Thứ Năm, 13 tháng 6, 2013

Những Tháng Ngày Hè (II)


Tác giả : BÙI QUANG TRIỀU 



PHẦN III

LÊNH ĐÊNH TRÊN SÔNG


Từ sớm đến giờ, cùng thả diều với chú Út mà hồn thằng Đông để tận đâu. Nó mãi ngóng bé Trúc : cô em họ. Bé Trúc của cô Ba, em kế ba Đông, bé nhắn với cô tám sẽ về ngày hôm nay. Nghĩ đến bé Trúc, Đông mỉm cười sung sướng. Cô bé về Đông được lên chân, ở đây tuy được mọi người chìu chuộng nhưng Đông không ham. Nó muốn làm oai cơ! Nó đã là anh cả của bốn đứa em chứ đâu ít! Cô bé Trúc về Đông sẽ có người để săn sóc, cũng là dịp để cu ta biểu lộ tính anh hùng.

Một chiếc xe hàng đổ ngay đầu con đường làng, Đông nhìn kỹ, ồ bé Trúc kìa! Cô bé trông xinh tệ, chiếc áo dài màu vàng cũn cỡn bao lấy thân hình thấp chủm trông đáng yêu ghê. Tay mang túi xách, mắt bé đảo quanh tìm người nhà. Không kịp thâu diều, Đông hấp tấp chạy ra miệng la bài hãi:

- Bé Trúc! Chú Út ơi! Bé Trúc về kìa!

Mới vắng có mấy tháng, Đông thấy bé lạ đi. Nhà cô dượng Ba ở mãi vùng vườn miệt Kiến Hòa, anh em chỉ được gặp nhau vào những ngày Giỗ, Tết. Đông ngạc nhiên:

- Ủa! Trúc về một mình được sao?

Giọng cô bé tự phụ:

- Chớ sao, bé còn đi về nội được nữa kìa!

Tuy nói vậy, cô bé vẫn kể chuyện chuyến đi cho Đông nghe : nhân có người đi ngang qua đây, ba má gửi bé theo. Đông giành lấy túi xách, hai anh em đi về phía cổng nhà, chú Út và cô Tám đang đón sẵn. Mỗi người hỏi bé một câu khiến nó phát lo dùm:

- Thôi, Trúc mệt đó, cô Tám đừng hỏi nữa để Trúc nghỉ mà.

Có tiếng bà nội rầy yêu:

- Thằng sao hôm nay cưng em quá vậy! Mọi lần gặp nhau là cứ cãi lộn…


Vừa mở mắt ra Trúc đã đòi đi câu. May quá! Hôm nay chú Bỉnh rảnh, hôm qua chú ráng sức cày xong thửa ruộng nhà, về lúc đỏ đèn. Gặp Trúc chú mừng lắm, trông cô bé xinh xắn ai lại chẳng thương.

Chú sửa soạn lại chiếc xuồng máy, châm xăng nhớt. Ra sông lớn phải cẩn thận như vậy, sóng to chẳng biết đến lúc nào, vả lại bé Trúc không quen đi xuồng nhỏ, trông mặt nước lé đé be xuồng bé đã chóng mặt.

Tiếng máy nổ nghe ròn rã, chiếc xuồng chở đầy dụng cụ đi câu vọt nhanh tới trước, hướng về đầu Vàm. Chú Út trổ tài coi lái, chú giỏi ghê! Trạc tuổi Đông mà chú hơn Đông về mọi phương diện trừ việc học, chẳng qua chú là học trò trường quận. Chú Bỉnh căng lều, chiếc lều bằng vải ka ki xanh được trương lên bởi những cong sắt dài phồng mình trước gió. Ngoài hướng sông cái, Đông thấy được những cột buồm cao khỏi ngọn bần của mấy chiếc tàu buôn. Dần dần, những thân tàu đồ sộ hiện ra trước mắt. Mấy chàng thủy thủ trông như những con kiến đang dùng khăn vẫy lia lịa. Chú Bỉnh bớt ghe máy, xuồng từ từ tiến chậm ra khỏi Vàm, trượt trên giòng nước ngầu đục của con sông. Chú sửa soạn thả câu, một cái phao màu đỏ được liệng xuống, thả từ từ dây câu mang lưỡi móc mồi tôm xen lẫn với phao và neo sắt. Phao để làm dấu đường câu, neo sắt để móc dây câu chìm lơ lửng đáy sông. Đường câu được chấm dứt bằng một phao to trên có gắn lá cờ tam giác đỏ dùng làm hiệu tàu bè qua lại.

Chú Út quay đầu xuồng vào miệng Vàm, nấp bóng dưới tàn cây. Bữa ăn sáng được dọn ra, nồi cơm nếp với gói muối mè. Cả bốn thanh toán mau chóng. Chú Bỉnh lấy ra 4 cần câu để dưới sạp xuồng, từng con tôm được móc vào lưỡi câu để đổi lấy những chú cá chốt mập mạp, những con tôm càng đỏ những gạch. Quái! Trong khi hai chú giựt lia lịa thì Đông và bé Trúc ngẩn ngơ. Chú Út chê nặng bóng vía, không câu được. Đông chịu, chẳng biết có đúng không. Buồn tình, Đông nhìn qua bên kia sông, rừng chà là hiện ra xanh mướt dưới ánh sáng buổi sớm. Ông Nội bảo hồi trước ông Cố ông Sơ đi khai đất hoang ở đó. Những đám cốc kèn, bần con, chà là được bàn tay cứng chắc của người nông dân tiền phong dọn sạch. Từ đám rừng ngập nước vô tích sự, chúng đã trở thành những thửa ruộng phì nhiêu, những giồng khoai đầy củ. Họ nào có chống chọi với thiên nhiên không đâu! Trên rừng cọp và beo rừng vẫn thường rình phá hoại, dưới nước sấu chực sẵn chờ mồi. Những trận đánh nhau giữa cọp và người được loan truyền từ đời này sang đời khác. Dần dần nhờ ý chí cương quyết, trí óc khôn ngoan, họ đã đẩy dần thú dữ vào trong rừng sâu, ruộng rộng ra mãi, rộng mãi… đến lúc thú dữ cảm thấy không còn chỗ dung thân phải tìm đường lánh nạn. Lớp bị người đánh đuổi, lớp bị thiên nhiên bạc đãi, giờ đây những thú dữ ấy gần như mất hẳn. Công việc khó khăn này trải từ đời này sang đời khác biết là bao công lao, biết là bao xương máu.

Tiếng reo của bé Trúc làm Đông bừng tỉnh, chú cá đối to đang dãy dụa dưới sạp xuồng đè lên mớ cá tôm câu được. Khá ghê ta! Bao nhiêu đây về ăn hàng mấy ngày chớ ít gì. Mặt trời đã lên cao, mọi người cảm thấy nóng. Chú Bỉnh xếp cần câu lại, mở máy tiến ra cái phao đỏ ngoài sông. Chú phăng lần, phăng lần… có vật gì động đậy làm căng sợi dây câu. Ô! Một chú cá ngác đen sì, lại thêm những con cá út miệng tác hoác. Đông và bé Trúc vỗ tay reo ầm ĩ, dễ gì được thấy cảnh này. Riêng chú Út nheo mắt nhìn Đông ra vẻ ta đây đã biết quá thừa. Mặc, Đông vẫn vui cười khi thấy chú cá vẫy vùng đầu nhợ. Con cá ngác cuối cùng nhỏ tí, chú Bỉnh thả nó trở lại giòng sông. Bàn tay chú đầy nhớt cá, Đông thấy phục chú ghê, về Saigon phải khoe tụi thằng Tấn cho tụi nó nể chơi.

Chiếc xuồng được mở máy quay mũi về hướng Vàm, để lại đàng sau làn nước trắng xóa. Đông ngó về phía biển, hàng đáy san sát lẫn nhau mang những chiếc lều con bạn thân nhất của lũ chim bồ nông, già đảy. Xa hơn nữa, núi Ô Cấp hiện ra mờ mờ, vài chiếc tàu đang tiến vào sông nhả từng cuộn khói đen trên nền trời xanh ngát.


PHẦN IV

NHỮNG CHÚ CHUỘT ĐỒNG


Sau buổi đi câu đầy hứng thú, Đông bị bó chân ở nhà. Những cơn mưa đầu mùa chợt đến không báo trước. Bé Trúc mãi tíu tít với dì Tám nên không thấy sốt ruột. Riêng Đông chán lắm, nói chuyện với các cô chẳng thích tí nào, ở nhà Nội Đông chỉ hợp với chú Út, chú Bỉnh. Ba hôm nay ông Nội và hai chú đem chiếc máy cày xuống làm ở vịnh Xiêm Ưng, bên bờ sông Cái. Sáng đi sớm, chiều tối mịt mới về. Đông nhiều lần xin theo Bà không cho, hỏi chú Út có gì vui không, chú nhe hàm răng trắng ởn cười cười. Chú nói nào muỗi, rắn và đỉa nữa (chú biết Đông vốn sợ đỉa). Mỗi lần về chú mang trên vai những xâu nhái bầu kêu la ồm ộp. Nhái bầu nấu canh bù ngót hay kho tiêu thì ăn bằng thích.

Mưa mãi rồi cũng có lúc tạnh, nắng đến gắt như bù lại những lúc bị mây bao phủ.

Có vậy chứ, thằng Mễn hôm nay rủ mình đi đào chuột đồng kia mà. Tiếng thằng Mễn réo:

- Đông ơi! Đông! Đi mày.

Mới nhắc thì nó đến, hay ghê. Đông nhìn ra ngõ, thằng hôm nay ăn bận lạ : chiếc quần kaki cắt tới đầu gối, chân mang giày lính cột dây chuối, tay cầm dao, vai mang giỏ tre. Đông với vội cái cuốc bươn bả đi ra cổng, Bà nhắc Đông:

- Đội nón vô con.

Cầm chiếc nón từ tay bà trao, nó cười với bà, ngoắc bầy chó đi ra cổng. Đứng cạnh bên thằng Mễn có cả cu Tèo, lại có thằng Ngọng ở cạnh nhà nữa. Bé Trúc ngó theo Đông lè lưỡi, con vật bé sợ nhất là chuột, trông bộ lông đen xỉn cũng đủ ghét, lại còn tiếng kêu nữa chứ, cái gì mà cứ: Chít! Chít! Chẳng ra gì cả.

Con đường làng đã ráo nước, bên cạnh đường những ngôi nhà lá xinh xắn với hàng rào me keo tươi xanh sau trận mưa. Vài thửa ruộng cao chưa cày xanh những cỏ. Một lũ trẻ trạc Đông lật rơm tìm dế. Đông chẳng bao giờ chơi loại dế này, chúng nhát lắm, đá nhau vài cái là chạy. Những chú dế ở đất nẻ mới hăng, anh hùng mới ở riêng một cõi chứ lỵ!

Mễn ngoắc Đông:

- Xuống đây nè mày.

Nó rẽ xuống bờ ruộng, thằng làm bộ đàn anh:

- Nếu mày sợ thì đứng đó chơi nghe không. Đi bậy nó té một cái là rồi.

Thằng Ngọng không nói được rõ ràng cũng quơ tay, miệng nói (thực sự là la) một tràng dài không có phụ âm đầu, trông “đía” lắm.

Cáu tiết, đông vượt tới trước. Đây rồi! Một hang chuột to, lũ chó tràn tới sủa “ẳng, ẳng”. Đông đưa thằng Mễn cái cuốc. Mấy nhát cuốc đầu làm bật mạnh cái hang. Một ngách, hai ngách… có tới 5 ngách, lũ chuột khôn thiệt, hèn gì… hang chuột ngắn dần lại, Mễn la to:

- Tụi bây coi chừng!

Phập! Nhát cuốc cuối cùng thật mạnh, lũ chuột phóng ra ngoài, nhanh như chớp đám chó săn phóng tới như luồng gió, chúng cắn từng con chuột đem lại Đông, một vài con thoát chui vào hang bên cạnh. Giọng thằng Mễn to nhất:

- Nhanh! Chận đầu kia, đập! Thằng Ngọng chậm quá, phụ nó Tèo. Rồi, được rồi, chục trự là ít.

Thằng Ngọng tay đập miệng la những tiếng ngắn đục, trông nó mà bắt cười. Tèo nhanh như sóc, đập con này hụt, trở gậy con khác, lũ săn thật giỏi.

Chưa đầy hai tiếng đồng hồ, giỏ tre đầy những chuột. Thủ lãnh Mễn ra lệnh lui quân. Mễn kéo cả bọn đến nhà ông già Bảy, ông ta thấy được mớ chuột mắt sáng hẳn lên. Ông kéo rơm ra sau hè, để chuột trên những vỉ kẽm gai, thui sống. Tiếng lửa nổ lép bép nghe thật vui tai, mùi lông chuột pha với mùi rơm quyện lên từng vòng trong không khí. Lửa tàn, những chú chuột vàng bóng hiện ra. Tiếng ông Bảy tiếc rẻ:

- Cha! Lúc này nó chưa mập, phải vài tháng nữa thì biết.

Tèo phản đối:

- Đâu được ông, phải bắt trước để dọn đất gieo mạ chớ. Năm ngoái mạ nhà bị chúng cắn ráo nạo, giận ghê!

Quả thật, lũ này ác lắm, lại không tổ. Mồi pha thuốc độc chẳng bao giờ ăn. Chúng chỉ thích thân mạ ngọt mềm. Đám ruộng nào có chúng thì khổ, sáng ngày chẳng còn gì. Mà chúng ăn hết cho cam, chỉ cắn ngang, lớp ăn lớp bỏ, thấy mà đứt ruột.

Ông già Bảy sắp lũ chuột vào trong rổ, đem ra bờ ao. Loáng mắt, ông đem lên một rổ thịt trông phát thèm, tối nay ông già nhậu cho đã, chuột này đem quay chảo thì phải biết… Ông già bảo mỗi đứa lấy một mớ. Ba thằng lắc đầu, riêng thằng Ngọng thích lắm : ba nó vốn là dân bợm nhậu.

Nói chuyện một lúc, mấy đứa chia tay, Đông về nhà, ông Nội và hai chú vẫn chưa về. Mùi xào nấu từ nhà sau xông lên ngào ngạt, có tiếng cười của bé Trúc, tiếng cười thật trong trẻo, thật dễ thương.
___________________________________________________________________
Xem tiếp Phần III


(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 126, ra ngày 1-7-1974)

Bìa của Vi Vi : Hương đồng nội


oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>