ la lối inh
ỏi, trong phút chốc chú kỳ đà đã bị trói gọn lỏn, ông già
Bảy khen:
- Cha! Chú này mập dữ a!
Mười ký sấp lên chớ không ít đâu.
Thằng Mễn phụ họa:
- Vậy là chiều nay có món
cháo kỳ đà phải hôn ông Bảy? Mặc tình ông nhậu.
Chú Út khen thêm:
- Ông
Bảy giỏi thiệt ta! Cháu tưởng vuột rồi chớ.
Vẻ mặt ông lão rạng rỡ hẳn
lên.
Chú Bỉnh đề nghị:
- Thôi mình đi bắt ong luôn
đi ông Bảy.
Ông lão gật đầu, đưa mắt ra
hiệu chú Út dẫn đường, chú ấy đã gặp tổ ong to nhân khi đi kiếm cây với ông
Nội. Mọi người chuyện trò vui vẻ sau những giờ căng thẳng, lũ chó săn cứ mãi
theo sau chú Bỉnh nạt nộ chú kỳ đà thất thế.
Chú Út bảo mọi người dừng lại trước lùm cây, vài chú ong
mật bay ra vào qua kẽ lá. Ông Bảy xua
bọn trẻ ra xa, lấy túi bùi nhùi của Đông, chậm rãi trùm vào đầu chiếc bao bố to
dày có khoét hai lỗ nhỏ. Trông ông lúc này thật buồn cười, đốt cây đuốc bằng
rơm của mấy đứa nhỏ đưa cho, tay còn lại cầm mác chặt những dây leo chắn lối.
Ông lão chui vào lùm cây, đàn ong túa ra rần rộ, chúng bay vần vũ trên lùm,
tiếng vo ve nghe mồn một. Nháy mắt, ông đã ra ngoài tay bưng thúng, miệng luôn
thúc bọn trẻ chạy nhanh. Đàn ong túa theo một khoảng, không làm gì được với tấm
bố dày đành quay về. Tới gần xuồng ông để thúng xuống : một tổ ong to tướng.
Mật ong tươm ra, mùi thơm ngào ngạt, vài con nhộng trắng nõn ngo ngoe. Chú Bỉnh
sang tổ ong qua cái thau sạch, ông già
Bảy dùng dao cắt một miếng vắt mật rồi đưa cả miếng tổ ấy (trong có những con
nhộng trắng nhởn) nhai nhóp nhép khen:
- Thơm quá! Ăn đi tụi bây,
bổ lắm, tổ ong đúng lứa khó tìm lắm đấy.
Cả bọn ngồi xuống, chú Bỉnh
vắt xong miếng nào là phân phát cho mấy đứa. Đông ăn thử : bùi, béo. Ý! Ngon
thiệt vậy mà trước kia cứ sợ, uổng ghê!
Mọi người dọn lao mác xuống
xuồng, con kỳ đà nằm bên xuồng thằng Mễn để tránh lũ chó. Hai chiếc xuồng tiến
song song, trên gương mặt ai cũng vui vẻ nghĩ đến bữa cháo kỳ đà béo bổ buổi
chiều.
___________________________________________________________________
Xem tiếp Phần II
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 125, ra ngày 1-6-1974)